Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II.

11/03/201104:02(Xem: 8648)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI BA: ADYAR

II.

Trong suốt thời gian liên hệ giữa chúng tôi, bà Blavatsky và tôi chưa bao giờ sống gần bên nhau một cách thân mật như trong chuyến du hành trên một chiếc thuyền trên con kênh đào Buckingham.

Kênh đào này là một công trình thuœy lợi để cứu giúp cho hàng nghìn nông dân bị mất mùa, đói kém trong một trận thiên tai kinh khuœng hồi thời Quận công Buckingham đảm nhiệm chức vụ Thống đốc tỉnh Madras.

Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn sinh hoạt và làm việc chung với sự có mặt của các bạn bè thân hữu, hay nói chung là bao giờ cũng có một “người thứ ba”. Nhưng trong dịp này, chúng tôi sống riêng biệt trong một chiếc du thuyền, chỉ có đứa bé giúp việc Babula và vài người chèo thuyền.

Khoang thuyền được trang bị như một phòng ca-bin nhỏ, hai bên là hai cái tủ nhỏ để đựng hành trang, trên mặt có trải nệm để làm giường nằm. Ở giữa có một cái bàn xếp, khi nào không cần dùng đến thì có thể xếp lại và treo lên nóc khoang. Phía ngoài là chỗ nấu bếp, có lu đựng nước uống, có mọi thứ tiện nghi tối thiểu và mọi thứ phẩm vật cần dùng trong khi đi đường. Khi có gió thổi thì buồm được giương lên để thuyền lướt nhẹ trên mặt nước. Khi gió ngược thì những phu chèo thuyền nhảy lên bờ, dùng dây cói buộc lên vai họ và kéo thuyền đi với tốc độ khoảng năm cây số giờ.

Theo sau chúng tôi, còn một chiếc thuyền khác chở vài bạn đạo thân tín nhất thuộc tỉnh Madras. Trong số đó có bạn Ivalu Naidu, công chức Sở Thuế vụ đã về hưu, một người có tấm lòng vàng mà chúng tôi rất quý mến và hãnh diện khi được kết tình thân hữu với ông.

Mục tiêu của chuyến đi trên sông này là thị trấn Nellore, phải mất hai ngày đi thuyền mới tới. Chúng tôi khởi hành lúc bảy giờ tối một đêm trăng sáng, nhằm ngày 3 tháng 5 năm 1882, trăng đã tròn, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng yên và trong như bạc, làm cho chúng tôi có cảm giác như đi vào cảnh mộng.

Sau khi ra khỏi thành phố, không một tiếng động làm gián đoạn cái im lặng thâm trầm của miền đồng quê, trừ ra tiếng kêu lẻ loi của những con chó rừng, giọng nói thì thầm của những phu chèo thuyền nói chuyện với nhau, và tiếng nước vỗ nhẹ vào hai bên mạn thuyền.

Xuyên qua các cửa sổ, một ngọn gió đêm thổi vào mát rượi, đượm mùi ruộng lúa trổ bông với hương vị đồng quê thật nhẹ nhàng bát ngát.

Tôi với bà Blavatsky cùng ngồi thưởng thức cảnh vật êm đềm, tinh thần sảng khoái trong giờ phút nghỉ ngơi rất hiếm có giữa nếp sống lăn lộn vô cùng kích động, ồn ào và nhộn nhịp của chúng tôi.

Chúng tôi chỉ nói rất ít, dưới ảnh hưởng mê ly đầy thi vị thần tiên của một đêm trăng Ấn Độ. Đến tận khuya chúng tôi mới chia tay để cùng nghỉ ngơi dưỡng sức.

Nhờ có ngọn gió nồm từ hướng tây nam thổi mạnh, chiếc thuyền thẳng tiến suốt đêm, và lộ trình của chúng tôi được nhẹ nhàng êm ái, không trở ngại.

Trời vừa hừng sáng, thuyền tấp vào bờ để những người phu chèo thuyền nhóm lửa nấu cơm. Các bạn hữu trên thuyền kia cũng cho thuyền đậu và sang với chúng tôi.

Khi mọi người đã dùng bữa xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, hai chiếc thuyền lướt nhẹ êm ru như những bóng mây. Bà Blavatsky và tôi bận rộn suốt ngày hôm đó với công việc trả lời thư từ còn ứ đọng và soạn bài vở cho tạp chí Theosophist, thỉnh thoảng cũng tạm ngưng để cùng nhau mạn đàm trong giây lát.

Lẽ tất nhiên, đề tài duy nhất của chúng tôi là tình hình và triển vọng của Hội Thông thiên học, và tác dụng rốt ráo khả hữu của những tư tưởng Đông phương mà chúng tôi đang truyền bá đối với dư luận quần chúng đương thời. Về vấn đề này, chúng tôi cùng lạc quan như nhau, và không một điểm nghi ngờ hay bất đồng nào thoáng qua trong trí óc. Chính niềm tin mãnh liệt đó đã giúp chúng tôi luôn thản nhiên, bình tĩnh trước mọi biến cố, tai ương và nghịch cảnh, những sự ngăn chặn biết bao nhiêu lần trong cuộc đời hoạt động của chúng tôi.

Vài bạn đồng hành hiện hữu có lẽ không thỏa mãn, nhưng quả thật là những sự tiên liệu của chúng tôi nhắm vào ảnh hưởng của giáo lý Thông thiên học đối với trào lưu tư tưởng cận đại nhiều hơn là bàn về sự bành trướng khả hữu của Hội khắp nơi trên thế giới. Thật sự chúng tôi không hề trông đợi việc ấy có thể xảy ra. Cũng như khi rời khỏi New York đi Bombay, chúng tôi không hề mơ tưởng rằng Hội có thể mở Chi hội cùng khắp Ấn Độ và Tích Lan, thì bây giờ cũng thế, trên chiếc du thuyền lướt đi trong im lặng này, chúng tôi không hề nghĩ rằng Hội có thể khuấy động quần chúng để mở đường cho việc tổ chức các Chi hội và thành lập những trung tâm truyền bá giáo lý Thông thiên học khắp nơi ở châu Mỹ, châu Âu; đừng nói chi đến châu Úc, châu Phi và Viễn Đông.

Làm sao chúng tôi có thể nghĩ đến điều đó? Chúng tôi có thể trông cậy nơi ai? Ai là người dũng lực phi thường để có thể gánh lấy trên vai của mình cái trách nhiệm nặng nề như thế? Bạn đọc hãy nhớ rằng, hồi đó chỉ mới là năm 1882, và ngoài châu Á ra, chỉ có ba Chi hội Thông Thiên Học trên thế giới (không kể trung tâm New York vẫn còn chưa được tổ chức lại). Chi hội London và Chi hội Corfu (Hy Lạp) chỉ là những cơ quan bất động.

Ông Judge đã sang Nam Mỹ để làm việc cho một công ty khai thác mỏ bạc, và Trụ sở Thông thiên học ở New York vẫn im lìm không hoạt động. Chỉ còn có hai người bạn già chúng tôi trên chiếc du thuyền này là nắm giữ giềng mối điều khiển mọi sự, và khoảnh đất dụng võ của chúng tôi là phương Đông. Cũng không hơn gì tôi, lúc ấy bà Blavatsky không hề biểu lộ khả năng tiên tri nào, nên chúng tôi vẫn làm việc và xây dựng nền tảng cho cái tương lai vĩ đại mà không người nào trong hai chúng tôi có thể nhìn thấy trước.

Trong số hàng nghìn hội viên Hội Thông thiên học hiện tại, chắc hẳn có bao nhiêu người sẵn lòng đổi lấy với bất cứ giá nào, tình tương thân đầm ấm mà bà Blavatsky dành cho tôi trong chuyến du hành bằng thuyền này! Điều làm cho chuyến đi này càng thú vị và lợi lạc hơn nữa, là bà có sức khỏe tốt, tinh thần lên cao, và không có gì làm che ám bầu không khí vui tươi giữa tình bạn của chúng tôi. Nếu không được như thế, hẳn tôi đã trở thành một kẻ bị nhốt trong chuồng cọp, làm bạn với một con sư tử cái trong Sở Thú! Và như vậy, chắc hẳn là tôi thà nhảy lên bờ đi bộ, hoặc chuyển sang thuyền kia để làm bạn với Iyalu Naidu còn dễ chịu hơn!

Ôi! Blavatsky, người bạn đáng thương, bạn đồng môn, người cộng tác, người hướng dẫn của tôi! Không ai có thể làm khổ tôi hơn bà trong những cơn giông tố ồ ạt, và cũng không ai dễ mến và đáng yêu hơn bà trong những khi tinh thần lên cao, khi bà có một tác phong đằm thắm dịu dàng!

Tôi luôn tin rằng chúng tôi đã từng làm việc chung với nhau trong những kiếp trước, và tôi cũng tin rằng chúng tôi sẽ còn hợp tác với nhau trong những kiếp tương lai vì mục đích phụng sự nhân loại.

Chúng tôi đến Nellore lúc mười một giờ khuya và được tiếp đón trọng hậu. Một ngôi biệt thự to lớn đã được trang hoàng lịch sự để cho phái đoàn chúng tôi tạm trú, và tuy giờ đã khuya, tôi vẫn phải đáp từ hai bài diễn văn, một bằng tiếng Phạn và một bằng tiếng Anh. Sau đó chúng tôi mới được về phòng ngơi nghỉ, ai nấy đều thấm mệt.

Từ ngày hôm sau trở đi, chúng tôi lại bắt đầu chương trình hoạt động thông thường như mọi cuộc viếng thăm ở những nơi khác: một buổi diễn thuyết trước một cử tọa đông đảo. Ngày kế đó dành cho công việc soạn bài vở tạp chí và thu nhận hội viên mới. Chiều đến, một phái đoàn học giả ưu tú về môn Phạn ngữ đến viếng và chất vấn chúng tôi về đạo lý; và đến mười một giờ khuya, chúng tôi chính thức thành lập Chi hội Thông thiên học tại Nellore.

Kế đó chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Mypaud, rồi đi Guntur. Và cứ như thế, chương trình hoạt động của chúng tôi lại tái diễn như trên.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2013(Xem: 3782)
New Delhi (phiên âm Việt ngữ Tân Đề Li) là tên của thủ đô nước Ấn Độ ngày nay. New Delhi có nghĩa là Delhi mới. Đã có mới ắt phải có cũ. Và chỉ khi sang Ấn Độ, sống ở thành phố này trong 3 ngày tôi mới biết có một khu gọi là Old Delhi (Cựu Đề Li). Và cả Old Delhi lẫn New Delhi nằm trong phần đất có tên là Lãnh thổ Thủ đô Quốc gia (National Capital Territory of Delhi).
09/11/2012(Xem: 9122)
Ngôi Thánh địa Già lam Bạch Mã, ngôi chùa cổ xưa nhất ở Trung Quốc, tọa lạc khoảng 6 dặm Anh, cách Thành phố Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc. Ngôi Già lam Bạch Mã Cổ Tự được sáng lập từ thời Minh Đế của triều đại Đông Hán (từ năm 29 sau Công Nguyên đến năm 75 sau Công Nguyên), gắn liền với truyền thuyết thần kỳ về sự kiến tạo thuở sơ khai.
12/09/2012(Xem: 7210)
Quan Âm Cổ Tự (Gwaneumsa-觀音古寺) nằm phía Đông bắc dưới chân núi Halla (漢拏山), Ara-dong, Thành phố Jeju. Ngôi Cổ tự được thành lập vào thế kỷ thứ 10, vào triều đại Cao Ly ‘Goryeo’ (AD 918 ~ 1392). Trong những năm 1700, triều đình Joseon (Triều Tiên) tôn sùng Nho giáo và phế Phật vì thế Phật giáo vùng Jeju lâm vào Pháp nạn, các Tự viện bị phá hủy trong đó có ngôi Quan Âm Cổ Tự. Đầu thế kỷ 20, năm Nhâm Tý (1912) vị Pháp sư Tỳ Kheo ni An Phùng - Lệ Quán (安逢麗觀) mới tái tạo lại. Năm Giáp Thìn (1964), trùng tu nguy nga tráng lệ như hiện nay. Ngôi Danh lam cổ tự hùng tráng này là cơ sở thứ 23 của Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc.
19/06/2012(Xem: 3276)
Sa mạc Gobi (Trung Quốc) nổi tiếng thế giới bởi sự khắc nghiệt, xứng danh là một trong các vùng đất “khó sống” nhất trên hành tinh. Những đụn cát cao ngút, những trận bão sa mạc và nạn thổ phỉ kinh hoàng trong truyền thuyết xảy ra liên miên, cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu thương nhân khi qua đây. Nó trở thành nỗi ám ảnh lớn với rất nhiều người và không mấy ai nghĩ địa điểm này thích hợp cho sự sống. Ấy thế mà đã có một hồ “trăng lưỡi liềm” và mảnh đất thiên đường “rơi” xuống sa mạc Gobi và trở thành một trong những ốc đảo tuyệt vời nhất trên Trái đất này.
20/05/2012(Xem: 8253)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
02/03/2012(Xem: 3606)
Trên đường đến Linh Thứu sơn thuộc thành Vương Xá, nay là Rajgir, cách trường đại học Na Lan Đà khoảng 1500 m, đoàn chúng tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm ngài Huyền Trang (Huyền Trang Kỷ Niệm Đường) mặc dù ngoài trời mưa vẫn còn nặng hạt...
12/02/2012(Xem: 14758)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
11/01/2012(Xem: 9326)
Ý tưởng về một cuộc hành hương về xứ Phật là do chính Đức Phật nói ra. Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình sau khi Người từ giã trần gian. Những nơi đó là Lumbini, nơi Đức Phật đản sinh; Bodhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Đức Phật chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng; Vườn Nai ở Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên – Kinh Chuyển Pháp Luân; và Kusinara (Câu Thi Na), nơi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn...
28/12/2011(Xem: 4030)
Trong khi nhiều tôn giáo truyền thống khuyến khích tín đồ lên đường hành hương, như Đức Phật Thích Ca là một bậc thầy vô thượng mà tất cả Phật tử hướng về quy y và những giáo huấn của Ngài chúng ta thực hành một cách tốt nhất để đi theo, đối với chúng ta những thánh địa thiêng liêng nhất là những nơi Đức Phật đã giảng dạy và hành động vì lợi ích của chúng sinh. Trong khi chúng ta nên ngưỡng vọng và thăm viếng những nơi này, một cách truyền thống bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất là: * Lâm tỳ ni, nơi Sĩ Đạt Ta sinh ra trong thế giới này như một người bình thường. * Đạo Tràng Giác Ngộ, nơi Sĩ Đạt Ta trở nên giác ngộ. * Lộc Uyển, nơi Ngài giảng dạy con đường đến giác ngộ, và * Câu thi na, nơi Ngài nhập niết bàn.
01/08/2011(Xem: 3978)
Từ 13/3 đến 28/3/1994, Viện Nghiên cứuPhật học Việt Nam đã tổ chức một đoàn chiêm bái các Phật tích tại Ấn Độ, gồm 19 người, do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu làm Trưởng đoàn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Phó đoàn, với Ban Thư kýgồm Hòa thượng Thích Giác Toàn và Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn. Chuyến đi được Hòa thượng Thích Chơn Thiện lúc ấy đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ giúp sắp xếp các việc cần thiết và đề xuất kế hoạch, lộ trình chi tiết. Sau ngày thống nhất đất nước, đây là chuyến xuất ngoại dân sự đầu tiên có tổ chức của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, mở đầu cho việc hội nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo đăng tải lại dưới đây bài tường thuật do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu thực hiện, như một kỷ niệm để tưởng nhớ ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]