Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II.

11/03/201104:02(Xem: 10253)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI: MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI BỘ

II.

Trong chuyến đi Tích Lan kể trên, chúng tôi để cô Bates và bà Coulomb ở lại coi sóc Hội quán. Ông bà Coulomb là hai người Pháp vừa mới đến giúp việc cho chúng tôi. Vì cô Bates là phụ nữ độc thân, còn bà Coulomb đã có kinh nghiệm về nội trợ, nên tôi bỗng có cái ý nghĩ dại dột là bảo cô Bates hãy giao chức quản gia của cô lại cho bà Coulomb, còn cô lãnh nhiệm vụ khác.

Cuộc đời làm gia trưởng trên mười lăm năm của tôi vẫn chưa dạy cho tôi biết điều khôn dại này, là đừng nên để cho một người mới đến có cái cơ hội làm “bà chủ” để sai phái chỉ huy người đàn bà kia! Bây giờ thì tôi đã biết rồi. Khi chúng tôi trở về Bombay, thì thấy Hội quán có một bầu không khí rất căng thẳng: cô Bates và bà Coulomb đang xung đột nhau, tất cả mọi sự tố giác và phản kích được cả hai người tranh nhau đổ vào lỗ tai không muốn nghe của chúng tôi!

Cô Bates tố giác bà Coulomb toan bỏ thuốc độc cho cô, và bà này cũng trả đũa bằng một sự tố giác tương tự, ăn miếng trả miếng. Tôi muốn lấy chổi quét cả hai ra khỏi nhà, và đó là một điều rất tốt nếu tôi có thể làm. Nhưng thay vì như thế, tôi lại được mời làm phán quan phân xử những sự tranh chấp cãi lẫy của họ. Thế là tôi đành phải ngồi nghe những chuyện vô lý của họ suốt hai đêm liên tiếp, và sau cùng tôi quyết định rằng vụ tố giác bà Coulomb bỏ thuốc độc không đủ lý do buộc tội vì không có bằng chứng cụ thể.Lý do chính của vụ xung đột là vì chúng tôi đã giao chức vụ quản gia cho bà Coulomb khi chúng tôi vắng mặt, và cô Bates không hài lòng với nhiệm vụ biên tập viên tạp chí mà chúng tôi giao cho cô.

Trong khi tôi phân xử, bà Blavatsky ngồi kế bên; bà có vẻ hút thuốc lá hơi nhiều hơn lúc thường, và thỉnh thoảng cũng góp một lời, nhưng ý kiến của bà lại có khuynh hướng làm tăng thêm hơn là làm dịu bớt sự căng thẳng.

Sau cùng, ông Wimbridge, với tư cách là bạn của cô Bates, cũng đồng ý với tôi để bắt buộc cả hai đàng phải chịu hòa giải, và tạm thời cơn giông tố đã lắng dịu. Những ngày kế đó, chúng tôi hoàn toàn bận rộn với công việc sưu tập và soạn bài cho tờ tạp chí “Theosophist”, một việc đã trở nên rất khẩn thiết sau thời gian vắng mặt khá lâu của chúng tôi.

Ngay trước khi trở về Bombay, chúng tôi được tin bạn Mulji Thackersey đã từ trần, và thế là Hội Thông thiên học đã mất đi một cộng tác viên đắc lực. Chiều tối ngày 4 tháng 8 năm ấy, một vị chân sư đến viếng bà Blavatsky, và tôi được gọi đến để gặp ngài trước khi ngài từ giã. Ngài đọc cho tôi viết một bức thư dài rất quan trọng cho một bạn đạo có thế lực của chúng tôi ở Paris, và đưa cho tôi những gợi ý quan trọng về vấn đề quản trị công việc của Hội. Tôi được mời ra ngoài trước khi cuộc viếng thăm kết thúc, và vì tôi để ngài ngồi lại trong phòng với bà Blavatsky, nên tôi không thể biết rằng ngài đã ra đi bằng cách nào, và ngài có biến mất một cách mầu nhiệm hay không.

Cuộc viếng thăm ấy đến với tôi rất đúng lúc, vì chính vào ngày hôm sau đã xảy ra một vụ nổ lớn: cô Bates phẫn nộ với bà Blavatsky về một việc có liên quan đến người thiếu phụ ở New York kể trên, và căm giận quyết định của tôi trong vụ phân xử cuộc xung đột giữa cô với bà Coulomb. Trong khi cô day lưng về phía tôi và còn đang cãi vã với bà Blavatsky thì một bức thư của vị chân sư đến chiều hôm trước từ trên không trung rơi xuống chỗ tôi ngồi. Tôi mở thư ra xem, thì thấy đó là lời khuyên của ngài về hành động tốt nhất mà tôi phải làm trong cơn khó khăn hiện tại.

Ngày hôm sau, bắt đầu cuộc chia ly giữa bốn người trong nhóm chúng tôi; ông Wimbridge đứng về phe cô Bates. Có sự đồng ý chung về kế hoạch mua vé tàu cho cô Bates trở về New York, nhưng rốt cuộc điều này đã bị cô bác bỏ, sau khi một bạn đạo là ông Seervai đã lo sắp đặt xong mọi việc và làm các thủ tục cần thiết.

Thật là một điều đáng tiếc vì câu chuyện xảy ra do sự ganh tị, hiềm khích nhỏ nhen giữa đàn bà, một vụ xung đột thật vô lý và không đáng xảy ra. Lẽ ra nó đã có thể tránh khỏi bằng cách sử dụng lý trí và một chút nhẫn nhục, tự chủ.

Tuy rằng đối với chúng tôi, chuyện ấy không có gì đáng bận tâm, nhưng nó đã gây một ảnh hưởng xấu cho Hội. Một hậu quả đáng tiếc là những người ly khai đã tìm cách liên hệ với một tờ nhật báo bản xứ ở Bombay, từ trước vẫn không hề có thiện cảm với chúng tôi, và tờ báo này đã công khai mạ lỵ Hội Thông thiên học với những lời lẽ cay đắng vẫn còn tiếp tục cho đến bây giờ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2013(Xem: 3782)
New Delhi (phiên âm Việt ngữ Tân Đề Li) là tên của thủ đô nước Ấn Độ ngày nay. New Delhi có nghĩa là Delhi mới. Đã có mới ắt phải có cũ. Và chỉ khi sang Ấn Độ, sống ở thành phố này trong 3 ngày tôi mới biết có một khu gọi là Old Delhi (Cựu Đề Li). Và cả Old Delhi lẫn New Delhi nằm trong phần đất có tên là Lãnh thổ Thủ đô Quốc gia (National Capital Territory of Delhi).
09/11/2012(Xem: 9122)
Ngôi Thánh địa Già lam Bạch Mã, ngôi chùa cổ xưa nhất ở Trung Quốc, tọa lạc khoảng 6 dặm Anh, cách Thành phố Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc. Ngôi Già lam Bạch Mã Cổ Tự được sáng lập từ thời Minh Đế của triều đại Đông Hán (từ năm 29 sau Công Nguyên đến năm 75 sau Công Nguyên), gắn liền với truyền thuyết thần kỳ về sự kiến tạo thuở sơ khai.
12/09/2012(Xem: 7210)
Quan Âm Cổ Tự (Gwaneumsa-觀音古寺) nằm phía Đông bắc dưới chân núi Halla (漢拏山), Ara-dong, Thành phố Jeju. Ngôi Cổ tự được thành lập vào thế kỷ thứ 10, vào triều đại Cao Ly ‘Goryeo’ (AD 918 ~ 1392). Trong những năm 1700, triều đình Joseon (Triều Tiên) tôn sùng Nho giáo và phế Phật vì thế Phật giáo vùng Jeju lâm vào Pháp nạn, các Tự viện bị phá hủy trong đó có ngôi Quan Âm Cổ Tự. Đầu thế kỷ 20, năm Nhâm Tý (1912) vị Pháp sư Tỳ Kheo ni An Phùng - Lệ Quán (安逢麗觀) mới tái tạo lại. Năm Giáp Thìn (1964), trùng tu nguy nga tráng lệ như hiện nay. Ngôi Danh lam cổ tự hùng tráng này là cơ sở thứ 23 của Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc.
19/06/2012(Xem: 3276)
Sa mạc Gobi (Trung Quốc) nổi tiếng thế giới bởi sự khắc nghiệt, xứng danh là một trong các vùng đất “khó sống” nhất trên hành tinh. Những đụn cát cao ngút, những trận bão sa mạc và nạn thổ phỉ kinh hoàng trong truyền thuyết xảy ra liên miên, cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu thương nhân khi qua đây. Nó trở thành nỗi ám ảnh lớn với rất nhiều người và không mấy ai nghĩ địa điểm này thích hợp cho sự sống. Ấy thế mà đã có một hồ “trăng lưỡi liềm” và mảnh đất thiên đường “rơi” xuống sa mạc Gobi và trở thành một trong những ốc đảo tuyệt vời nhất trên Trái đất này.
20/05/2012(Xem: 8253)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
02/03/2012(Xem: 3606)
Trên đường đến Linh Thứu sơn thuộc thành Vương Xá, nay là Rajgir, cách trường đại học Na Lan Đà khoảng 1500 m, đoàn chúng tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm ngài Huyền Trang (Huyền Trang Kỷ Niệm Đường) mặc dù ngoài trời mưa vẫn còn nặng hạt...
12/02/2012(Xem: 14758)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
11/01/2012(Xem: 9326)
Ý tưởng về một cuộc hành hương về xứ Phật là do chính Đức Phật nói ra. Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình sau khi Người từ giã trần gian. Những nơi đó là Lumbini, nơi Đức Phật đản sinh; Bodhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Đức Phật chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng; Vườn Nai ở Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên – Kinh Chuyển Pháp Luân; và Kusinara (Câu Thi Na), nơi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn...
28/12/2011(Xem: 4030)
Trong khi nhiều tôn giáo truyền thống khuyến khích tín đồ lên đường hành hương, như Đức Phật Thích Ca là một bậc thầy vô thượng mà tất cả Phật tử hướng về quy y và những giáo huấn của Ngài chúng ta thực hành một cách tốt nhất để đi theo, đối với chúng ta những thánh địa thiêng liêng nhất là những nơi Đức Phật đã giảng dạy và hành động vì lợi ích của chúng sinh. Trong khi chúng ta nên ngưỡng vọng và thăm viếng những nơi này, một cách truyền thống bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất là: * Lâm tỳ ni, nơi Sĩ Đạt Ta sinh ra trong thế giới này như một người bình thường. * Đạo Tràng Giác Ngộ, nơi Sĩ Đạt Ta trở nên giác ngộ. * Lộc Uyển, nơi Ngài giảng dạy con đường đến giác ngộ, và * Câu thi na, nơi Ngài nhập niết bàn.
01/08/2011(Xem: 3978)
Từ 13/3 đến 28/3/1994, Viện Nghiên cứuPhật học Việt Nam đã tổ chức một đoàn chiêm bái các Phật tích tại Ấn Độ, gồm 19 người, do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu làm Trưởng đoàn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Phó đoàn, với Ban Thư kýgồm Hòa thượng Thích Giác Toàn và Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn. Chuyến đi được Hòa thượng Thích Chơn Thiện lúc ấy đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ giúp sắp xếp các việc cần thiết và đề xuất kế hoạch, lộ trình chi tiết. Sau ngày thống nhất đất nước, đây là chuyến xuất ngoại dân sự đầu tiên có tổ chức của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, mở đầu cho việc hội nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo đăng tải lại dưới đây bài tường thuật do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu thực hiện, như một kỷ niệm để tưởng nhớ ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]