Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài cảm nghĩ về pháp thoại “Nhân Quả Ba Đời" do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom

08/09/202210:46(Xem: 1914)
Vài cảm nghĩ về pháp thoại “Nhân Quả Ba Đời" do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom

Vài cảm nghĩ về pháp thoại “NHÂN QUẢ BA ĐỜI” do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom vào tối thứ tư hàng tuần của Tổng vụ Hoằng Pháp-Giáo Dục GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan ngày 7/9.2022.

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni,

Kính thưa quý đạo hữu gần xa đã và không tham dự buổi pháp thoại.


Kính bạch Giảng Sư,

 

Từ lâu trước khi con tường thuật một bài pháp thoại, nếu đã biết trước đề tài con thường xem qua các bài chú giải hoặc những tham khảo có liên quan về đề tài đó qua mạng Phật giáo điện tử hoặc kinh sách. Và trái với ý nghĩ trong đầu và cũng như bao thính chúng trong phòng  Zoom hôm nay chúng con lại thấy có chút gì khác lạ, thay vì nhắc đến Kinh Nhân Quả Ba Đời được dịch bởi HT Thích Thiền Tâm theo đó: Kinh nhân quả ba đời là bộ kinh đức Phật thuyết về Nhân quả thông suốt ba đời: Quá khứ, hiện tại và Vị lai. Bao gồm nhân đời trước, quả đời này, nhân đời này, quả đời sau. Tổ Ấn Quang dạy: “Hai chữ Nhân Quả gồm trọn hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian không sót chút gì”

 Chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, do nhân thiện ác đã gieo mà chịu quả báo phước họa tương ứng. Quả báo này thâu trọn trong “thông báo ba đời”, nghĩa là:

1. Đời này làm thiện, làm ác, ngay đời này được phước, mắc họa, đó gọi là Hiện Báo.

2. Đời này làm thiện, làm ác, trong đời sau hưởng phước, mắc họa, đó gọi là Sanh Báo.

3. Đời này làm thiện, làm ác, đến đời thứ ba, hoặc đời thứ tư, hoặc mười, trăm, ngàn vạn đời, hoặc đến vô lượng vô biên kiếp sau mới hưởng phước, mắc họa, đó gọi là Hậu Báo. Hậu Báo sớm – trễ không nhất định. Hễ gây nghiệp quyết định không thể không thọ báo.

 

 .....hoặc các kinh liên hệ về Nghiệp thì Giảng Sư không đào sâu vào tiêu chỉ mà chỉ nhấn mạnh Nhân Quả là một định luật.

Thế nhưng đến cuối bài pháp thoại con chợt vỡ òa ...thì ra Giảng sư đã chọn một hình thức theo kiểu giảng mà sau đó người nghe phải tự nghiên cứu thêm chi tiết, nhất là đoạn Tứ Duyên và Lục Nhân.

Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni và Giảng Sư

Kính thưa quý đạo hữu thính chúng,

 

Trong tinh thần đúng như TT Tổng Vụ Trưởng Thích Đạo Nguyên trong phần tổng kết buổi pháp thoại đã nhắn nhủ đến thính chúng sau giờ pháp thoại rằng:

“Nghe pháp, thường xuyên nghe pháp, nghe với sự lắng tâm đầy đủ là yếu tố đặc biệt lợi ích giúp cho chúng ta tăng trưởng được sự hoan hỉ sự thanh tịnh trí tuệ, và nhiều lợi lạc khác”.

 

Và đấy có lẽ là một đặc điểm rất đáng được tán dương mà TT Giảng Sư Thích Giác Tín đã khởi đầu cho bài giảng bằng cách đưa thành quả hiếm có nhất trong suốt 6 nhiệm kỳ của hội đồng điều hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan.

 

Quả đúng vậy có nghe chú tâm và sau đó nghiên cứu thêm những chi tiết trong bài giảng ta sẽ thấy rằng bắt buộc người nghe pháp cần phải có khả năng tiêu hóa được cái gì chúng ta nghe. Chân lý thâm sâu vi diệu đó đôi khi chúng ta nghe một vài vị trình bày hay là đọc qua một trang sách không đủ để chúng ta có thể thâm nhập nhìn thấy tất cả mọi chiều kích của đề tài. Nhờ nhân nào đó nhờ duyên nào đó mà chúng ta có thể nhìn những gì được nghe, con kính mạn phép được bổ sung trong bài viết này những chi tiết về 4 duyên và 6 nhân mà Giảng Sư chỉ nói qua loa không đi sâu vào vì có lẽ thời gian không cho phép.

Kính trân trọng,

 

Giảng Sư đã khéo dẫn nhập “Thế nào là nhân quả 3 đời?” một đời là mình cũng đủ chết rồi , nhưng đó chỉ là tên gọi của ba thời: Quá Khứ- Hiện Tại-Vị Lai. Đơn giản TT Giảng Sư đã định nghĩa hai chữ Nhân và Quả như sau:

 

Nhân là hạt giống – Quả là bông trái.

Nhân quả là một tiến trình tuần tự đi từ lúc ban đầu đến lúc kết thúc khi quả được hình thành,

Nhưng từ Nhân đến quả phải có sự trung gian của DUYÊN.

 

Theo lời Giảng Sư ...trên bình diện giáo lý có 4 duyên và 6 nhân , Bốn duyên được nêu tên nhưng không đi sâu vào chi tiết đó là: Nhân duyên- Tăng thượng duyên- Đẳng vô gián duyên-  Sở duyên duyên.

 

Và cũng như 6 Nhân được liệt kê thoáng qua như: 1-Năng tác nhân 2-Câu hữu nhân 3-Đồng loại nhân 4-Tương ưng nhân 5-Biến hành nhân 6-Dị thục nhân.

 

Nay con kính xin được mạn phép ghi lại chi tiết định nghĩa của 4 duyên và 6 nhân đế cùng nhau ghi nhớ thêm vậy,

 

1-NHÂN DUYÊN trong các pháp hữu vi có khả năng tự thân sinh ra từ quả. Như giống lúa mạch sinh ra lúa mạch, giống lúa dé sinh ra lúa dé. Thể tánh của nhân duyên này có hai:

a - Chủng tử (hạt giống), chỉ cho tất cả các pháp thiện, ác, vô ký hàm tàng trong thức thứ tám A-lại-da chủng tử này đối với dị thời (một lúc nào đó) có thể dẫn sinh chủng tử tự loại (chủng tử sinh chủng tử), đối với đồng thời (cùng lúc) có khả năng sinh khởi hiện hành tự loại (chủng tử sinh hiện hành).

 

b - Hiện hành, chỉ cho hiện hành của bảy chuyển thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt-na có khả năng huân tập thành chủng tử tự loại trong bản thức (đệ bát thức) (hiện hành huân chủng tử).

 

2-ĐẲNG VÔ GIÁN DUYÊN: là quan hệ sinh khởi của tâm, tâm sở do ý nghĩ trước dẫn sinh ý nghĩ sau, từng ý nghĩ, ý nghĩ tương tục không có gián đọan.

 

3-SỞ DUYÊN DUYÊN: phàm đối tượng của tâm, tâm sở thành tựu thì đó là nguyên nhân, mà khiến cho tâm, tâm sở lúc sản sinh ra kết quả, thì đối tượng của tâm, tâm sở gọi là sở duyên duyên.

 

4-TĂNG THƯỢNG DUYÊN:  ngoài điều kiện nguyên nhân sinh khởi tất cả các pháp như ba duyên đã ghi trên, duyên này phạm vi thật là rộng rãi, tất cả đều được thu nhiếp vào trong duyên này

 

Kính trình bày thêm về 6 Nhân theo sự tham khảo của người viết, đó là:

 

1-NĂNG TÁC NHÂN (kāraṇa-hetu): Vật nào khi sinh ra, phàm tất cả sự vật không phải là đối tượng phát sinh ra tác dụng trở ngại, thì sự vật ấy là năng tác nhân, phạm vi của nó rất rộng. Gồm có hai loại:

a/ Hữu lực năng tác nhân (cho sức, tăng sức): như nhãn căn sinh ra nhãn thức, đất cát sinh ra thảo mộc, song đối với pháp hữu vi, ít giới hạn.

b/ Vô lực năng tác nhân (không trở ngại): như hư không đối với vạn vật, dành chung cho tất cả pháp vô vi.

Quả có được của nhân này là quả tăng thượng.

 

2-CÂU HỮU NHÂN (sahabhū-hetu): là nhân câu hữu với quả. Gồm có hai loại:

a/ Nhân câu hữu hỗ tương với quả.

b/ Nhân câu hữu đồng nhất với quả.

Quả có được của nhân này là quả sĩ dụng.

 

3-ĐỒNG LOẠI NHÂN (sabhāga-hetu): là tất cả các pháp hữu vi thuộc phạm vi quá khứ hiện tại mà pháp nào cùng loại hay tương tợ thì đều là nhân, cho nên gọi là đồng loại nhân. Như pháp thiện làm nhân cho pháp thiện, cho đến pháp vô ký làm nhân cho pháp vô ký. Pháp đồng loại này căn cứ vào tánh thiện ác mà lập. Quả có được của nhân này là quả đẳng lưu.

 

4-TƯƠNG ƯNG NHÂN (samprayukta-hetu): Lúc nhận thức mới phát sinh, tâm cùng tâm sở đồng thời phát khởi tương ưng, hỗ tương nương vào nhau mà tồn tại. Cho nên gọi là tương ưng nhân. Quả có được của nhân này là quả sĩ dụng.

5-BIẾN HÀNH NHÂN (sarvatraga-hetu): Chỉ cho phiền não có khả năng biến đi khắp đối với tất cả các pháp nhiễm ô mà nói. Cùng với đồng lọai nhân ở trên là pháp nhân quả dị thời trước sau, song vì đồng loại nhân thông đối với tất cả các pháp, trong khi biến hành nhân thì do mười một biến hành trong tâm sở biến sinh khắp tất cả các hoặc, cho nên gọi là biến hành nhân vì sinh ra đủ loại phiền não. Quả có được của nhân này gọi là đẳng loại quả.

6-DỊ THỤC NHÂN(vipāka-hetu): Chỉ cho nhân nghiệp thiện ác của quả báo khổ vui trong ba đời. Quả có được của nhân này gọi là quả dị thục.

 

Như vậy  sự nhiếp thâu giữa tứ duyên và lục nhân giống như trên đã nói là Năng tác nhân bao gồm cả ba duyên: đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, câu hữu nhân cùng năm nhân khác kia thâu nhiếp chung cả nhân duyên.

 

Giảng Sư cũng nhắc đến:Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức. Giảng Sư cũng nhấn mạnh đến lẽ tất nhiên của vũ trụ quan (tòan bộ thế giới này có vô số nhân và quả do những yếu tố đất, nước, gió, lửa, hư không, những bản thể vật lý và phi vật lý, dương tử và phi dương tử tạo thành) cho nên không một phạm thiên, thượng đế hay một đấng vô hình nào có thể tạo ra một vật hữu hình.

 

Chúng ta cũng ngạc nhiên khi Giảng Sư đưa ra một thí dụ khi chiết cành để trồng cây thay vì gieo hạt giống để giới thiệu bản chất hiện hữu của cảm thọ để thuyết phục người nghe rằng “Tại sao ta phải mượn tấm thân vật lý này để thành tựu tâm lý theo nhân và quả thuận, nghịch”. Và may thay  Đức Thế Tôn đã chỉ ra con đường mà người con Phật muốn giác ngộ phải có được nhân Từ Bi và Trí Tuệ mà Đức Thế Tôn đã tự thể bản thân bằng những cảm thọ khi đối tác giữa 6 căn tiếp xúc sáu trần.

 

Giảng Sư cũng nhắc đến lời phát biểu của nhà bác học Albert Einstein về Phật Giáo như sau: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vươt lên Thượng đế của cá nhân, tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học. Đạo Phật trả lời cho những sự mô tả này. Nếu có một tôn giáo mà có thể đương đầu với những nhu cầu của khoa học hiện đại đấy sẽ là Đạo Phật.”

Có lẽ đã hơn thời gian để trình bày cho phép và 2 câu hỏi từ đạo hữu Tịnh Bảo như sau:

1-Sống theo đúng nhân quả thì thế nào gọi là Sống đúng Chánh pháp và Tà pháp ? Chữ Nghiệp có liên quan đến vận mệnh con người chăng?

2- Ta vẫn thường Sám Hối để tiêu nghiệp tội, nếu nhân quả là một định luật thì việc sám hối ấy có hiệu quả thế nào?

Lời giải đáp của Giảng sư có thể chưa làm vừa ý đạo hữu Tịnh Bảo vì Thượng Tọa không nhắc gì đến việc sám hối và chữ Nghiệp mà chỉ nói rằng Nhân quả là một đề tài khá lớn và đây là một định luật, một nguyên lý không ai có thể chối cãi.

Riêng con chợt nhớ đến câu hỏi đáp tương tự của trung tâm hộ tông do HT Viên Minh chỉ đạo rằng: “Nếu biết rõ nhận thức và hành vi sai lầm trước đây thì sám hối là điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng tốt. Nhưng có những hậu quả không biết chính xác nguyên nhân nào thì có thể dựa trên luật nhân quả mà suy đoán để sám hối chung chung cũng được. Khi biết do nghiệp chính mình tạo ra hậu quả hiện tại thì cần chấp nhận với tâm nhẫn nại, cảm thông và thương yêu chứ không nên sân hận và đối kháng. Đành rằng nhân nào tạo ra cảnh giới sa đọa nhân đó gọi là pháp bất thiện. Nhân nào tạo ra cảnh giới an lạc thì nhân đó gọi là hạt giống thiện.”



tt giac tin (6)tt giac tin (2)tt giac tin (3)tt giac tin (5)tt giac tin (8)








Lời Kết:

 

 Đây là lần thứ  sáu của chương trình hoằng pháp tổ chức trên hệ thống online, từ lúc bắt đầu với con số người tham dự rất khiêm nhượng từ 20 đến cuối giờ 32 người quả cũng là một món quà tinh thần cho Tổng Vụ Hoằng Pháp, hơn thế nữa thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ bản nhất của đạo Phật. Không một ai đã hướng theo đạo Phật  mà không hiểu rõ về triết lý nhân quả. Nhân: chính là nguyên nhân, là cái nhân mà mình gieo trồng. Qủa: chính là điều mình nhận được, là trái của cây ( nhân ) mà mình gieo trồng. Áp dụng vào đời sống, đó là khi chúng ta làm việc thiện thì sẽ gặp những điều lành, cuộc sống được hạnh phúc, ấm no, sung sướng. Còn nếu như ta làm điều ác thì chúng ta thọ lãnh quả ác, cuộc sống đau khổ bất hạnh.

Đời này nhân gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên thì lại biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác, từ đó tạo thành một chuổi nhân quả liên tiếp và kế tục. Luật nhân quả luân hồi và tiếp tục, hãy sống tốt và đẹp để hưởng được phước lành trong cuộc sống. Hy vọng với những bài kệ Đức Phật đã giảng trong kinh Nhân Quả Ba Đời sẽ giúp chúng ta chiêm nghiệm thêm.

Thiện nam, tín nữ nghe ta nói:

Suy nhớ kinh Nhân Quả ba đời

Nhân quả ba đời việc chẳng nhỏ,

Phật nói lời Phật chớ chê khinh.

Kính chúc Thượng Toạ Tổng Vụ Trưởng Thích Đạo Nguyên tứ đại thường an, pháp duyên vô ngại tiếp tục chủ đạo những buổi hoằng pháp thật lợi lạc cho Phật tử,

 Kính Chúc TT Giảng Sư Thích Giác Tín (Phó Thư ký 1 kiêm Tổng Vụ phó Tổng Vụ Tăng Sự hội đồng điều hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan) có nhiều buổi  giảng về Nhân quả và Nghiệp thêm để thính chúng hiểu thấu và thông pháp Phật hơn nữa, kính chúc Ngài được nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc.

Sống chân thành với định luật nhân quả

Gieo gì gặt nấy quả hiện rõ tương đương

Phước đức trần gian vẫn đó...bao Gương

Phật dạy:

Nhân quả ba đời...chỉ từ Tâm Thiện!

 

Bài pháp thoại nghe rồi tìm hiểu...nguyện

Được làm người dù gặp thuận nghịch duyên

Quán nhìn Như Thị...vũ trụ thiên nhiên

Thông “Tứ Diệu Đế học về Khổ, Diệt Khổ”

 

Nhân và quả đều nằm trong đây tất cả

Tóm gọn Pháp thế gian và Xuất thế gian

Muốn cho cuộc sống  thanh thản an nhàn

Tin định luật này.... không một ai thoát được!

Bạn ơi...cùng nhau tu huệ và tu Phước!

Nam Mô A Di Đà Phật

Melbourne 8/9/2022

Huệ Hương

 

  

 

Những bài liên quan:

* Tường thuật nhanh về Lễ Ra Mắt Tổng Vụ Hoằng Pháp-Giáo Dục 

1/ Ý Nghĩa An Cư Kiết Hạ (Bài giảng của TT Tâm Minh

2/ Gương Hiếu của Tôn giả Xá Lợi Phật (TT Thích Nguyên Tạng)

3/ “Chữ Hiếu Trong Đạo Phật” (NS Thích Nữ Thảo Liên)

4/ “Hiếu Đạo” (TT Thích Viên Trí)

5/ “Thiền Chánh Niệm” (TT Thích Đạo Nguyên)

6/ Nhân Quả Ba Đời (TT Thích Giác Tín)

7/ Cốt tủy Kinh Thủ Lăng Nghiêm (HT Thích Huyền Tôn)

8/ Quy Y Tam Bảo (NS Thích Nữ Tâm Lạc)

9/ Vô Thường (TT Thích Phổ Huân)

10/ Bồ Tát Giới (Đức Trưởng Lão HT Thích Bảo Lạc) 

11/ Nguyên nhân và quá trình hình thành GHPGVN Thống Nhất" (HT Thích Như Điển)

12/Ngũ Giới (Sư Cô Giác Anh)

13/Tổng Quan về Kinh Bát Đại Nhân Giác (TT Thích Đạo Hiển)

14/ Thập Thiện Nghiệp Đạo (TT Thích Viên Tịnh)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2010(Xem: 2682)
Vườn hoa Phật Giáo mênh mông, với nhiều sắc thái thành muôn màu rực rỡ. Mỗi đóa hoa đều có sắc có hương, để thành vẻ đẹp đặc thù của Phật Giáo. Chúng ta thấy đại dương rào rạt bao la không bờ bến, nhưng giọt nước nào cũng mang vị mặn của muối. Chánh Pháp của Đức Như Lai vô lượng vô biên, nhưng pháp nào cũng đều mang hương vị của giải thoát.Mỗi Vị Tôn Đức hoằng pháp đều có một phong cách riêng, có những tư tưởng nhận định riêng. Vị nào còn trẻ khoẻ thì thích đi hoằng pháp các nơi.
28/08/2010(Xem: 2353)
Du Hôn (truyện ngắn của Nhật Hưng)
27/08/2010(Xem: 2741)
Tuy không phải là bạn thân nhưng tôi quen biết anh ấy từ lâu, thời còn ở trung tiểu học. Anh ấy thuộc một gia đình khá giả, bố mất sớm, thông minh học giỏi. Ra trường, làm việc cho một công ty lớn, được cấp nhà ở, và ai cũng có thể thấy ngay anh là một người thành đạt, có một tương lai xán lạn và là niềm hãnh diện cho gia đình. Nhưng…những chữ nhưng thường làm dang dở cuộc đời. Có nhiều chuyện thật oái oăm và không thể lường trước được có thể xảy ra làm thay đổi một cuộc đời. Và những chuyện không ngờ đó một hôm đã xảy ra, đã đưa anh vào cảnh tù tội một cách oan ức.
17/08/2010(Xem: 12026)
Lâu nay tôi thường cùng các thi văn hữu trao đổi với nhau những bài thơ, câu đối như là một thú vui tao nhã. Về thơ thì tôi vừa mới tập hợp thành tác phẩm Mưa Hè (nhà xuất bản Hồng Đức - quý hạ 2013). Riêng về câu đối, với tính chất riêng của nó, tôi tập hợp thành tập Thiền Lâm Ứng Đối hợp tuyển này, bao gồm một số câu đối trước đây đã được in và phát hành dưới dạng “Lưu hành nội bộ”, và một số câu đối đã được làm trong thời gian sau này. Những câu đối trong tập cũ in lại có hiệu đính, phần nhiều ở câu dịch nghĩa. Đa số những câu đối có nhân duyên từ các chùa trong tỉnh, ngoại tỉnh và một số chùa ở nước ngoài nhờ làm để trang trí. có câu còn ghi chú rõ, có câu tôi không còn nhớ làm cho chùa nào, ở đâu. Kính xin chư Tôn đức cùng quí chùa hoan hỉ.
10/08/2010(Xem: 5095)
Diễn văn của luật sư Georges Graham Vest tại một phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên William Saller của The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 100 năm qua.
16/07/2010(Xem: 12506)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
08/07/2010(Xem: 3548)
Ngày Về Nguồn được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2007 tại chùa Pháp Vân, Canada đã khiến nhiều người bàn tán xôn xao. Họ xôn xao có lẽ một phần bỡ ngỡ trước danh từ Về Nguồn, vì một số không được cái may mắn có nguồn để về. Họ không cảm thấy rung động khi nghe câu ca dao: Cây có gốc mới xanh cành tươi ngọn Nước có nguồn mới biển cả sông sâu
28/06/2010(Xem: 25255)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
28/06/2010(Xem: 18950)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
01/10/2007(Xem: 7457)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567