Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài cảm nghĩ về pháp thoại “Nhân Quả Ba Đời" do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom

08/09/202210:46(Xem: 1939)
Vài cảm nghĩ về pháp thoại “Nhân Quả Ba Đời" do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom

Vài cảm nghĩ về pháp thoại “NHÂN QUẢ BA ĐỜI” do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom vào tối thứ tư hàng tuần của Tổng vụ Hoằng Pháp-Giáo Dục GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan ngày 7/9.2022.

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni,

Kính thưa quý đạo hữu gần xa đã và không tham dự buổi pháp thoại.


Kính bạch Giảng Sư,

 

Từ lâu trước khi con tường thuật một bài pháp thoại, nếu đã biết trước đề tài con thường xem qua các bài chú giải hoặc những tham khảo có liên quan về đề tài đó qua mạng Phật giáo điện tử hoặc kinh sách. Và trái với ý nghĩ trong đầu và cũng như bao thính chúng trong phòng  Zoom hôm nay chúng con lại thấy có chút gì khác lạ, thay vì nhắc đến Kinh Nhân Quả Ba Đời được dịch bởi HT Thích Thiền Tâm theo đó: Kinh nhân quả ba đời là bộ kinh đức Phật thuyết về Nhân quả thông suốt ba đời: Quá khứ, hiện tại và Vị lai. Bao gồm nhân đời trước, quả đời này, nhân đời này, quả đời sau. Tổ Ấn Quang dạy: “Hai chữ Nhân Quả gồm trọn hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian không sót chút gì”

 Chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, do nhân thiện ác đã gieo mà chịu quả báo phước họa tương ứng. Quả báo này thâu trọn trong “thông báo ba đời”, nghĩa là:

1. Đời này làm thiện, làm ác, ngay đời này được phước, mắc họa, đó gọi là Hiện Báo.

2. Đời này làm thiện, làm ác, trong đời sau hưởng phước, mắc họa, đó gọi là Sanh Báo.

3. Đời này làm thiện, làm ác, đến đời thứ ba, hoặc đời thứ tư, hoặc mười, trăm, ngàn vạn đời, hoặc đến vô lượng vô biên kiếp sau mới hưởng phước, mắc họa, đó gọi là Hậu Báo. Hậu Báo sớm – trễ không nhất định. Hễ gây nghiệp quyết định không thể không thọ báo.

 

 .....hoặc các kinh liên hệ về Nghiệp thì Giảng Sư không đào sâu vào tiêu chỉ mà chỉ nhấn mạnh Nhân Quả là một định luật.

Thế nhưng đến cuối bài pháp thoại con chợt vỡ òa ...thì ra Giảng sư đã chọn một hình thức theo kiểu giảng mà sau đó người nghe phải tự nghiên cứu thêm chi tiết, nhất là đoạn Tứ Duyên và Lục Nhân.

Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni và Giảng Sư

Kính thưa quý đạo hữu thính chúng,

 

Trong tinh thần đúng như TT Tổng Vụ Trưởng Thích Đạo Nguyên trong phần tổng kết buổi pháp thoại đã nhắn nhủ đến thính chúng sau giờ pháp thoại rằng:

“Nghe pháp, thường xuyên nghe pháp, nghe với sự lắng tâm đầy đủ là yếu tố đặc biệt lợi ích giúp cho chúng ta tăng trưởng được sự hoan hỉ sự thanh tịnh trí tuệ, và nhiều lợi lạc khác”.

 

Và đấy có lẽ là một đặc điểm rất đáng được tán dương mà TT Giảng Sư Thích Giác Tín đã khởi đầu cho bài giảng bằng cách đưa thành quả hiếm có nhất trong suốt 6 nhiệm kỳ của hội đồng điều hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan.

 

Quả đúng vậy có nghe chú tâm và sau đó nghiên cứu thêm những chi tiết trong bài giảng ta sẽ thấy rằng bắt buộc người nghe pháp cần phải có khả năng tiêu hóa được cái gì chúng ta nghe. Chân lý thâm sâu vi diệu đó đôi khi chúng ta nghe một vài vị trình bày hay là đọc qua một trang sách không đủ để chúng ta có thể thâm nhập nhìn thấy tất cả mọi chiều kích của đề tài. Nhờ nhân nào đó nhờ duyên nào đó mà chúng ta có thể nhìn những gì được nghe, con kính mạn phép được bổ sung trong bài viết này những chi tiết về 4 duyên và 6 nhân mà Giảng Sư chỉ nói qua loa không đi sâu vào vì có lẽ thời gian không cho phép.

Kính trân trọng,

 

Giảng Sư đã khéo dẫn nhập “Thế nào là nhân quả 3 đời?” một đời là mình cũng đủ chết rồi , nhưng đó chỉ là tên gọi của ba thời: Quá Khứ- Hiện Tại-Vị Lai. Đơn giản TT Giảng Sư đã định nghĩa hai chữ Nhân và Quả như sau:

 

Nhân là hạt giống – Quả là bông trái.

Nhân quả là một tiến trình tuần tự đi từ lúc ban đầu đến lúc kết thúc khi quả được hình thành,

Nhưng từ Nhân đến quả phải có sự trung gian của DUYÊN.

 

Theo lời Giảng Sư ...trên bình diện giáo lý có 4 duyên và 6 nhân , Bốn duyên được nêu tên nhưng không đi sâu vào chi tiết đó là: Nhân duyên- Tăng thượng duyên- Đẳng vô gián duyên-  Sở duyên duyên.

 

Và cũng như 6 Nhân được liệt kê thoáng qua như: 1-Năng tác nhân 2-Câu hữu nhân 3-Đồng loại nhân 4-Tương ưng nhân 5-Biến hành nhân 6-Dị thục nhân.

 

Nay con kính xin được mạn phép ghi lại chi tiết định nghĩa của 4 duyên và 6 nhân đế cùng nhau ghi nhớ thêm vậy,

 

1-NHÂN DUYÊN trong các pháp hữu vi có khả năng tự thân sinh ra từ quả. Như giống lúa mạch sinh ra lúa mạch, giống lúa dé sinh ra lúa dé. Thể tánh của nhân duyên này có hai:

a - Chủng tử (hạt giống), chỉ cho tất cả các pháp thiện, ác, vô ký hàm tàng trong thức thứ tám A-lại-da chủng tử này đối với dị thời (một lúc nào đó) có thể dẫn sinh chủng tử tự loại (chủng tử sinh chủng tử), đối với đồng thời (cùng lúc) có khả năng sinh khởi hiện hành tự loại (chủng tử sinh hiện hành).

 

b - Hiện hành, chỉ cho hiện hành của bảy chuyển thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt-na có khả năng huân tập thành chủng tử tự loại trong bản thức (đệ bát thức) (hiện hành huân chủng tử).

 

2-ĐẲNG VÔ GIÁN DUYÊN: là quan hệ sinh khởi của tâm, tâm sở do ý nghĩ trước dẫn sinh ý nghĩ sau, từng ý nghĩ, ý nghĩ tương tục không có gián đọan.

 

3-SỞ DUYÊN DUYÊN: phàm đối tượng của tâm, tâm sở thành tựu thì đó là nguyên nhân, mà khiến cho tâm, tâm sở lúc sản sinh ra kết quả, thì đối tượng của tâm, tâm sở gọi là sở duyên duyên.

 

4-TĂNG THƯỢNG DUYÊN:  ngoài điều kiện nguyên nhân sinh khởi tất cả các pháp như ba duyên đã ghi trên, duyên này phạm vi thật là rộng rãi, tất cả đều được thu nhiếp vào trong duyên này

 

Kính trình bày thêm về 6 Nhân theo sự tham khảo của người viết, đó là:

 

1-NĂNG TÁC NHÂN (kāraṇa-hetu): Vật nào khi sinh ra, phàm tất cả sự vật không phải là đối tượng phát sinh ra tác dụng trở ngại, thì sự vật ấy là năng tác nhân, phạm vi của nó rất rộng. Gồm có hai loại:

a/ Hữu lực năng tác nhân (cho sức, tăng sức): như nhãn căn sinh ra nhãn thức, đất cát sinh ra thảo mộc, song đối với pháp hữu vi, ít giới hạn.

b/ Vô lực năng tác nhân (không trở ngại): như hư không đối với vạn vật, dành chung cho tất cả pháp vô vi.

Quả có được của nhân này là quả tăng thượng.

 

2-CÂU HỮU NHÂN (sahabhū-hetu): là nhân câu hữu với quả. Gồm có hai loại:

a/ Nhân câu hữu hỗ tương với quả.

b/ Nhân câu hữu đồng nhất với quả.

Quả có được của nhân này là quả sĩ dụng.

 

3-ĐỒNG LOẠI NHÂN (sabhāga-hetu): là tất cả các pháp hữu vi thuộc phạm vi quá khứ hiện tại mà pháp nào cùng loại hay tương tợ thì đều là nhân, cho nên gọi là đồng loại nhân. Như pháp thiện làm nhân cho pháp thiện, cho đến pháp vô ký làm nhân cho pháp vô ký. Pháp đồng loại này căn cứ vào tánh thiện ác mà lập. Quả có được của nhân này là quả đẳng lưu.

 

4-TƯƠNG ƯNG NHÂN (samprayukta-hetu): Lúc nhận thức mới phát sinh, tâm cùng tâm sở đồng thời phát khởi tương ưng, hỗ tương nương vào nhau mà tồn tại. Cho nên gọi là tương ưng nhân. Quả có được của nhân này là quả sĩ dụng.

5-BIẾN HÀNH NHÂN (sarvatraga-hetu): Chỉ cho phiền não có khả năng biến đi khắp đối với tất cả các pháp nhiễm ô mà nói. Cùng với đồng lọai nhân ở trên là pháp nhân quả dị thời trước sau, song vì đồng loại nhân thông đối với tất cả các pháp, trong khi biến hành nhân thì do mười một biến hành trong tâm sở biến sinh khắp tất cả các hoặc, cho nên gọi là biến hành nhân vì sinh ra đủ loại phiền não. Quả có được của nhân này gọi là đẳng loại quả.

6-DỊ THỤC NHÂN(vipāka-hetu): Chỉ cho nhân nghiệp thiện ác của quả báo khổ vui trong ba đời. Quả có được của nhân này gọi là quả dị thục.

 

Như vậy  sự nhiếp thâu giữa tứ duyên và lục nhân giống như trên đã nói là Năng tác nhân bao gồm cả ba duyên: đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, câu hữu nhân cùng năm nhân khác kia thâu nhiếp chung cả nhân duyên.

 

Giảng Sư cũng nhắc đến:Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức. Giảng Sư cũng nhấn mạnh đến lẽ tất nhiên của vũ trụ quan (tòan bộ thế giới này có vô số nhân và quả do những yếu tố đất, nước, gió, lửa, hư không, những bản thể vật lý và phi vật lý, dương tử và phi dương tử tạo thành) cho nên không một phạm thiên, thượng đế hay một đấng vô hình nào có thể tạo ra một vật hữu hình.

 

Chúng ta cũng ngạc nhiên khi Giảng Sư đưa ra một thí dụ khi chiết cành để trồng cây thay vì gieo hạt giống để giới thiệu bản chất hiện hữu của cảm thọ để thuyết phục người nghe rằng “Tại sao ta phải mượn tấm thân vật lý này để thành tựu tâm lý theo nhân và quả thuận, nghịch”. Và may thay  Đức Thế Tôn đã chỉ ra con đường mà người con Phật muốn giác ngộ phải có được nhân Từ Bi và Trí Tuệ mà Đức Thế Tôn đã tự thể bản thân bằng những cảm thọ khi đối tác giữa 6 căn tiếp xúc sáu trần.

 

Giảng Sư cũng nhắc đến lời phát biểu của nhà bác học Albert Einstein về Phật Giáo như sau: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vươt lên Thượng đế của cá nhân, tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học. Đạo Phật trả lời cho những sự mô tả này. Nếu có một tôn giáo mà có thể đương đầu với những nhu cầu của khoa học hiện đại đấy sẽ là Đạo Phật.”

Có lẽ đã hơn thời gian để trình bày cho phép và 2 câu hỏi từ đạo hữu Tịnh Bảo như sau:

1-Sống theo đúng nhân quả thì thế nào gọi là Sống đúng Chánh pháp và Tà pháp ? Chữ Nghiệp có liên quan đến vận mệnh con người chăng?

2- Ta vẫn thường Sám Hối để tiêu nghiệp tội, nếu nhân quả là một định luật thì việc sám hối ấy có hiệu quả thế nào?

Lời giải đáp của Giảng sư có thể chưa làm vừa ý đạo hữu Tịnh Bảo vì Thượng Tọa không nhắc gì đến việc sám hối và chữ Nghiệp mà chỉ nói rằng Nhân quả là một đề tài khá lớn và đây là một định luật, một nguyên lý không ai có thể chối cãi.

Riêng con chợt nhớ đến câu hỏi đáp tương tự của trung tâm hộ tông do HT Viên Minh chỉ đạo rằng: “Nếu biết rõ nhận thức và hành vi sai lầm trước đây thì sám hối là điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng tốt. Nhưng có những hậu quả không biết chính xác nguyên nhân nào thì có thể dựa trên luật nhân quả mà suy đoán để sám hối chung chung cũng được. Khi biết do nghiệp chính mình tạo ra hậu quả hiện tại thì cần chấp nhận với tâm nhẫn nại, cảm thông và thương yêu chứ không nên sân hận và đối kháng. Đành rằng nhân nào tạo ra cảnh giới sa đọa nhân đó gọi là pháp bất thiện. Nhân nào tạo ra cảnh giới an lạc thì nhân đó gọi là hạt giống thiện.”



tt giac tin (6)tt giac tin (2)tt giac tin (3)tt giac tin (5)tt giac tin (8)








Lời Kết:

 

 Đây là lần thứ  sáu của chương trình hoằng pháp tổ chức trên hệ thống online, từ lúc bắt đầu với con số người tham dự rất khiêm nhượng từ 20 đến cuối giờ 32 người quả cũng là một món quà tinh thần cho Tổng Vụ Hoằng Pháp, hơn thế nữa thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ bản nhất của đạo Phật. Không một ai đã hướng theo đạo Phật  mà không hiểu rõ về triết lý nhân quả. Nhân: chính là nguyên nhân, là cái nhân mà mình gieo trồng. Qủa: chính là điều mình nhận được, là trái của cây ( nhân ) mà mình gieo trồng. Áp dụng vào đời sống, đó là khi chúng ta làm việc thiện thì sẽ gặp những điều lành, cuộc sống được hạnh phúc, ấm no, sung sướng. Còn nếu như ta làm điều ác thì chúng ta thọ lãnh quả ác, cuộc sống đau khổ bất hạnh.

Đời này nhân gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên thì lại biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác, từ đó tạo thành một chuổi nhân quả liên tiếp và kế tục. Luật nhân quả luân hồi và tiếp tục, hãy sống tốt và đẹp để hưởng được phước lành trong cuộc sống. Hy vọng với những bài kệ Đức Phật đã giảng trong kinh Nhân Quả Ba Đời sẽ giúp chúng ta chiêm nghiệm thêm.

Thiện nam, tín nữ nghe ta nói:

Suy nhớ kinh Nhân Quả ba đời

Nhân quả ba đời việc chẳng nhỏ,

Phật nói lời Phật chớ chê khinh.

Kính chúc Thượng Toạ Tổng Vụ Trưởng Thích Đạo Nguyên tứ đại thường an, pháp duyên vô ngại tiếp tục chủ đạo những buổi hoằng pháp thật lợi lạc cho Phật tử,

 Kính Chúc TT Giảng Sư Thích Giác Tín (Phó Thư ký 1 kiêm Tổng Vụ phó Tổng Vụ Tăng Sự hội đồng điều hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan) có nhiều buổi  giảng về Nhân quả và Nghiệp thêm để thính chúng hiểu thấu và thông pháp Phật hơn nữa, kính chúc Ngài được nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc.

Sống chân thành với định luật nhân quả

Gieo gì gặt nấy quả hiện rõ tương đương

Phước đức trần gian vẫn đó...bao Gương

Phật dạy:

Nhân quả ba đời...chỉ từ Tâm Thiện!

 

Bài pháp thoại nghe rồi tìm hiểu...nguyện

Được làm người dù gặp thuận nghịch duyên

Quán nhìn Như Thị...vũ trụ thiên nhiên

Thông “Tứ Diệu Đế học về Khổ, Diệt Khổ”

 

Nhân và quả đều nằm trong đây tất cả

Tóm gọn Pháp thế gian và Xuất thế gian

Muốn cho cuộc sống  thanh thản an nhàn

Tin định luật này.... không một ai thoát được!

Bạn ơi...cùng nhau tu huệ và tu Phước!

Nam Mô A Di Đà Phật

Melbourne 8/9/2022

Huệ Hương

 

  

 

Những bài liên quan:

* Tường thuật nhanh về Lễ Ra Mắt Tổng Vụ Hoằng Pháp-Giáo Dục 

1/ Ý Nghĩa An Cư Kiết Hạ (Bài giảng của TT Tâm Minh

2/ Gương Hiếu của Tôn giả Xá Lợi Phật (TT Thích Nguyên Tạng)

3/ “Chữ Hiếu Trong Đạo Phật” (NS Thích Nữ Thảo Liên)

4/ “Hiếu Đạo” (TT Thích Viên Trí)

5/ “Thiền Chánh Niệm” (TT Thích Đạo Nguyên)

6/ Nhân Quả Ba Đời (TT Thích Giác Tín)

7/ Cốt tủy Kinh Thủ Lăng Nghiêm (HT Thích Huyền Tôn)

8/ Quy Y Tam Bảo (NS Thích Nữ Tâm Lạc)

9/ Vô Thường (TT Thích Phổ Huân)

10/ Bồ Tát Giới (Đức Trưởng Lão HT Thích Bảo Lạc) 

11/ Nguyên nhân và quá trình hình thành GHPGVN Thống Nhất" (HT Thích Như Điển)

12/Ngũ Giới (Sư Cô Giác Anh)

13/Tổng Quan về Kinh Bát Đại Nhân Giác (TT Thích Đạo Hiển)

14/ Thập Thiện Nghiệp Đạo (TT Thích Viên Tịnh)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2010(Xem: 8802)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4354)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7885)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12495)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8547)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
01/10/2010(Xem: 10264)
Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơi cứu cánh sao đây ? Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha” (Thích Tâm Châu dịch )
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567