Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài cảm nghĩ về pháp thoại “Nhân Quả Ba Đời" do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom

08/09/202210:46(Xem: 2449)
Vài cảm nghĩ về pháp thoại “Nhân Quả Ba Đời" do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom

Vài cảm nghĩ về pháp thoại “NHÂN QUẢ BA ĐỜI” do TT Thích Giác Tín được trực tiếp livestream và trên hệ thống Zoom vào tối thứ tư hàng tuần của Tổng vụ Hoằng Pháp-Giáo Dục GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan ngày 7/9.2022.

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni,

Kính thưa quý đạo hữu gần xa đã và không tham dự buổi pháp thoại.


Kính bạch Giảng Sư,

 

Từ lâu trước khi con tường thuật một bài pháp thoại, nếu đã biết trước đề tài con thường xem qua các bài chú giải hoặc những tham khảo có liên quan về đề tài đó qua mạng Phật giáo điện tử hoặc kinh sách. Và trái với ý nghĩ trong đầu và cũng như bao thính chúng trong phòng  Zoom hôm nay chúng con lại thấy có chút gì khác lạ, thay vì nhắc đến Kinh Nhân Quả Ba Đời được dịch bởi HT Thích Thiền Tâm theo đó: Kinh nhân quả ba đời là bộ kinh đức Phật thuyết về Nhân quả thông suốt ba đời: Quá khứ, hiện tại và Vị lai. Bao gồm nhân đời trước, quả đời này, nhân đời này, quả đời sau. Tổ Ấn Quang dạy: “Hai chữ Nhân Quả gồm trọn hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian không sót chút gì”

 Chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, do nhân thiện ác đã gieo mà chịu quả báo phước họa tương ứng. Quả báo này thâu trọn trong “thông báo ba đời”, nghĩa là:

1. Đời này làm thiện, làm ác, ngay đời này được phước, mắc họa, đó gọi là Hiện Báo.

2. Đời này làm thiện, làm ác, trong đời sau hưởng phước, mắc họa, đó gọi là Sanh Báo.

3. Đời này làm thiện, làm ác, đến đời thứ ba, hoặc đời thứ tư, hoặc mười, trăm, ngàn vạn đời, hoặc đến vô lượng vô biên kiếp sau mới hưởng phước, mắc họa, đó gọi là Hậu Báo. Hậu Báo sớm – trễ không nhất định. Hễ gây nghiệp quyết định không thể không thọ báo.

 

 .....hoặc các kinh liên hệ về Nghiệp thì Giảng Sư không đào sâu vào tiêu chỉ mà chỉ nhấn mạnh Nhân Quả là một định luật.

Thế nhưng đến cuối bài pháp thoại con chợt vỡ òa ...thì ra Giảng sư đã chọn một hình thức theo kiểu giảng mà sau đó người nghe phải tự nghiên cứu thêm chi tiết, nhất là đoạn Tứ Duyên và Lục Nhân.

Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni và Giảng Sư

Kính thưa quý đạo hữu thính chúng,

 

Trong tinh thần đúng như TT Tổng Vụ Trưởng Thích Đạo Nguyên trong phần tổng kết buổi pháp thoại đã nhắn nhủ đến thính chúng sau giờ pháp thoại rằng:

“Nghe pháp, thường xuyên nghe pháp, nghe với sự lắng tâm đầy đủ là yếu tố đặc biệt lợi ích giúp cho chúng ta tăng trưởng được sự hoan hỉ sự thanh tịnh trí tuệ, và nhiều lợi lạc khác”.

 

Và đấy có lẽ là một đặc điểm rất đáng được tán dương mà TT Giảng Sư Thích Giác Tín đã khởi đầu cho bài giảng bằng cách đưa thành quả hiếm có nhất trong suốt 6 nhiệm kỳ của hội đồng điều hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan.

 

Quả đúng vậy có nghe chú tâm và sau đó nghiên cứu thêm những chi tiết trong bài giảng ta sẽ thấy rằng bắt buộc người nghe pháp cần phải có khả năng tiêu hóa được cái gì chúng ta nghe. Chân lý thâm sâu vi diệu đó đôi khi chúng ta nghe một vài vị trình bày hay là đọc qua một trang sách không đủ để chúng ta có thể thâm nhập nhìn thấy tất cả mọi chiều kích của đề tài. Nhờ nhân nào đó nhờ duyên nào đó mà chúng ta có thể nhìn những gì được nghe, con kính mạn phép được bổ sung trong bài viết này những chi tiết về 4 duyên và 6 nhân mà Giảng Sư chỉ nói qua loa không đi sâu vào vì có lẽ thời gian không cho phép.

Kính trân trọng,

 

Giảng Sư đã khéo dẫn nhập “Thế nào là nhân quả 3 đời?” một đời là mình cũng đủ chết rồi , nhưng đó chỉ là tên gọi của ba thời: Quá Khứ- Hiện Tại-Vị Lai. Đơn giản TT Giảng Sư đã định nghĩa hai chữ Nhân và Quả như sau:

 

Nhân là hạt giống – Quả là bông trái.

Nhân quả là một tiến trình tuần tự đi từ lúc ban đầu đến lúc kết thúc khi quả được hình thành,

Nhưng từ Nhân đến quả phải có sự trung gian của DUYÊN.

 

Theo lời Giảng Sư ...trên bình diện giáo lý có 4 duyên và 6 nhân , Bốn duyên được nêu tên nhưng không đi sâu vào chi tiết đó là: Nhân duyên- Tăng thượng duyên- Đẳng vô gián duyên-  Sở duyên duyên.

 

Và cũng như 6 Nhân được liệt kê thoáng qua như: 1-Năng tác nhân 2-Câu hữu nhân 3-Đồng loại nhân 4-Tương ưng nhân 5-Biến hành nhân 6-Dị thục nhân.

 

Nay con kính xin được mạn phép ghi lại chi tiết định nghĩa của 4 duyên và 6 nhân đế cùng nhau ghi nhớ thêm vậy,

 

1-NHÂN DUYÊN trong các pháp hữu vi có khả năng tự thân sinh ra từ quả. Như giống lúa mạch sinh ra lúa mạch, giống lúa dé sinh ra lúa dé. Thể tánh của nhân duyên này có hai:

a - Chủng tử (hạt giống), chỉ cho tất cả các pháp thiện, ác, vô ký hàm tàng trong thức thứ tám A-lại-da chủng tử này đối với dị thời (một lúc nào đó) có thể dẫn sinh chủng tử tự loại (chủng tử sinh chủng tử), đối với đồng thời (cùng lúc) có khả năng sinh khởi hiện hành tự loại (chủng tử sinh hiện hành).

 

b - Hiện hành, chỉ cho hiện hành của bảy chuyển thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt-na có khả năng huân tập thành chủng tử tự loại trong bản thức (đệ bát thức) (hiện hành huân chủng tử).

 

2-ĐẲNG VÔ GIÁN DUYÊN: là quan hệ sinh khởi của tâm, tâm sở do ý nghĩ trước dẫn sinh ý nghĩ sau, từng ý nghĩ, ý nghĩ tương tục không có gián đọan.

 

3-SỞ DUYÊN DUYÊN: phàm đối tượng của tâm, tâm sở thành tựu thì đó là nguyên nhân, mà khiến cho tâm, tâm sở lúc sản sinh ra kết quả, thì đối tượng của tâm, tâm sở gọi là sở duyên duyên.

 

4-TĂNG THƯỢNG DUYÊN:  ngoài điều kiện nguyên nhân sinh khởi tất cả các pháp như ba duyên đã ghi trên, duyên này phạm vi thật là rộng rãi, tất cả đều được thu nhiếp vào trong duyên này

 

Kính trình bày thêm về 6 Nhân theo sự tham khảo của người viết, đó là:

 

1-NĂNG TÁC NHÂN (kāraṇa-hetu): Vật nào khi sinh ra, phàm tất cả sự vật không phải là đối tượng phát sinh ra tác dụng trở ngại, thì sự vật ấy là năng tác nhân, phạm vi của nó rất rộng. Gồm có hai loại:

a/ Hữu lực năng tác nhân (cho sức, tăng sức): như nhãn căn sinh ra nhãn thức, đất cát sinh ra thảo mộc, song đối với pháp hữu vi, ít giới hạn.

b/ Vô lực năng tác nhân (không trở ngại): như hư không đối với vạn vật, dành chung cho tất cả pháp vô vi.

Quả có được của nhân này là quả tăng thượng.

 

2-CÂU HỮU NHÂN (sahabhū-hetu): là nhân câu hữu với quả. Gồm có hai loại:

a/ Nhân câu hữu hỗ tương với quả.

b/ Nhân câu hữu đồng nhất với quả.

Quả có được của nhân này là quả sĩ dụng.

 

3-ĐỒNG LOẠI NHÂN (sabhāga-hetu): là tất cả các pháp hữu vi thuộc phạm vi quá khứ hiện tại mà pháp nào cùng loại hay tương tợ thì đều là nhân, cho nên gọi là đồng loại nhân. Như pháp thiện làm nhân cho pháp thiện, cho đến pháp vô ký làm nhân cho pháp vô ký. Pháp đồng loại này căn cứ vào tánh thiện ác mà lập. Quả có được của nhân này là quả đẳng lưu.

 

4-TƯƠNG ƯNG NHÂN (samprayukta-hetu): Lúc nhận thức mới phát sinh, tâm cùng tâm sở đồng thời phát khởi tương ưng, hỗ tương nương vào nhau mà tồn tại. Cho nên gọi là tương ưng nhân. Quả có được của nhân này là quả sĩ dụng.

5-BIẾN HÀNH NHÂN (sarvatraga-hetu): Chỉ cho phiền não có khả năng biến đi khắp đối với tất cả các pháp nhiễm ô mà nói. Cùng với đồng lọai nhân ở trên là pháp nhân quả dị thời trước sau, song vì đồng loại nhân thông đối với tất cả các pháp, trong khi biến hành nhân thì do mười một biến hành trong tâm sở biến sinh khắp tất cả các hoặc, cho nên gọi là biến hành nhân vì sinh ra đủ loại phiền não. Quả có được của nhân này gọi là đẳng loại quả.

6-DỊ THỤC NHÂN(vipāka-hetu): Chỉ cho nhân nghiệp thiện ác của quả báo khổ vui trong ba đời. Quả có được của nhân này gọi là quả dị thục.

 

Như vậy  sự nhiếp thâu giữa tứ duyên và lục nhân giống như trên đã nói là Năng tác nhân bao gồm cả ba duyên: đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, câu hữu nhân cùng năm nhân khác kia thâu nhiếp chung cả nhân duyên.

 

Giảng Sư cũng nhắc đến:Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức. Giảng Sư cũng nhấn mạnh đến lẽ tất nhiên của vũ trụ quan (tòan bộ thế giới này có vô số nhân và quả do những yếu tố đất, nước, gió, lửa, hư không, những bản thể vật lý và phi vật lý, dương tử và phi dương tử tạo thành) cho nên không một phạm thiên, thượng đế hay một đấng vô hình nào có thể tạo ra một vật hữu hình.

 

Chúng ta cũng ngạc nhiên khi Giảng Sư đưa ra một thí dụ khi chiết cành để trồng cây thay vì gieo hạt giống để giới thiệu bản chất hiện hữu của cảm thọ để thuyết phục người nghe rằng “Tại sao ta phải mượn tấm thân vật lý này để thành tựu tâm lý theo nhân và quả thuận, nghịch”. Và may thay  Đức Thế Tôn đã chỉ ra con đường mà người con Phật muốn giác ngộ phải có được nhân Từ Bi và Trí Tuệ mà Đức Thế Tôn đã tự thể bản thân bằng những cảm thọ khi đối tác giữa 6 căn tiếp xúc sáu trần.

 

Giảng Sư cũng nhắc đến lời phát biểu của nhà bác học Albert Einstein về Phật Giáo như sau: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vươt lên Thượng đế của cá nhân, tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học. Đạo Phật trả lời cho những sự mô tả này. Nếu có một tôn giáo mà có thể đương đầu với những nhu cầu của khoa học hiện đại đấy sẽ là Đạo Phật.”

Có lẽ đã hơn thời gian để trình bày cho phép và 2 câu hỏi từ đạo hữu Tịnh Bảo như sau:

1-Sống theo đúng nhân quả thì thế nào gọi là Sống đúng Chánh pháp và Tà pháp ? Chữ Nghiệp có liên quan đến vận mệnh con người chăng?

2- Ta vẫn thường Sám Hối để tiêu nghiệp tội, nếu nhân quả là một định luật thì việc sám hối ấy có hiệu quả thế nào?

Lời giải đáp của Giảng sư có thể chưa làm vừa ý đạo hữu Tịnh Bảo vì Thượng Tọa không nhắc gì đến việc sám hối và chữ Nghiệp mà chỉ nói rằng Nhân quả là một đề tài khá lớn và đây là một định luật, một nguyên lý không ai có thể chối cãi.

Riêng con chợt nhớ đến câu hỏi đáp tương tự của trung tâm hộ tông do HT Viên Minh chỉ đạo rằng: “Nếu biết rõ nhận thức và hành vi sai lầm trước đây thì sám hối là điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng tốt. Nhưng có những hậu quả không biết chính xác nguyên nhân nào thì có thể dựa trên luật nhân quả mà suy đoán để sám hối chung chung cũng được. Khi biết do nghiệp chính mình tạo ra hậu quả hiện tại thì cần chấp nhận với tâm nhẫn nại, cảm thông và thương yêu chứ không nên sân hận và đối kháng. Đành rằng nhân nào tạo ra cảnh giới sa đọa nhân đó gọi là pháp bất thiện. Nhân nào tạo ra cảnh giới an lạc thì nhân đó gọi là hạt giống thiện.”



tt giac tin (6)tt giac tin (2)tt giac tin (3)tt giac tin (5)tt giac tin (8)








Lời Kết:

 

 Đây là lần thứ  sáu của chương trình hoằng pháp tổ chức trên hệ thống online, từ lúc bắt đầu với con số người tham dự rất khiêm nhượng từ 20 đến cuối giờ 32 người quả cũng là một món quà tinh thần cho Tổng Vụ Hoằng Pháp, hơn thế nữa thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ bản nhất của đạo Phật. Không một ai đã hướng theo đạo Phật  mà không hiểu rõ về triết lý nhân quả. Nhân: chính là nguyên nhân, là cái nhân mà mình gieo trồng. Qủa: chính là điều mình nhận được, là trái của cây ( nhân ) mà mình gieo trồng. Áp dụng vào đời sống, đó là khi chúng ta làm việc thiện thì sẽ gặp những điều lành, cuộc sống được hạnh phúc, ấm no, sung sướng. Còn nếu như ta làm điều ác thì chúng ta thọ lãnh quả ác, cuộc sống đau khổ bất hạnh.

Đời này nhân gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên thì lại biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác, từ đó tạo thành một chuổi nhân quả liên tiếp và kế tục. Luật nhân quả luân hồi và tiếp tục, hãy sống tốt và đẹp để hưởng được phước lành trong cuộc sống. Hy vọng với những bài kệ Đức Phật đã giảng trong kinh Nhân Quả Ba Đời sẽ giúp chúng ta chiêm nghiệm thêm.

Thiện nam, tín nữ nghe ta nói:

Suy nhớ kinh Nhân Quả ba đời

Nhân quả ba đời việc chẳng nhỏ,

Phật nói lời Phật chớ chê khinh.

Kính chúc Thượng Toạ Tổng Vụ Trưởng Thích Đạo Nguyên tứ đại thường an, pháp duyên vô ngại tiếp tục chủ đạo những buổi hoằng pháp thật lợi lạc cho Phật tử,

 Kính Chúc TT Giảng Sư Thích Giác Tín (Phó Thư ký 1 kiêm Tổng Vụ phó Tổng Vụ Tăng Sự hội đồng điều hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan) có nhiều buổi  giảng về Nhân quả và Nghiệp thêm để thính chúng hiểu thấu và thông pháp Phật hơn nữa, kính chúc Ngài được nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc.

Sống chân thành với định luật nhân quả

Gieo gì gặt nấy quả hiện rõ tương đương

Phước đức trần gian vẫn đó...bao Gương

Phật dạy:

Nhân quả ba đời...chỉ từ Tâm Thiện!

 

Bài pháp thoại nghe rồi tìm hiểu...nguyện

Được làm người dù gặp thuận nghịch duyên

Quán nhìn Như Thị...vũ trụ thiên nhiên

Thông “Tứ Diệu Đế học về Khổ, Diệt Khổ”

 

Nhân và quả đều nằm trong đây tất cả

Tóm gọn Pháp thế gian và Xuất thế gian

Muốn cho cuộc sống  thanh thản an nhàn

Tin định luật này.... không một ai thoát được!

Bạn ơi...cùng nhau tu huệ và tu Phước!

Nam Mô A Di Đà Phật

Melbourne 8/9/2022

Huệ Hương

 

  

 

Những bài liên quan:

* Tường thuật nhanh về Lễ Ra Mắt Tổng Vụ Hoằng Pháp-Giáo Dục 

1/ Ý Nghĩa An Cư Kiết Hạ (Bài giảng của TT Tâm Minh

2/ Gương Hiếu của Tôn giả Xá Lợi Phật (TT Thích Nguyên Tạng)

3/ “Chữ Hiếu Trong Đạo Phật” (NS Thích Nữ Thảo Liên)

4/ “Hiếu Đạo” (TT Thích Viên Trí)

5/ “Thiền Chánh Niệm” (TT Thích Đạo Nguyên)

6/ Nhân Quả Ba Đời (TT Thích Giác Tín)

7/ Cốt tủy Kinh Thủ Lăng Nghiêm (HT Thích Huyền Tôn)

8/ Quy Y Tam Bảo (NS Thích Nữ Tâm Lạc)

9/ Vô Thường (TT Thích Phổ Huân)

10/ Bồ Tát Giới (Đức Trưởng Lão HT Thích Bảo Lạc) 

11/ Nguyên nhân và quá trình hình thành GHPGVN Thống Nhất" (HT Thích Như Điển)

12/Ngũ Giới (Sư Cô Giác Anh)

13/Tổng Quan về Kinh Bát Đại Nhân Giác (TT Thích Đạo Hiển)

14/ Thập Thiện Nghiệp Đạo (TT Thích Viên Tịnh)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/06/2024(Xem: 589)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 590)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 741)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1060)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 782)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 8765)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 553)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1384)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
12/05/2024(Xem: 1733)
Thế là ngày lễ mẹ lại về, thế nhân rộn ràng với bao lời chúc, với hoa tươi và những món quà… Những người con lại có phút giây xao lòng hay chạnh lòng nghĩ về mẹ, tưởng nhớ mẹ. Những nghệ sĩ lại viết thêm bài nhạc, bài văn hay bài thơ mới về chủ đề mẹ. Đời sống hiện đại hôm nay vô cùng hối hả và bận rộn, nhiều khi con người ta vô tình lơ đễnh quên đi ơn nghĩa mẹ cha. Ngày lễ mẹ là một ngày lễ đầy tính nhân văn cao cả, giúp đánh động tâm mọi người, nhắc nhở mọi người nhớ về mẹ ( về đấng sinh thành nói chung).
09/05/2024(Xem: 3620)
Hằng năm cứ vào chủ Nhật tuần thứ hai của tháng năm dương lịch trùng hợp vào mùa Vesak của người con Phật( tháng tư âm lịch) là ngày lễ Hiền Mẫu ( nói chung cho đa số quốc gia trên thế giới trong đó có Mỹ, Úc, Anh , Đức , Canada, Ấn Độ , Miến Điện , Tân Tây Lan , Nhật Bản, Miến Điện, Thụy Sĩ, Hoà Lan, Phần Lan, Việt Nam và còn nhiều nữa ….) để biểu dương sự tri ân về triết lý sống và tình thương của Mẹ đã trở thành nguồn khởi hứng và hành trang cho những người con của Mẹ tiếp tục bước đi trên đường đời. Quả thật vậy, hình bóng người mẹ cao quý , thiêng liêng, cao cả, sự hy sinh vô bờ bến của tình mẫu tử, trái tim đầy nhân ái ….từ nghìn xưa cho tới nay, từ Đông sang Tây của bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều đã in sâu trong lòng người con từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com