Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I.

11/03/201104:02(Xem: 9927)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI BẢY: DAMODAR BIỆT TÍCH

I.

Trong khi tôi vẫn tiếp tục đến hội kiến hằng ngày với Quốc vương Kashmir, thì vào đêm nọ có một biến cố xảy ra: Damodar thình lình biến mất và không để lại dấu vết gì để cho tôi biết rằng anh ta đã đi đâu hay bao giờ sẽ trở lại.

Tôi hối hả đi tìm, nhưng tất cả các gian phòng đều trống trơn. Những bạn đạo khác đều đã xuống tắm dưới sông. Tôi hỏi thăm một người phục vụ thì biết rằng Damodar đã đi ra khỏi nhà một mình vào lúc sáng sớm, nhưng không nhắn lại gì.

Không biết phải làm thế nào, tôi liền trở về phòng riêng thì thấy trên bàn có một bức thư của một vị chân sư, bảo tôi đừng lo nghĩ gì về người bạn trẻ vì anh ta được đặt dưới sự che chở của ngài, nhưng không nói gì về việc anh ta có trở về hay không. Tôi chỉ mất chừng một phút để đi quanh khắp các phòng và không nghe có tiếng chân người đi ngoài sân lót đá sỏi vụn. Không một người nào có thể bước vào phòng tôi trong thời gian đó, tuy vậy đây là bức thư bí mật, với tuồng chữ viết của chân sư K. H. và cái phong bì kiểu Trung Hoa quen thuộc, nằm trên bàn của tôi.

Việc làm đầu tiên của tôi khi đó là thu gom hành trang của Damodar, gồm một cái rương và đồ nệm gối để ngủ, và xếp gọn dưới gầm giường của tôi. Kế đó tôi gửi một điện tín cho bà Blavatsky biết tin Damodar đi biệt tích và không biết bao giờ về.

Khi những bạn đạo đi tắm xong trở về nhà, họ cũng xúc động như tôi về sự việc này, và chúng tôi đã mất nhiều thì giờ thảo luận và phỏng đoán về hậu quả khả hữu của nó. Tôi đến hoàng cung hai lần trong ngày đó, và đã được Quốc vương đón tiếp ngày càng trọng vọng hơn. Ông tỏ ra vô cùng hậu đãi tôi, thảo luận với tôi về triết học Védanta một cách thích thú rõ rệt, và khẩn khoản mời mọc tôi cùng đi với ông lần sau, khi Quốc vương đi lên Srinagar, thủ đô xứ Kashmir.

Khi trời đã sắp tối, tôi còn ngồi viết một mình trong ngôi biệt thự, khi đó các bạn đạo khác đã cưỡi ngựa đi chơi quanh vùng, bỗng tôi nghe tiếng chân người đi trên mặt đất rắc sỏi ở phía ngoài. Nhìn quanh, tôi thấy một người đưa thư Kashmir cao lớn, đem điện tín đến cho tôi.

Đó là thông điệp của bà Blavatsky trả lời bức điện tín của tôi. Bà nói rằng một vị chân sư có cho bà hay rằng Damodar sẽ trở về, và dặn tôi không nên để cho một người nào khác động chạm đến đồ hành trang, nhất là đồ nệm gối của y. Phải chăng thật lạ lùng, vì lúc đó bà Blavatsky đang ở Madras, tức là cách đó độ hai ngàn dặm, lại dặn tôi làm chính cái việc mà tôi đã làm, theo phản ứng đầu tiên khi nhận thấy rằng Damodar đã ra đi. Phải chăng đó là thần giao cách cảm? Nhưng lại còn một điều lạ lùng hơn nữa. Mở ra và đọc bức điện tín không làm cho tôi mất đến một phút; người đưa thư không có đủ thời gian đi ngang qua hàng ba ngôi nhà để bước ra sân. Nhưng khi ấy, như một tia chớp nhoáng, tôi cảm thấy người đưa thư ấy không phải là một người thường, mà chỉ là một ảo ảnh.

Tôi biết chắc như vậy, tôi có thể thề thốt để quả quyết như vậy, bởi vì có một sự dao động tâm linh huyền bí gây ra nơi tôi mỗi khi có một trong các đấng cao cả bước đến gần tôi. Thật vậy, ngay sau khi đó tôi đã có thể nhận ra cái tiết điệu rung động kỳ bí gây nên bởi luồng từ điển huyền diệu của sư phụ tôi, ngài cũng là sư phụ của bà Blavatsky. Tôi chạy ngay ra cửa và nhìn qua cái sân trống trơn của khuôn viên nhà, trong đó không có cây cối hay bụi rậm nào để dùng làm nơi ẩn trú, nhưng tuyệt nhiên không nhìn thấy gì cả! Người đưa thư đã biến mất cơ hồ như chui vào lòng đất!

Khi tôi kể lại chuyện này, có người hỏi tôi rằng làm sao có thể giải thích sự thuyên chuyển bức điện tín từ tay người đưa thư thật qua tay người đưa thư giả, và việc thâu hồi tờ ký nhận của tôi về Sở Bưu điện, trừ phi có sự toa rập với người đưa thư kia để làm việc này? Nhưng việc ấy thật ra rất đơn giản, miễn là người ta hiểu được về quyền năng của sự thôi miên, hay nói theo từ ngữ của huyền môn Đông phương thì đó là cái bí quyết của việc tạo nên ảo giác hay ảo ảnh. Vị chân sư gặp người đưa thư; bằng quyền năng của ý chí, ngài làm cho anh ta không nhìn thấy ngài; ngài làm cho anh ta trở nên vô ý thức, đưa anh ta đến một chỗ nào đó và để anh ta nằm trong giấc ngủ thôi miên; rồi ngài khoác lấy cái hình dáng bên ngoài của người kia để che khuất tác phong diện mạo của ngài; đem bức điện tín đến cho tôi; cầm lấy cái biên lai do tôi ký nhận; đưa tay lên chào từ giã, và lui bước. Một lúc sau đó, sự rung động thần kinh do luồng từ điển của ngài gây ra nơi tôi phản dội lại nơi ngài, cảnh giác cho ngài biết rằng tôi đang ở vào tình trạng báo động và đương nhiên sẽ bước ra cửa để theo dõi ngài; thế là ngài thôi miên thị giác của tôi để tôi không nhìn thấy ngài; trở lại chỗ người đưa thư nằm ngủ lúc nãy; nhét tờ biên lai vào bàn tay anh ta; dùng ý chí làm cho người kia nhớ lại mọi việc vừa xảy ra giữa tôi với ngài dường như đã xảy đến cho anh ta; đánh thức anh ta dậy; dùng phép thôi miên che lấp thị giác của anh ta; và trả anh ta về Sở Bưu điện.

Đó là một chuỗi dài những sự việc diễn biến nối tiếp nhau một cách rất đơn giản, mà mọi nhà chuyên môn về khoa thôi miên và nhân điện đều hiểu được một cách dễ dàng.

Damodar ra đi lúc sáng ngày 25 tháng 11, và trở về chiều ngày 27 tháng 11 sau khi vắng mặt độ sáu mươi giờ, nhưng y đã thay đổi rất nhiều! Khi ra đi, y là một thanh niên mảnh khảnh yểu điệu, một bạch diện thư sinh, nhút nhát rụt rè, nhưng y trở về với một gương mặt rắn rỏi, nước da sậm, rám nắng, thân hình khỏe mạnh, cứng cát, và tác phong bạo dạn, đầy cương nghị. Chúng tôi không thể ngờ rằng đó vẫn là một Damodar của trước đây!

Anh ta đã đến đạo viện của chân sư và được truyền thụ một phép tu luyện nào đó. Anh ta đưa cho tôi một thông điệp của một vị chân sư khác, mà tôi được biết rõ, và để chứng minh sự thật, anh ta thì thầm vào tai tôi một mật khẩu tôi đã được truyền dạy từ trước để chứng thực những thông điệp của các chân sư.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2013(Xem: 3782)
New Delhi (phiên âm Việt ngữ Tân Đề Li) là tên của thủ đô nước Ấn Độ ngày nay. New Delhi có nghĩa là Delhi mới. Đã có mới ắt phải có cũ. Và chỉ khi sang Ấn Độ, sống ở thành phố này trong 3 ngày tôi mới biết có một khu gọi là Old Delhi (Cựu Đề Li). Và cả Old Delhi lẫn New Delhi nằm trong phần đất có tên là Lãnh thổ Thủ đô Quốc gia (National Capital Territory of Delhi).
09/11/2012(Xem: 9122)
Ngôi Thánh địa Già lam Bạch Mã, ngôi chùa cổ xưa nhất ở Trung Quốc, tọa lạc khoảng 6 dặm Anh, cách Thành phố Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc. Ngôi Già lam Bạch Mã Cổ Tự được sáng lập từ thời Minh Đế của triều đại Đông Hán (từ năm 29 sau Công Nguyên đến năm 75 sau Công Nguyên), gắn liền với truyền thuyết thần kỳ về sự kiến tạo thuở sơ khai.
12/09/2012(Xem: 7210)
Quan Âm Cổ Tự (Gwaneumsa-觀音古寺) nằm phía Đông bắc dưới chân núi Halla (漢拏山), Ara-dong, Thành phố Jeju. Ngôi Cổ tự được thành lập vào thế kỷ thứ 10, vào triều đại Cao Ly ‘Goryeo’ (AD 918 ~ 1392). Trong những năm 1700, triều đình Joseon (Triều Tiên) tôn sùng Nho giáo và phế Phật vì thế Phật giáo vùng Jeju lâm vào Pháp nạn, các Tự viện bị phá hủy trong đó có ngôi Quan Âm Cổ Tự. Đầu thế kỷ 20, năm Nhâm Tý (1912) vị Pháp sư Tỳ Kheo ni An Phùng - Lệ Quán (安逢麗觀) mới tái tạo lại. Năm Giáp Thìn (1964), trùng tu nguy nga tráng lệ như hiện nay. Ngôi Danh lam cổ tự hùng tráng này là cơ sở thứ 23 của Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc.
19/06/2012(Xem: 3276)
Sa mạc Gobi (Trung Quốc) nổi tiếng thế giới bởi sự khắc nghiệt, xứng danh là một trong các vùng đất “khó sống” nhất trên hành tinh. Những đụn cát cao ngút, những trận bão sa mạc và nạn thổ phỉ kinh hoàng trong truyền thuyết xảy ra liên miên, cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu thương nhân khi qua đây. Nó trở thành nỗi ám ảnh lớn với rất nhiều người và không mấy ai nghĩ địa điểm này thích hợp cho sự sống. Ấy thế mà đã có một hồ “trăng lưỡi liềm” và mảnh đất thiên đường “rơi” xuống sa mạc Gobi và trở thành một trong những ốc đảo tuyệt vời nhất trên Trái đất này.
20/05/2012(Xem: 8253)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
02/03/2012(Xem: 3606)
Trên đường đến Linh Thứu sơn thuộc thành Vương Xá, nay là Rajgir, cách trường đại học Na Lan Đà khoảng 1500 m, đoàn chúng tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm ngài Huyền Trang (Huyền Trang Kỷ Niệm Đường) mặc dù ngoài trời mưa vẫn còn nặng hạt...
12/02/2012(Xem: 14758)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
11/01/2012(Xem: 9326)
Ý tưởng về một cuộc hành hương về xứ Phật là do chính Đức Phật nói ra. Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình sau khi Người từ giã trần gian. Những nơi đó là Lumbini, nơi Đức Phật đản sinh; Bodhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Đức Phật chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng; Vườn Nai ở Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên – Kinh Chuyển Pháp Luân; và Kusinara (Câu Thi Na), nơi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn...
28/12/2011(Xem: 4030)
Trong khi nhiều tôn giáo truyền thống khuyến khích tín đồ lên đường hành hương, như Đức Phật Thích Ca là một bậc thầy vô thượng mà tất cả Phật tử hướng về quy y và những giáo huấn của Ngài chúng ta thực hành một cách tốt nhất để đi theo, đối với chúng ta những thánh địa thiêng liêng nhất là những nơi Đức Phật đã giảng dạy và hành động vì lợi ích của chúng sinh. Trong khi chúng ta nên ngưỡng vọng và thăm viếng những nơi này, một cách truyền thống bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất là: * Lâm tỳ ni, nơi Sĩ Đạt Ta sinh ra trong thế giới này như một người bình thường. * Đạo Tràng Giác Ngộ, nơi Sĩ Đạt Ta trở nên giác ngộ. * Lộc Uyển, nơi Ngài giảng dạy con đường đến giác ngộ, và * Câu thi na, nơi Ngài nhập niết bàn.
01/08/2011(Xem: 3978)
Từ 13/3 đến 28/3/1994, Viện Nghiên cứuPhật học Việt Nam đã tổ chức một đoàn chiêm bái các Phật tích tại Ấn Độ, gồm 19 người, do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu làm Trưởng đoàn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Phó đoàn, với Ban Thư kýgồm Hòa thượng Thích Giác Toàn và Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn. Chuyến đi được Hòa thượng Thích Chơn Thiện lúc ấy đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ giúp sắp xếp các việc cần thiết và đề xuất kế hoạch, lộ trình chi tiết. Sau ngày thống nhất đất nước, đây là chuyến xuất ngoại dân sự đầu tiên có tổ chức của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, mở đầu cho việc hội nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo đăng tải lại dưới đây bài tường thuật do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu thực hiện, như một kỷ niệm để tưởng nhớ ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]