Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

IV.

11/03/201104:02(Xem: 10125)
IV.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MỘT: VÀI NÉT PHÁC HỌA TÍNH CÁCH CỦA BÀ BLAVATSKY

IV.

Về mặt xã giao, lúc bình thường bà là người hay nói thẳng, nói toạc ra sự thật mà không sợ mích lòng, nhưng khi cần phải lễ độ đối với một nhân vật mới quen biết thì bà tỏ ra là một phụ nữ quí phái chính cống.

Dù cho bà ăn mặc xuề xòa không chải chuốt về hình dáng bên ngoài, bà vẫn có cái tác phong của một người thuộc dòng quí tộc, và nếu muốn bà vẫn có thể sang trọng, hào hoa như một bà công tước nước Pháp. Nhưng trong đời sống bình thường hằng ngày, những lời châm biếm của bà thật sắc như dao, và những cơn thịnh nộ của bà như những quả bom nổ!

Đối với bà, điều khả ố duy nhất không thể tha thứ là sự giả dối, khoác lác, với vẻ thượng lưu, trang trọng giả tạo bề ngoài. Khi gặp những trường hợp đó, bà không ngần ngại nói thẳng vào mặt kẻ giả dối, làm cho anh ta cảm thấy như bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt! Với một khả năng phán đoán chính xác đến lạ kỳ, bà thường thấy rõ được tất cả thói hư tật xấu của những người mà bà tiếp xúc; và nếu họ tỏ ra chê bai giáo lý Thông thiên học hoặc nói đến bà với một giọng khinh thường, thì bà sẽ phô bày tất cả những sự thật bỉ ổi kia trước mặt mọi người!

Những người giả dối làm cho bà phát ghét, còn đối với những người nghèo khổ, dốt nát nhưng ngay thẳng, thật thà thì bà luôn dành một lòng ưu ái và rất thường giúp đỡ, tặng quà. Tinh thần khoáng đạt không chịu sự gò bó chật hẹp theo nghi thức xã hội, đối với bà gần như một điều thiêng liêng và bà cảm thấy không gì thích thú hơn là làm hoặc nói ra những điều làm sửng sốt những kẻ đạo mạo mực thước. Thí dụ như tối hôm nọ, bà mặc áo ngủ nằm trên giường tiếp chuyện với một nhóm khách quen cả nam lẫn nữ. Đó là một lối sinh hoạt theo cung cách của các vị phu nhân vương giả quý phái hồi thời tiền cách mạng ở Âu Châu.

Tính chất tự nhiên không chút mặc cảm của bà trong cách xã giao đó cũng không làm cho ai khó chịu. Không một vị nữ khách nào nhìn thấy nơi bà một kẻ tình địch khả hữu, và không một người đàn ông nào nghĩ rằng bà có thể bị họ ve vãn đến phải xiêu lòng.

Bà nguyền rủa, chửi thề như lính tập ngoài mặt trận nhưng không chút ác ý, và nếu cái thú vui dị thường đó của bà không làm cho ai chú ý và lên án thì bà sẽ thôi không tiếp tục. Đó là điểm tâm lý chung của mọi người, cũng như trong tính chất tự nhiên của bà, là thích làm những điều cấm kỵ chỉ vì có sự phản kháng.

Cuộc đời thế gian đối với bà là một trò vô nghĩa, mồi danh bã lợi chỉ là rơm rác. Cuộc sống thức tỉnh của bà lúc ban ngày chỉ là một sự sống ảm đạm, khô khan, tẻ nhạt; đời sống thật sự của bà là lúc ban đêm, khi bà rời khỏi thể xác để đến ngồi dưới chân các đấng chân sư.

Bà khinh bỉ những nhà bác học thiển cận mù quáng, đầu óc nông cạn chật hẹp. Họ không hề nhìn thấy mảy may sự thật nhưng lại xét đoán, nhận xét về bà một cách bất chính và thiên lệch, sai lầm, rồi họ tìm cách ngăn chặn bà bằng những âm mưu vu khống.

Đối với các hàng giáo phẩm nói chung, bà rất ghét, bởi vì họ thường không biết gì về những chân lý trên lãnh vực tinh thần, nhưng lại nắm quyền dắt dẫn những kẻ mù quáng tâm linh, kiểm soát tín ngưỡng của người thế tục, hưởng thụ lợi lộc mà họ không hề làm ra và lên án những người “ngoại đạo”, nhưng những người này lại thường là những nhà hiền triết, những bậc thức giả.

Bà Blavatsky có vô số bạn bè thân hữu, nhưng thường hay mất bạn. Thậm chí có người về sau lại trở thành thù nghịch với bà. Không ai có thể dễ mến hơn bà khi bà muốn, đó là những khi bà muốn qui tụ những người cộng tác với bà trong công việc đạo sự. Những khi đó thì bà tỏ ra rất ngọt ngào dễ thương trong giọng nói và thái độ, cử chỉ, làm cho người kia cảm thấy được bà xem như một người bạn tốt nhất, nếu không phải là duy nhất của bà.

Đối với những người thường gặp như tôi và những người cộng tác thân tín khác, tôi không thể nói rằng bà luôn trung hậu, chân thành. Tôi nghĩ rằng bà chỉ xem chúng tôi như những quân cờ trong một ván cờ, thế thôi, chứ không hề có một cảm tình trìu mến sâu xa tự đáy lòng. Bà kể cho tôi nghe những điều bí mật của nhiều người, cả nam lẫn nữ, thậm chí cả những điều rất tổn thương danh dự mà họ đã kể cho bà nghe, và tôi tin chắc rằng bà cũng xử sự y như vậy đối với những việc riêng tư của tôi.

Nhưng bà luôn trung thành tuyệt đối với các đấng chân sư; vì công việc của các ngài, bà sẵn lòng hy sinh không phải chỉ trọn một cuộc đời, mà thậm chí còn có thể đến nhiều đời sau nữa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2013(Xem: 3816)
New Delhi (phiên âm Việt ngữ Tân Đề Li) là tên của thủ đô nước Ấn Độ ngày nay. New Delhi có nghĩa là Delhi mới. Đã có mới ắt phải có cũ. Và chỉ khi sang Ấn Độ, sống ở thành phố này trong 3 ngày tôi mới biết có một khu gọi là Old Delhi (Cựu Đề Li). Và cả Old Delhi lẫn New Delhi nằm trong phần đất có tên là Lãnh thổ Thủ đô Quốc gia (National Capital Territory of Delhi).
09/11/2012(Xem: 9178)
Ngôi Thánh địa Già lam Bạch Mã, ngôi chùa cổ xưa nhất ở Trung Quốc, tọa lạc khoảng 6 dặm Anh, cách Thành phố Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc. Ngôi Già lam Bạch Mã Cổ Tự được sáng lập từ thời Minh Đế của triều đại Đông Hán (từ năm 29 sau Công Nguyên đến năm 75 sau Công Nguyên), gắn liền với truyền thuyết thần kỳ về sự kiến tạo thuở sơ khai.
12/09/2012(Xem: 7321)
Quan Âm Cổ Tự (Gwaneumsa-觀音古寺) nằm phía Đông bắc dưới chân núi Halla (漢拏山), Ara-dong, Thành phố Jeju. Ngôi Cổ tự được thành lập vào thế kỷ thứ 10, vào triều đại Cao Ly ‘Goryeo’ (AD 918 ~ 1392). Trong những năm 1700, triều đình Joseon (Triều Tiên) tôn sùng Nho giáo và phế Phật vì thế Phật giáo vùng Jeju lâm vào Pháp nạn, các Tự viện bị phá hủy trong đó có ngôi Quan Âm Cổ Tự. Đầu thế kỷ 20, năm Nhâm Tý (1912) vị Pháp sư Tỳ Kheo ni An Phùng - Lệ Quán (安逢麗觀) mới tái tạo lại. Năm Giáp Thìn (1964), trùng tu nguy nga tráng lệ như hiện nay. Ngôi Danh lam cổ tự hùng tráng này là cơ sở thứ 23 của Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc.
19/06/2012(Xem: 3328)
Sa mạc Gobi (Trung Quốc) nổi tiếng thế giới bởi sự khắc nghiệt, xứng danh là một trong các vùng đất “khó sống” nhất trên hành tinh. Những đụn cát cao ngút, những trận bão sa mạc và nạn thổ phỉ kinh hoàng trong truyền thuyết xảy ra liên miên, cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu thương nhân khi qua đây. Nó trở thành nỗi ám ảnh lớn với rất nhiều người và không mấy ai nghĩ địa điểm này thích hợp cho sự sống. Ấy thế mà đã có một hồ “trăng lưỡi liềm” và mảnh đất thiên đường “rơi” xuống sa mạc Gobi và trở thành một trong những ốc đảo tuyệt vời nhất trên Trái đất này.
20/05/2012(Xem: 8557)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
02/03/2012(Xem: 3627)
Trên đường đến Linh Thứu sơn thuộc thành Vương Xá, nay là Rajgir, cách trường đại học Na Lan Đà khoảng 1500 m, đoàn chúng tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm ngài Huyền Trang (Huyền Trang Kỷ Niệm Đường) mặc dù ngoài trời mưa vẫn còn nặng hạt...
12/02/2012(Xem: 14887)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
11/01/2012(Xem: 9492)
Ý tưởng về một cuộc hành hương về xứ Phật là do chính Đức Phật nói ra. Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình sau khi Người từ giã trần gian. Những nơi đó là Lumbini, nơi Đức Phật đản sinh; Bodhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Đức Phật chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng; Vườn Nai ở Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên – Kinh Chuyển Pháp Luân; và Kusinara (Câu Thi Na), nơi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn...
28/12/2011(Xem: 4066)
Trong khi nhiều tôn giáo truyền thống khuyến khích tín đồ lên đường hành hương, như Đức Phật Thích Ca là một bậc thầy vô thượng mà tất cả Phật tử hướng về quy y và những giáo huấn của Ngài chúng ta thực hành một cách tốt nhất để đi theo, đối với chúng ta những thánh địa thiêng liêng nhất là những nơi Đức Phật đã giảng dạy và hành động vì lợi ích của chúng sinh. Trong khi chúng ta nên ngưỡng vọng và thăm viếng những nơi này, một cách truyền thống bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất là: * Lâm tỳ ni, nơi Sĩ Đạt Ta sinh ra trong thế giới này như một người bình thường. * Đạo Tràng Giác Ngộ, nơi Sĩ Đạt Ta trở nên giác ngộ. * Lộc Uyển, nơi Ngài giảng dạy con đường đến giác ngộ, và * Câu thi na, nơi Ngài nhập niết bàn.
01/08/2011(Xem: 4009)
Từ 13/3 đến 28/3/1994, Viện Nghiên cứuPhật học Việt Nam đã tổ chức một đoàn chiêm bái các Phật tích tại Ấn Độ, gồm 19 người, do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu làm Trưởng đoàn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Phó đoàn, với Ban Thư kýgồm Hòa thượng Thích Giác Toàn và Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn. Chuyến đi được Hòa thượng Thích Chơn Thiện lúc ấy đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ giúp sắp xếp các việc cần thiết và đề xuất kế hoạch, lộ trình chi tiết. Sau ngày thống nhất đất nước, đây là chuyến xuất ngoại dân sự đầu tiên có tổ chức của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, mở đầu cho việc hội nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo đăng tải lại dưới đây bài tường thuật do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu thực hiện, như một kỷ niệm để tưởng nhớ ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]