Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II.

11/03/201104:02(Xem: 10231)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG BẢY: NỮ TU SĨ MAJI

II.

Ngày hôm sau, sau khi ăn điểm tâm, chúng tôi lên xe để đến viếng đạo viện của bà Maji, một vị nữ tu sĩ rất nổi tiếng, làu thông kinh điển Phệ-đà. Bà ở trong một động đá dưới hầm của đạo viện, nằm bên bờ sông Hằng, cách thành phố Ba-la-nại độ hai dặm. Bà thừa kế đạo viện này của thân phụ bà, vốn là một Yogi, cùng với một ngôi nhà trong thành phố và một thư viện Phạn ngữ rất phong phú và quý giá.

Đó là một nơi ẩn cư rất tĩnh mịch, nhất là vào buổi sáng sớm, và rất thuận lợi cho việc công phu thiền định. Tọa lạc bên bờ sông, độ mười lăm thước cao hơn mặt nước, và được che khuất dưới những lùm cây cổ thụ, thật là một nơi đạo viện lý tưởng có phong vị thần tiên khi chúng tôi ngồi trên bệ đá dưới những gốc hòe nở hoa đỏ thắm, cành lá sum suê rậm rạp và luận đàm về đạo lý với nhà nữ tu trí thức này.

Đó là một trong những kinh nghiệm kỳ thú nhất của chúng tôi trên đất Ấn Độ, mà người quen sống ở các xứ Tây phương không bao giờ có thể tưởng tượng được.

Hồi ấy, bà Maji trạc bốn mươi tuổi, màu da lợt, với một phong độ trang nghiêm và cốt cách lịch sự làm cho người ta phải kính nể. Bà có một giọng nói dịu dàng, gương mặt và thân hình đầy đặn, đôi mắt tinh anh biểu lộ sự thông minh và đức tính quả cảm, cương nghị. Bà từ chối không biểu diễn phép thuật thần thông, như chúng tôi vẫn luôn yêu cầu các nhà đạo sĩ trong những dịp tương tự. Những lý do từ chối của bà đều được tất cả các bạn trong nhóm chúng tôi chấp nhận là đầy đủ, và cuộc thăm viếng vẫn có ảnh hưởng thuận lợi cho tất cả mọi người.

Tôi không biết rằng bà có khả năng thực hiện phép mầu hay không, nhưng vốn là một tín đồ chân chính của triết học Vedanta, bà mạnh dạn chỉ trích sự dại khờ của những kẻ ham mê các trò chơi ấu trĩ ấy, thay vì để tâm hồn được yên tĩnh vắng lặng như nền đạo lý cổ truyền từ nghìn xưa vẫn luôn khuyên nhủ các môn sinh trên đường tầm đạo. Dù đi đến bất cứ nơi nào trên đất Ấn Độ, người ta luôn luôn nhận biết được kinh nghiệm đó. Những nhà tu khổ hạnh cao siêu nhất vẫn luôn từ chối không biểu diễn những quyền năng thần bí, trừ phi trong những trường hợp rất đặc biệt. Những ai biểu diễn phép thuật nhiệm mầu bị xem như thuộc hạng thấp kém, chẳng hạn như các nhà phù thủy Hắc phái, họ chỉ được sự bảo trợ và trọng vọng của những người thuộc các giai cấp hạ tiện.

Vài ngày sau, vị nữ tu Maji đến viếng thăm trả lễ bà Blavatsky. Việc ấy gây sự ngạc nhiên trong các giới Ấn Độ, và chúng tôi được cho biết rằng đây là một điều rất lạ thường, vì vị nữ tu này hiếm khi đích thân đến viếng một người nào khác ngoài tôn sư của bà, còn việc bà đến viếng thăm một người Âu thì chưa từng có.

Tôi cảm thấy một sự say mê thích thú về nữ tu sĩ này do những chuyện mà tôi đã nghe kể lại về bà, và thật sự tôi đã đến viếng bà mỗi khi có dịp ghé qua thánh địa Ba-la-nại. Lần cuối cùng tôi đến viếng bà là cùng với bà Annie Besant và nữ bá tước Wachtmeister. Trong nhiều năm, tôi vẫn tin rằng bà là một siêu nhân.

Trong cuộc viếng thăm của bà lúc ấy, bà vẫn là một người hoàn toàn xa lạ đối với chúng tôi, và theo chỗ chúng tôi biết, không một người nào đã từng nói cho bà biết chúng tôi là ai, trừ ra chúng tôi tự giới thiệu trong dịp đến viếng đạo viện của bà lần đầu tiên. Tuy vậy, bà đã nói cho các bạn đạo cùng đi với tôi, trong một dịp bà Blavatsky vắng mặt, nghe một chuyện dị kỳ về bà Blavatsky. Bà nói rằng thể xác của bà Blavatsky đã được một nhà đạo sĩ Yoga mượn tạm vì mục đích phổ biến Triết học Đông phương. Đó là cái thể xác thứ ba mà nhà đạo sĩ đã dùng vào mục đích ấy, và thời gian ông ta đã trải qua trong ba cái thể xác đó, cộng chung lại là độ một trăm năm mươi năm.

Trong một chuyến đi Calcutta nhiều năm sau đó, tôi đã đến khu ngoại ô Bhowanipore để viếng Maji, trong dịp bà từ Ba-la-nại đến đây để viếng thăm một bạn đạo là Nobin Bannerji tại nhà ông này. Tôi đã hội kiến với bà hằng ngày trong thời gian hai tuần ở Calcutta và rất thích thú mà nghe lời thuyết giáo của bà. Bà lúc nào cũng có một số người tầm đạo vây quanh, và những lời giải đáp thắc mắc của bà luôn biểu lộ một học lực uyên thâm, sâu sắc. Phong thái hấp dẫn và giọng nói dễ mến của bà làm cho bà càng thêm đắc nhân tâm và được nhiều người ngưỡng mộ.

Sau hết, còn có sự hấp dẫn của những năng lực thần bí, thường được gán cho những đạo sĩ chân tu ở Ấn Độ, một di sản còn sót lại của những truyền thống từ thời đại cổ xưa. Những quyền lực đó, bà Maji hẳn là phải có đến một mức độ nào, bởi vì chúng ta đã thấy rằng lần gặp gỡ đầu tiên giữa bà với chúng tôi hồi năm 1879, trước khi người ta được biết gì về sự liên hệ giữa bà Blavatsky với hai vị chân sư, bà Maji đã nói với tôi những điều về các ngài mà không ai có thể nói lại cho bà biết, và trong tập nhật ký của bạn Damodar có ghi rằng bà đã làm cho ông ta vô cùng ngạc nhiên với những lời tiết lộ của bà về nhà huyền học T. Subba Rao và về những nhân vật khác nữa.

Sau khi bà Maji từ Calcutta trở về đạo viện của bà ở Ba-la-nại, chúng tôi đã có dịp trở lại viếng thăm bà lần nữa, nhưng không ngờ đây là lần cuối, vì sau đó ít lâu chúng tôi được tin bà từ trần.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2013(Xem: 3816)
New Delhi (phiên âm Việt ngữ Tân Đề Li) là tên của thủ đô nước Ấn Độ ngày nay. New Delhi có nghĩa là Delhi mới. Đã có mới ắt phải có cũ. Và chỉ khi sang Ấn Độ, sống ở thành phố này trong 3 ngày tôi mới biết có một khu gọi là Old Delhi (Cựu Đề Li). Và cả Old Delhi lẫn New Delhi nằm trong phần đất có tên là Lãnh thổ Thủ đô Quốc gia (National Capital Territory of Delhi).
09/11/2012(Xem: 9178)
Ngôi Thánh địa Già lam Bạch Mã, ngôi chùa cổ xưa nhất ở Trung Quốc, tọa lạc khoảng 6 dặm Anh, cách Thành phố Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc. Ngôi Già lam Bạch Mã Cổ Tự được sáng lập từ thời Minh Đế của triều đại Đông Hán (từ năm 29 sau Công Nguyên đến năm 75 sau Công Nguyên), gắn liền với truyền thuyết thần kỳ về sự kiến tạo thuở sơ khai.
12/09/2012(Xem: 7321)
Quan Âm Cổ Tự (Gwaneumsa-觀音古寺) nằm phía Đông bắc dưới chân núi Halla (漢拏山), Ara-dong, Thành phố Jeju. Ngôi Cổ tự được thành lập vào thế kỷ thứ 10, vào triều đại Cao Ly ‘Goryeo’ (AD 918 ~ 1392). Trong những năm 1700, triều đình Joseon (Triều Tiên) tôn sùng Nho giáo và phế Phật vì thế Phật giáo vùng Jeju lâm vào Pháp nạn, các Tự viện bị phá hủy trong đó có ngôi Quan Âm Cổ Tự. Đầu thế kỷ 20, năm Nhâm Tý (1912) vị Pháp sư Tỳ Kheo ni An Phùng - Lệ Quán (安逢麗觀) mới tái tạo lại. Năm Giáp Thìn (1964), trùng tu nguy nga tráng lệ như hiện nay. Ngôi Danh lam cổ tự hùng tráng này là cơ sở thứ 23 của Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc.
19/06/2012(Xem: 3328)
Sa mạc Gobi (Trung Quốc) nổi tiếng thế giới bởi sự khắc nghiệt, xứng danh là một trong các vùng đất “khó sống” nhất trên hành tinh. Những đụn cát cao ngút, những trận bão sa mạc và nạn thổ phỉ kinh hoàng trong truyền thuyết xảy ra liên miên, cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu thương nhân khi qua đây. Nó trở thành nỗi ám ảnh lớn với rất nhiều người và không mấy ai nghĩ địa điểm này thích hợp cho sự sống. Ấy thế mà đã có một hồ “trăng lưỡi liềm” và mảnh đất thiên đường “rơi” xuống sa mạc Gobi và trở thành một trong những ốc đảo tuyệt vời nhất trên Trái đất này.
20/05/2012(Xem: 8557)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
02/03/2012(Xem: 3627)
Trên đường đến Linh Thứu sơn thuộc thành Vương Xá, nay là Rajgir, cách trường đại học Na Lan Đà khoảng 1500 m, đoàn chúng tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm ngài Huyền Trang (Huyền Trang Kỷ Niệm Đường) mặc dù ngoài trời mưa vẫn còn nặng hạt...
12/02/2012(Xem: 14887)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
11/01/2012(Xem: 9492)
Ý tưởng về một cuộc hành hương về xứ Phật là do chính Đức Phật nói ra. Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình sau khi Người từ giã trần gian. Những nơi đó là Lumbini, nơi Đức Phật đản sinh; Bodhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Đức Phật chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng; Vườn Nai ở Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên – Kinh Chuyển Pháp Luân; và Kusinara (Câu Thi Na), nơi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn...
28/12/2011(Xem: 4066)
Trong khi nhiều tôn giáo truyền thống khuyến khích tín đồ lên đường hành hương, như Đức Phật Thích Ca là một bậc thầy vô thượng mà tất cả Phật tử hướng về quy y và những giáo huấn của Ngài chúng ta thực hành một cách tốt nhất để đi theo, đối với chúng ta những thánh địa thiêng liêng nhất là những nơi Đức Phật đã giảng dạy và hành động vì lợi ích của chúng sinh. Trong khi chúng ta nên ngưỡng vọng và thăm viếng những nơi này, một cách truyền thống bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất là: * Lâm tỳ ni, nơi Sĩ Đạt Ta sinh ra trong thế giới này như một người bình thường. * Đạo Tràng Giác Ngộ, nơi Sĩ Đạt Ta trở nên giác ngộ. * Lộc Uyển, nơi Ngài giảng dạy con đường đến giác ngộ, và * Câu thi na, nơi Ngài nhập niết bàn.
01/08/2011(Xem: 4009)
Từ 13/3 đến 28/3/1994, Viện Nghiên cứuPhật học Việt Nam đã tổ chức một đoàn chiêm bái các Phật tích tại Ấn Độ, gồm 19 người, do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu làm Trưởng đoàn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Phó đoàn, với Ban Thư kýgồm Hòa thượng Thích Giác Toàn và Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn. Chuyến đi được Hòa thượng Thích Chơn Thiện lúc ấy đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ giúp sắp xếp các việc cần thiết và đề xuất kế hoạch, lộ trình chi tiết. Sau ngày thống nhất đất nước, đây là chuyến xuất ngoại dân sự đầu tiên có tổ chức của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, mở đầu cho việc hội nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo đăng tải lại dưới đây bài tường thuật do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu thực hiện, như một kỷ niệm để tưởng nhớ ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]