Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận 08. Thế Nào Là Thông Đạt Bát Nhã?

12/04/202119:23(Xem: 6633)
Luận 08. Thế Nào Là Thông Đạt Bát Nhã?

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


buddha-564

 

III. PHẦN THỨ III TỔNG LUẬN:

 

TÁNH KHÔNG BÁT NHÃ

(Với những nguyên lý chỉ đạo của nó)

 

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

LUẬN #8. THẾ NÀO LÀ THÔNG ĐẠT BÁT NHÃ?

 

 

Ở trên có đặt câu hỏi thế nào gọi là Bát Nhã và làm sao nắm bắt được Bát Nhã(Luận #5)? Câu trả lời là muốn nắm bắt Bát Nhã thì phải lập phương tiện và phải thỏa mãn một số điều kiện khác kèm theo nữa(Luận #6) thì mới có hy vọng Giác ngộ, đạt Chánh giác và đắc Nhất thiết trí trí(Luận #7). Khi chứng đắc ba mục tiêu đó rồi, lúc đó mới có thể nói là thông đạt Bát Nhã(Luận #8). Vậy:

 

1. Thế nào là thông đạt Bát Nhã hay thông đạt tuệ?

 

Đây là vấn đề chính, vấn đề sinh tử của hành giả Bát nhã Ba la mật. Mục đích của việc tu hành là Giác ngộ, đạt huệ hay nói khác là đạt Bát Nhã Trí hay Nhất thiết trí trí và sang được bờ kia. Một khi đạt được trí này thì có thể hóa độ chúng sanh. Nhưng câu hỏi được đặt ra trong mục này là: Nếu cái gì cũng không, thì làm sao thông đạt Bát Nhã?

Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 593, Hội thứ XVI, ĐBN trả lời rằng:

“Nghĩa là Bát Nhã này không có sự thông đạt. Nếu Bát Nhã này có sự thông đạt tức là giả lập. Nếu là giả lập thì không gọi là Bát Nhã thông đạt. Nghĩa là đối với trong này hoàn toàn không có gì cả. Không có ở đây, không có ở kia, cũng không ở giữa, không có được thông đạt, không có bị thông đạt, không chỗ thông đạt, không thời thông đạt, không người thông đạt, nên gọi là thông đạt.

Lại ở trong này hoàn toàn vô sở hữu, không có người hành, không có chốn hành, không đây, không kia, cũng không ở giữa, nên gọi thông đạt, lại là thông đạt tuệ. Nói thông đạt là thông đạt tuệ. Thông đạt này hoàn toàn vô sở hữu, không trên, không dưới, không chậm, không mau, không tiến, không lùi, không qua, không lại nên gọi là thông đạt.

Này Thiện Dũng Mãnh! Tuệ thông đạt là thông đạt cái gì? Nghĩa là có cái thấy hoàn toàn thông đạt.

Do cái gì thông đạt? Do Bát Nhã thông đạt.

Bát Nhã làm sao thông đạt? Là tướng giả lập mà có thông đạt. Các tướng giả lập tất cả là phi tướng. Như vậy, phi tướng gọi là tướng giả lập.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ai thành tựu Bát Nhã như vậy tức là có thể như thật thông đạt ba cõi. Như thật thông đạt ba cõi là thế nào? Nghĩa là không phải ba cõi gọi là ba cõi.

Vì sao? Vì trong này không có cõi để thông đạt. Thông đạt ba cõi tức chẳng phải cõi. Do thông đạt ba cõi nên gọi là thành tựu thông đạt Bát Nhã.

Thế nào là thành tựu thông đạt Bát Nhã? Là không có việc nhỏ nào mà không thông đạt hoàn toàn. Đối với tất cả việc hoàn toàn thông đạt nên gọi là thông đạt Bát Nhã. Như vậy, Bát Nhã đối với tất cả việc đều siêu việt. Nếu thành tựu Bát Nhã như vậy thì những điều thấy, nghe, ngửi, nếm, biết đều thông đạt”.

Trước tiên, Bát Nhã nói: Không có ở đây, không có ở kia, cũng không ở giữa, không có sự thông đạt, không bị thông đạt, không chỗ thông đạt, không thời thông đạt, không người thông đạt. Tất cả đều giả lập... tất cả đều rỗng không! Nếu như thật hiểu như thế tức là thông đạt, thông đạt tuệ. Cái gì không thể hiểu, không thể biết, không thể nghĩ tưởng nổi theo tri kiến thường tục; muốn cho người khác hiểu biết, nghĩ tưởng nổi thì chỉ còn cách là thí dụ, giả nói, giả lập hay thi thiết. Không có giả lập, không có thi thiết thì không thể hiểu pháp. Đó là phương tiện quyền biến của Phật, phải là người đã chứng ngộ mới có thể hiểu biết thi thiết được. Trước khi Phật xuất hiện, chúng ta không biết đến ba cõi: Dục, sắc và vô sắc. Phật thi thiết có ba cõi, chúng sanh luân hồi không thoát khỏi ba cõi này. Nhờ Phật giả nói do tội chướng mà chúng sanh phải lưu đày trong ba cõi, nên chúng ta biết được ba cõi.

 Vậy, câu nói: Tất cả đều giả lập... tất cả đều rỗng không. Nếu như thật hiểu như thế tức là thông đạt, thông đạt tuệ. Không có gì bí ẩn ở đây. Rốt ráo, tất cả là giả nói, rỗng không, chẳng có gì thông đạt ở đây, hiểu như vậy là thông đạt tuệ! Hiểu thế nào là giả nói, giả thi thiết thì đó chính là thông đạt tuệ.

Ghi nhớ thuộc ký ức tức phải qua trung gian của thức. Nhưng ký ức chỉ có thể cất giữ trong một thời gian ngắn, rồi lần lần tàn lụn với thời gian. Còn thâm hiểu, thông đạt tức khắc bất cứ chi tiết nhỏ nhặt nào nó là tuệ, tuệ không cần nhớ, không cần kêu gọi đến ký ức, nó trở thành máu mủ trong tự thể, sẵn sàng phát chiếu. Nó là một thứ trực giác thực chứng không qua trung gian của bất cứ thứ gì. Biết liền biết, bén nhạy nhanh chóng như tia điện chớp. Đó là cái diệu dụng hiện tiền của tuệ. Còn chần chừ so đo, suy nghĩ là sai, đó là thức. Thức thì không bao giờ vói tới huệ nổi. Muốn với tới tuệ thì phải có sự chuyển y và bất cứ sự chuyển y nào cũng đều bắt nguồn từ thông đạt Bát Nhã.

Phần sau của đoạn kinh này cho chúng ta cái nhìn cụ thể hơn: Căn cứ vào cái gì mà nói là thông đạt? Nhờ Bát Nhã chiếu soi sau bao năm miệt mài tu tập mới thành tựu trí này, có trí này nên nói là thông đạt. Hay nói khác là nhờ Bát Nhã biết khắp, biết hoàn toàn, nên nói là thông đạt. Biết khắp dù bất cứ chi tiết nhỏ nhặt nào, nên nói Bát Nhã đối với tất cả đều siêu việt. Nếu tu tập và thành tựu Bát Nhã đến mức siêu việt như thế, thì thấy nghe nếm ngửi... đều là mắt tuệ Phật, nên nói là thông đạt tuệ.

 

Ở đây không cần tưởng hay phi tưởng mà nói là thông đạt. Chỉ cần biết Bát nBa la mật biết khắp, biết hoàn toàn không trừ bất cứ chi tiết nhỏ nhặt nào, siêu xuất khắp trần gian, thì được xem là thông đạt. Biết hết tất cả vô minh thì hết vô minh, biết hết tất cả trí thì được vô tận trí. Biết tất cả vô minh, biết tất cả trí, đó gọi là thông đạt. Và thông đạt này dĩ nhiên phải xuyên qua Bát nhã Ba la mật, không qua bất cứ phương tiện nào khác.

Đây chỉ là trình bày thế nào là thông đạt Bát Nhã. Có người tu Bát Nhã và có pháp tu là Bát Nhã. Khi năng tu(chủ) và sở tu(Bát nhã Ba la mật) chỉ là một, tình trạng phân hai chủ khách (năng sở) không còn, bức màn phân cách được dỡ lên, tình trạng hợp nhất được thực hiện: Người tu chứng lấy Bát Nhã, khi ấy người tu là một với Bát Nhã, một Bát Nhã bằng xương bằng thịt, có đi đứng nằm ngồi. Đó gọi là thông đạt, thông đạt tuệ.

 

Cũng cùng đoạn kinh trên, Phật thuyết tiếp:

“Thông đạt cái gì? Nghĩa là vô thường, khổ, bệnh, ung nhọt, tên bắn, không, trở ngại, hại, khác, hoại, hoại pháp, động, mau diệt, không ngã, không sanh, không diệt, không tướng v.v…

Này Thiện Dũng Mãnh! Ai thông đạt như vậy thì gọi là tự nhiên như giải được tên độc. Như có vị lương y giỏi trị được tên độc, chỗ bị tên, ông ta đều có thể chữa lành, chất độc không còn tác hại nữa. Vì nhờ công lực của dược thảo mà trừ khử được hết. Nếu các Bí sô thành tựu được pháp giải tên độc này, gọi là thành tựu thông đạt Bát Nhã. Nếu đầy đủ sáu hằng tánh thông đạt Bát Nhã này, thì xa lìa tất cả nhiễm trước ba cõi, vượt khỏi lưới của tất cả ác ma.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như Kim cương khoan được các vật, khoan chỗ nào cũng xuyên qua. Cũng vậy, nếu các Bí sô v.v… đạt được Kim cương dụ, do được tuệ thông đạt dung nạp, nên quán pháp gì cũng đều thông đạt. Tuệ thông đạt này được định Kim cương dụ bảo hộ, quán đến pháp nào cũng đều thông đạt. Nếu ai thành tựu trí tuệ thông đạt này, có thể xuất thế gian, diệt hết các khổ, dù đạt đến các khổ đã tận nhưng không bị đắm nhiễm. Tuệ thông đạt này cũng gọi là ba minh(1).

Này Thiện Dũng Mãnh! Gọi là minh là vĩnh viễn diệt trừ vô minh. Đây cũng gọi là biết khắp vô minh, cũng gọi là ý niệm diệt khổ uẩn.

Như vị lương y thông minh biết rộng, làm điều gì cũng xem xét rõ ràng, nhờ thế mà thành tựu trí tuệ giảo nghiệm vi diệu, biết rõ các thuốc, hiểu rõ nguyên nhân của bệnh, biết rõ bệnh tướng có thể chữa nhiều chứng bệnh khổ. Bất cứ bệnh tật nào cũng chữa lành. Vì sao? Vì người ấy thông thạo về thuốc, nguyên nhân, tướng trạng của bệnh, phương pháp hòa hợp thuốc, cho nên có thể trừ tất cả bệnh khổ. Nếu ai có thể thành tựu minh thứ ba (lậu tận minh), thì có thể diệt các vô minh, dứt tất cả khổ, trừ tất cả sanh, già, bệnh, chết và các pháp sầu than, khổ, ưu, não. Đây gọi là thông đạt Bát Nhã xuất thế.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ta nương nghĩa này mật ý nói: Tất cả thế gian tuệ là hơn hết, nghĩa là thông đạt thật tánh các pháp. Nhờ chánh tri này làm cho chấm dứt sanh vào các cõi”.

Ở đây Phật lấy lương y giỏi làm thí dụ (đó là giả thi thiết) để giải thích thế nào là thông đạt. Kinh ví người thông đạt Bát Nhã như lương y giỏi có thể chữa lành vết thương do tên độc gây ra. Lương y biết nguyên nhân của bệnh, biết sức công phá và tác hại của độc chất, biết cái khổ của người trúng tên. Lương y lại thông thạo phương pháp chẩn bệnh, biết cách hòa hợp thuốc, nên có thể giải trừ độc chất, làm giảm đau cho người trúng phải tên. Tất cả những thứ đó do kinh nghiệm tạo thành và thực chứng từ bản thân. Do kinh nghiệm và thực chứng này mà người đó trở thành một lương y giỏi.

Những ai thông đạt Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, có thể diệt trừ vô minh, các phiền não lậu tận, các sầu than, ưu, não khác v.v... Diệt trừ hết vô minh mê muội thì sáng suốt, nên nói là có tam minh. Khi có tam minh thì điều gì cũng thông suốt. Vì vậy, Phật mật ý nói rằng: “Tất cả thế gian tuệ là hơn hết, nghĩa là thông đạt thật tánh các pháp”. Thông đạt thật tánh các pháp thì không ai có thể so sánh, không ai bì kịp, nên nói là xuất thế gian. Người chánh trí này không những tự mình có thể mà còn có khả năng chấm dứt các khổ qua lại trong ba cõi sáu đường cho những chúng sanh khác!

 

2.Thông đạt Bát Nhã là thông đạt thật tánh tất cả pháp:

 

Phẩm “Thông Đạt”, cuối quyển 566, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo Tối Thắng:

- “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể thông đạt bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật”. Không những thông đạt thập Ba la mật mà người hành trì Bát Nhã còn thông đạt tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.

 

Kết luận:

(Thế nào là thông đạt Bát Nhã)

 

Một khi thông đạt Bát Nhã là xong hết. Vì có thể dùng Bát Nhã để thông đạt tất cả pháp khác. Nên nói, thông đạt Bát Nhã là dùng một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp. Bát Nhã có khả năng siêu việt như vậy!

Thông đạt tuệ sẽ mở ra một chân trời mới, nghĩa là có thể dùng trí tuệ để hiểu biết thật tướng tất cả pháp mà truyền đạt cho người. Ông khách(Bát Nhã) một vị thầy giỏi và chủ(người thọ trì Bát Nhã) là một đệ tử ngoan ngoãn, sẵn sàng tùng phục. Sự dạy bảo trao truyền đã đạt đến cao độ. Bất cứ thứ gì thầy dạy từ tư duy đến hành động, đệ tử đều rập khuôn. Những gì thầy truyền đạt, đệ tử đều thông suốt hết. Tình trạng phân cách không còn nữa, chỗ gọi là hợp nhất: Bát Nhã và người thọ trì chỉ là một. Sứ mạng của Bát nhã Ba la mật hoàn thành. Đó là thông đạt hay nói khác là chứng đắc Bát Nhã Trí. Bây giờ, người thọ trì sẽ trở thành một Bát Nhã sống, có đủ vô vàn quyền năng công đức có thể đem lại an lạc giải thoát cho tất cả mọi chúng sanh khác.

Thích nghĩa cho phần “Làm sao thông Đạt Bát Nhã”:

(1). Ba minh hay tam minh: Trividyā (S), Ti- vijjā (P), gồm: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Đã thích nghĩa rồi!

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/03/2011(Xem: 5419)
The Buddhist Channel is pleased to present to you the last book written by the late Chief Ven. Dr K Sri Dhammananda. To fulfill the wish of the late venerable, this e-Book shall be distributed free of charge. Please help to fulfill his wish by forwarding it to as many people as you can.
19/02/2011(Xem: 12771)
Hết lòng trân quí và ghi nhớ ân đức sâu dầy của sư Sán Nhiên đã biên soạn và hiệu đính tập sách này, cũng như đã hoan hỷ cho phép Hội Thiện Đức ấn tống nhằm góp phần vào công cuộc hoằng hóa Phật pháp đem đến lợi lạc cho nhiều người. Hội Thiện Đức xin biết ơn sự ủng hộ tinh thần và tán thán sự phát tâm đóng góp tịnh tài của quý Phật tử và ân nhân cho công trình ấn tống này. Xin tri ân chị Thân Thục & anh Thân Phúc đánh máy tập sách; anh Thân Hòa trình bày sách bao gồm thiết kế bìa sách; anh Chúc Giới, anh Thiện Tánh, cùng anh Chúc Tùng cung cấp tài liệu và hình ảnh; Tâm Hân Huệ thỉnh ý sư Sán Nhiên; chị Tâm Thiện, chị Chơn Hạnh Bạch, chị Diệu Âm, Thân Hồng, cùng anh chị Lê Lộc (Lancaster, PA) phụ giúp sổ sách, liên lạc, và kêu gọi cho quỹ ấn tống.
22/01/2011(Xem: 14653)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ 04 được tổ chức tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc
10/01/2011(Xem: 51995)
Website Liên Kết từ Trang Nhà Quảng Đức
13/12/2010(Xem: 10283)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
10/12/2010(Xem: 11627)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
09/11/2010(Xem: 7260)
Các Sa-di-ni thân mến, Chọn “đi tu” làm Sa-di-ni (P. Sāmaṇeri, S. Śrāmaṇeri, 沙彌尼), sau đó, làm Thức-xoa (P. Sikkhamānā. S. Śikṣamānā, 式叉摩那),[1] Tỳ-kheo-ni (P. bhikkhuni, S. bhikṣuṇī, 比丘尼), các con đang đi theo lý tưởng cao cả và hạnh nguyện độ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các Thánh tăng trong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này. Sa-di-ni có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaṇa, 沙門). Các Sa-di-ni tuổi thiếu nhi được gọi là “cô tiểu” ở miền Nam, hay “cô điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc. Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩ vô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, cách tu tín ngưỡng và ép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đường tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.
08/10/2010(Xem: 5303)
Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo[1] vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.
20/09/2010(Xem: 6351)
ĐứcThế Tôn thường nói: “Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là 'Cái này khôngphải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã củatôi.'” Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao tư tưởng vô ngã lại được diễn đạt như là hệ quả từ thực tế khổ? Lý do để giải thích có thể rút ra từ Tiểu kinh Saccaka (Cūḷasaccaka Sutta), Trung Bộ kinh... Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
28/06/2010(Xem: 18976)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567