Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Phẩm “Tín Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

15/08/202009:30(Xem: 7766)
26. Phẩm “Tín Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

Phẩm Tín Thọ_photo



PHẨM “TÍN THỌ”

Phần giữa quyển 426, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm "Chư Thiên Tử" cuối Q.81 đến đầu Q.82, Hội thứ I)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước




 


 

Tóm lược:

 

(Thiện Hiện vì hữu tình nào vui thuyết pháp nào?)

 

Khi ấy, các Thiên tử lại khởi nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện nay muốn vì những hữu tình nào vui thuyết pháp nào?

Cụ thọ Thiện Hiện biết ý của các Thiên tử, liền bảo rằng :

- Các Thiên tử! Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng vui thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Các Thiên tử! Như vậy, kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe, không hiểu, không sở chứng vậy.

Khi ấy, các Thiên tử liền hỏi lại rằng:

- Người nói, người nghe và pháp thuyết ra đều như huyễn như hóa như mộng ư ?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Như vậy! Như các ngươi đã nói: Hữu tình như huyễn, vì kẻ như huyễn, nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, nói pháp như hóa. Hữu tình như mộng, nói pháp như mộng.

Các Thiên tử! Chỗ thấy ngã cho đến kiến giả như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy sắc cho đến thức như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn cho đến ý như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy sắc cho đến pháp như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn thức cho đến ý thức như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn xúc cho đến ý xúc như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nội không cho đến vô tánh tự tánh không như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng như huyễn như hóa như mộng. Như vậy, cho đến chỗ thấy quả Dự lưu cho đến quả A la hán như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy Độc giác Bồ đề và Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nay Tôn giả chỉ nói ngã thảy sắc cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng, hay cũng nói Niết bàn như huyễn như hóa như mộng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Các Thiên tử! Chẳng những chỗ nói ngã, sắc cho đến Vô Thượng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng, mà cả đến Niết bàn tôi cũng nói như huyễn, như hóa, như mộng. Các Thiên tử! Nếu còn pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi cũng nói là như huyễn như hóa như mộng. Vì sao? Vì huyễn hóa mộng cùng tất cả pháp cho đến Niết bàn thảy đều không hai, không hai phần vậy. (Q.426, ĐBN)

Bấy giờ, Xá Lợi Tử, Đại Mục Liên, Chấp Đại Tạng Mãn Từ Tử, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Ca Diếp Ba thảy các Đại Thanh văn và vô lượng trăm ngàn Bồ Tát hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Đã thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm, khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu như thế, thì ai có thể tín thọ được?

Khi ấy, A Nan Đà nghe lời hỏi kia, liền bạch các Đại Thanh văn và các Bồ Tát rằng: Các Bồ Tát Bất thối chuyển đối với Bát nhã Ba la mật đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây, có khả năng thâm tín thọ trì được. Lại có vô lượng các A la hán đã thấy Thánh đế, hiểu rõ tận nguồn các pháp sâu xa, sở nguyện đã mãn, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đã nói đây cũng có khả năng tín thọ.

Lại có vô lượng Bồ Tát quá khứ đã ở trăm ức chỗ Phật gần gũi cúng dường, phát thệ rộng lớn, trồng nhiều cội đức, đối với Bát Nhã thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây cũng có khả năng tín thọ được.

Lại có vô lượng các thiện nam, thiện nữ quá khứ đã ở vô số chỗ Phật phát thệ rộng lớn, trồng các căn lành, huệ thông, được bạn lành nhiếp thọ, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu cũng khả năng tín thọ được. Vì sao? Vì những người như thế chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt sắc cho đến thức. Cũng chẳng đem sắc cho đến thức mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa.

Như vậy, chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ, bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn; quả Dự lưu cho đến quả A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hữu vi giới vô vi giới. Cũng chẳng đem nhãn cho đến vô vi giới mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa.

Bởi nhân duyên này, những người như thế đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây đều có khả năng tín thọ được.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử rằng:

- Như vậy! Đã nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu, chẳng phải chỗ suy tầm, vượt cảnh suy tầm, trong ấy thật không có kẻ năng tín thọ. Vì sao? Các Thiên tử! Vì trong đây không có pháp để hiển thị, đã thật không pháp hiển thị, nên kẻ tín thọ thật chẳng đắc được.

Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Trong giáo pháp Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã nói đây, sao không rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa, nghĩa là nói pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa? Sao chẳng rộng nói Bồ Tát đạo nhiếp thọ các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến Thập địa, tức là nói bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; bốn niệm trụ cho đến 18 pháp Phật bất cộng; tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn? Sao chẳng rộng nói việc thù thắng của thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát, tức là nói Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này siêng năng tu hành, nên tùy theo chỗ mà hóa sanh, không mất thần thông tự tại du hý, khéo thông đạt được vô lượng pháp môn; từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; tùy theo sở nguyện ưa thích các thứ căn lành, đều có khả năng tu hành chóng được viên mãn; ở chỗ chư Phật, lắng nghe Chánh pháp, thọ trì cho đến khi đắc Vô Thượng Bồ đề, thường chẳng quên mất; hằng ở trong thắng định lìa tâm tán loạn, lấy đây làm duyên nên được biện (tài) vô ngại, biện không dứt hết, biện ứng, biện nhanh, biện không sai lầm, biện các điều diễn thuyết đầy đủ nghĩa vị, biện tất cả thế gian rất thắng diệu?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Như vậy! Thật như đã nói, đối với giáo pháp Bát Nhã thậm thâm đây, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói giáo pháp tương ưng Tam thừa. Cho đến rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát. Cho đến khiến được biện tài tất cả thế gian rất thắng diệu. Lấy vô sở đắc làm phương tiện, lấy vô sở đắc làm phương tiện đối với những pháp nào? Đó là đối với ngã cho đến người thấy, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối sắc cho đến thức lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn cho đến ý lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn thức cho đến ý thức lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn xúc cho đến ý xúc lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng lấy vô sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Vì nhân duyên gì đối với giáo pháp thậm thâm Bát nhã Ba la mật đây lấy vô sở đắc làm phương tiện rộng nói pháp tương ưng Tam thừa? Vì nhân duyên gì đối với giáo pháp thậm thâm Bát nhã Ba la mật đây lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nên đối với giáo pháp thậm thâm Bát Nhã đây lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp tương ưng Tam thừa, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Tín Thọ” của Hội thứ II mở đầu với câu nói của Thiện Hiện: “Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng vui thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Các Thiên tử! Như vậy, kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe, không hiểu, không sở chứng vậy”.  

 

1. Như thế nào là: “Hữu tình như huyễn, như hóa như mộng…

nói pháp như huyễn, như hóa, như mộng?

 

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 28, “Huyễn Nhân Thính Pháp”, tập 3, quyển 54, trả lời rằng:

“Trước đây đã nói rõ rằng hết thảy pháp đều là như huyễn, như hóa, chẳng có người thuyết, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết. Do vậy, chư Thiên khởi tâm nghi, nghĩ rằng nếu như vậy thì hạng người nào mới nghe được pháp mà ngài Tu Bồ Đề đang thuyết?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Người như huyễn, như hóa mới nghe được pháp này. Chư Thiên lại nghĩ rằng: Hạng người nghe pháp mà ngài Tu Bồ Đề đang thuyết phải như thế nào, mới có thể tương ưng, mới có thể tín thọ, dẫn đến mới có thể tu hành được đạo quả?

Ngài Tu Bồ Đề khẳng định: Chỉ có người như huyễn, như hóa mới nghe được pháp tôi đang thuyết, và họ sẽ tương ưng tu tập thành đạo quả.

Hỏi: Người như huyễn, như hóa chẳng có các tâm và tâm sở, họ chẳng có tín thọ được pháp. Như vậy thì nói pháp để làm gì?

Đáp: Đây chẳng phải khiến người huyễn hóa nghe pháp, mà chỉ muốn dạy người tu hành phải dụng tâm “vô sở đắc” để hành các pháp, ví như huyễn hóa chẳng có nghe, chẳng biết, chẳng chứng vậy.

Lại nữa, vì ngã và chúng sanh như huyễn, như mộng, nên người thuyết pháp cũng như huyễn như mộng. Người thuyết pháp đã là như huyễn, như mộng, thì người nghe pháp, người biết pháp, người hiểu pháp cũng như huyễn, như mộng.

Lại nữa, sắc…, dẫn đến Niết Bàn cũng là như huyễn, như mộng.

Sở dĩ, Kinh so sánh người tu hành như huyễn như hóa như mộng vì mục đích của Kinh Bát Nhã muốn dạy người tu hành phải dụng tâm “vô sở đắc” để hành các pháp, ví như huyễn hóa chẳng có nghe, chẳng biết, chẳng chứng vậy”. Vã lại, muốn có chứng có đắc là còn sở đắc, thì không thể tương ưng với Bát Nhã nữa.

Tất cả triết lý của phẩm “Huyễn Nhân Thính Pháp” nằm ở chỗ này.

 

2. Thế nào là: Kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe,

không hiểu, không sở chứng vậy?

 

Tại sao “chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt sắc cho đến thức? Cũng chẳng đem sắc cho đến thức mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa”?

Bởi vì, sắc cho đến thức là pháp thế gian, là Tục đế. Đó là pháp vô thường, biến hoại, sanh diệt, chỉ do duyên hòa hợp, giả có v.v… không thể đem pháp ấy mà so với Thánh pháp.

Không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng, xa lìa là pháp xuất thế gian, là Chân đế, là đệ nhất nghĩa.

Kinh cũng bảo rằng: Không có pháp thế gian thì không có pháp xuất thế gian, nghĩa là không có Tục đế thì không có Chân đế. Vậy, Chân đế chẳng khác Tục đế (đối với Bát Nhã Ba La Mật, thì “chân – tục” song dụng chẳng phải hai, chẳng phải khác). Trong Chân đế hay Thắng nghĩa đế không phân biệt, chỉ có ai thông đạt Bát nhã Ba la mật mới hiểu nghĩa này, nên mới có khả năng tín thọ pháp. Kẻ sơ cơ (mới phát tâm) khó thấy khó giác.

Bát Nhã không kêu gọi, không hiển lộ, khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu, chẳng phải chỗ suy tầm, vượt cảnh suy tầm. Hành giả Bát Nhã phải tự mình lặn sâu vào chỗ thâm cùng của trí năng, đào xới bới vỡ những giáo nghĩa hay những pháp nghĩa hiển hiện của nó, kẻ hời hợt chẳng thể tín thọ được.

 

Vì vậy, khi nói không những người thuyết pháp, người nghe pháp như huyễn như mộng mà cả pháp được thuyết cũng như huyễn như mộng… Nhưng đó không có nghĩa là “không ngơ”, chẳng có gì hết, nên không cần tín thọ. Khi người thuyết người nghe vô sở đắc, pháp được thuyết được nghe cũng vô sở đắc, không chấp không đắm, lấy vô sở đắc làm phương tiện cùng hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí “rộng nói pháp tương ưng Tam thừa, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến chư vị được biện tất cả thế gian rất thắng diệu”.

Đó là lý do khi nói pháp, khi nghe pháp, và chính pháp được nghe phải xem như huyễn hóa dù là pháp đem lại nhiều công đức thắng diệu nhất như Niết bàn. Lìa chấp, lìa đắm, không năng sở, không buông bắt nắm giữ, tung hứng nữa thì mới có tự do trong tư duy và hành động, mới có thể tín thọ phụng hành, bằng ngược lại thì tất cả đều như huyễn như mộng cả!

 

---o0o---

 


 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/03/2011(Xem: 5417)
The Buddhist Channel is pleased to present to you the last book written by the late Chief Ven. Dr K Sri Dhammananda. To fulfill the wish of the late venerable, this e-Book shall be distributed free of charge. Please help to fulfill his wish by forwarding it to as many people as you can.
19/02/2011(Xem: 12765)
Hết lòng trân quí và ghi nhớ ân đức sâu dầy của sư Sán Nhiên đã biên soạn và hiệu đính tập sách này, cũng như đã hoan hỷ cho phép Hội Thiện Đức ấn tống nhằm góp phần vào công cuộc hoằng hóa Phật pháp đem đến lợi lạc cho nhiều người. Hội Thiện Đức xin biết ơn sự ủng hộ tinh thần và tán thán sự phát tâm đóng góp tịnh tài của quý Phật tử và ân nhân cho công trình ấn tống này. Xin tri ân chị Thân Thục & anh Thân Phúc đánh máy tập sách; anh Thân Hòa trình bày sách bao gồm thiết kế bìa sách; anh Chúc Giới, anh Thiện Tánh, cùng anh Chúc Tùng cung cấp tài liệu và hình ảnh; Tâm Hân Huệ thỉnh ý sư Sán Nhiên; chị Tâm Thiện, chị Chơn Hạnh Bạch, chị Diệu Âm, Thân Hồng, cùng anh chị Lê Lộc (Lancaster, PA) phụ giúp sổ sách, liên lạc, và kêu gọi cho quỹ ấn tống.
22/01/2011(Xem: 14650)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ 04 được tổ chức tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc
10/01/2011(Xem: 51980)
Website Liên Kết từ Trang Nhà Quảng Đức
13/12/2010(Xem: 10282)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
10/12/2010(Xem: 11626)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
09/11/2010(Xem: 7257)
Các Sa-di-ni thân mến, Chọn “đi tu” làm Sa-di-ni (P. Sāmaṇeri, S. Śrāmaṇeri, 沙彌尼), sau đó, làm Thức-xoa (P. Sikkhamānā. S. Śikṣamānā, 式叉摩那),[1] Tỳ-kheo-ni (P. bhikkhuni, S. bhikṣuṇī, 比丘尼), các con đang đi theo lý tưởng cao cả và hạnh nguyện độ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các Thánh tăng trong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này. Sa-di-ni có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaṇa, 沙門). Các Sa-di-ni tuổi thiếu nhi được gọi là “cô tiểu” ở miền Nam, hay “cô điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc. Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩ vô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, cách tu tín ngưỡng và ép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đường tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.
08/10/2010(Xem: 5303)
Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo[1] vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.
20/09/2010(Xem: 6351)
ĐứcThế Tôn thường nói: “Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là 'Cái này khôngphải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã củatôi.'” Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao tư tưởng vô ngã lại được diễn đạt như là hệ quả từ thực tế khổ? Lý do để giải thích có thể rút ra từ Tiểu kinh Saccaka (Cūḷasaccaka Sutta), Trung Bộ kinh... Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
28/06/2010(Xem: 18974)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567