Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I.

11/03/201104:02(Xem: 10447)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG BẢY: NỮ TU SĨ MAJI

I.

Ngày 2 tháng 12 (năm 1879), bà Blavatsky và tôi, cùng với bạn Damodar và em Babula đáp chuyến xe lửa đi Allahabad để viếng thăm ông bà Sinnett mà trước đây chúng tôi chỉ giao dịch bằng thư từ chứ chưa từng được quen biết tận mặt.

Sau hai ngày ngồi trên xe lửa, sáng sớm ngày thứ ba, chúng tôi đến Allahabad và được ông Sinnett đến đón tại nhà ga cùng với một cỗ xe song mã với người đánh xe và hai người hầu bản xứ mặc đồng phục rất đẹp.

Bà Sinnett tiếp đãi chúng tôi tại nhà với một cung cách vô cùng lịch sự, và chỉ qua chừng dăm ba câu trao đổi, chúng tôi biết ngay rằng mình đã gặp được một người bạn quý.

Trong số các vị khách đến nhà ông Sinnett ngày hôm ấy, có một vị Thẩm phán Tòa Thượng thẩm và ông Giám đốc Nha Học chính. Ông bà A. O. Hume đến vào ngày hôm sau và bà Gordon đến vào ngày mồng bảy, sau khi đã đi một chuyến hành trình rất dài để đến gặp bà Blavatsky.

Dần dần chúng tôi đã có dịp quen biết với phần đông những nhân vật Anh Ấn của thành phố này. Họ cũng đáng được làm quen, vì họ tỏ ra khôn ngoan lịch thiệp và tâm hồn cởi mở. Vài người trong số đó có cử chỉ rất khẩn khoản, ân cần và dễ thương, nhưng thu hút chúng tôi nhiều nhất là ông bà Sinnett và bà phu nhân Gordon. Bà này hồi đó đang ở vào thời kỳ xuân sắc lộng lẫy và trí thông minh chói rạng. Tôi nghĩ thật không uổng công lặn lội sang tận xứ Ấn Độ khi được quen biết với ba người này.

Theo một qui ước chặt chẽ trong các giới xã hội thượng lưu Anh Ấn, người mới đến xứ này thường đi viếng thăm xã giao những nhân vật hiện đang cư trú tại địa phương. Nhưng vì bà Blavatsky không muốn đi thăm ai cả, nên ai muốn làm quen với bà phải bỏ cái tập quán kia đi và đích thân đến viếng bà.

Thời gian chúng tôi ở tại đây luôn luôn có khách đến viếng. Ngoài ra còn có những bữa tiệc tiếp tân, và trong một dịp này tôi còn nhớ rõ đã xảy ra một chuyện lý thú.

Một buổi chiều, ông bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi cùng lên xe đi dự một bữa cơm tối. Xe chạy ngang qua một khu phố hãy còn xa lạ đối với chúng tôi. Đến một ngã tư, bà Blavatsky bỗng nhiên rùng mình một cái, và nói: “Lạ quá! Thật là một cảm giác rùng rợn! Ở chỗ này hình như đã có xảy ra một vụ tàn sát đẫm máu.”

Ông Sinnett hỏi: “Bà không biết đây là chỗ nào hay sao?”

Bà đáp: “Không! Làm sao tôi biết được, vì đây là lần đầu tiên tôi đi ra khỏi nhà ông”.

Khi đó, ông Sinnett đưa tay chỉ một ngôi dinh cơ đồ sộ ở phía tay mặt chúng tôi, và nói cho bà biết rằng trước đây đó là câu lạc bộ của quân đội, và chính tại đó các sĩ quan Anh của một lữ đoàn quân Anh Ấn đã bị các thuộc viên của họ thảm sát giữa bữa ăn trong cuộc nổi loạn của quân bản xứ.

Nhân dịp đó, bà Blavatsky nói cho chúng tôi nghe về tính cách trường cửu bất diệt của “ký ức không gian”, có tác dụng ghi nhận mọi hành vi của con người trải qua thời gian không bao giờ mất.

Qua ngày hôm sau, tôi thuyết trình trước một cử tọa đông đảo về đề tài: “Thông thiên học và những mối liên hệ với xứ Ấn Độ”. Ngồi trên ghế Chủ tọa cuộc họp là ông A. O. Hume, một luật gia nổi tiếng. Ông đã khai mạc buổi thuyết trình và giới thiệu diễn giả bằng một bài diễn văn rất hay và rất hùng hồn làm cảm động người nghe.

Ngày 15 tháng 12, chúng tôi từ giã ông bà Sinnett và cùng bà Gordon đáp xe lửa đi Ba-la-nại (Bénarès). Đến nơi vào lúc bốn giờ chiều, chúng tôi được vị đại diện của Quốc vương Vizianagram đón tiếp tại nhà ga và mời chúng tôi về ở tại một tòa lâu đài của Quốc Vương với tư cách là tân khách của ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2013(Xem: 3780)
New Delhi (phiên âm Việt ngữ Tân Đề Li) là tên của thủ đô nước Ấn Độ ngày nay. New Delhi có nghĩa là Delhi mới. Đã có mới ắt phải có cũ. Và chỉ khi sang Ấn Độ, sống ở thành phố này trong 3 ngày tôi mới biết có một khu gọi là Old Delhi (Cựu Đề Li). Và cả Old Delhi lẫn New Delhi nằm trong phần đất có tên là Lãnh thổ Thủ đô Quốc gia (National Capital Territory of Delhi).
09/11/2012(Xem: 9122)
Ngôi Thánh địa Già lam Bạch Mã, ngôi chùa cổ xưa nhất ở Trung Quốc, tọa lạc khoảng 6 dặm Anh, cách Thành phố Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc. Ngôi Già lam Bạch Mã Cổ Tự được sáng lập từ thời Minh Đế của triều đại Đông Hán (từ năm 29 sau Công Nguyên đến năm 75 sau Công Nguyên), gắn liền với truyền thuyết thần kỳ về sự kiến tạo thuở sơ khai.
12/09/2012(Xem: 7204)
Quan Âm Cổ Tự (Gwaneumsa-觀音古寺) nằm phía Đông bắc dưới chân núi Halla (漢拏山), Ara-dong, Thành phố Jeju. Ngôi Cổ tự được thành lập vào thế kỷ thứ 10, vào triều đại Cao Ly ‘Goryeo’ (AD 918 ~ 1392). Trong những năm 1700, triều đình Joseon (Triều Tiên) tôn sùng Nho giáo và phế Phật vì thế Phật giáo vùng Jeju lâm vào Pháp nạn, các Tự viện bị phá hủy trong đó có ngôi Quan Âm Cổ Tự. Đầu thế kỷ 20, năm Nhâm Tý (1912) vị Pháp sư Tỳ Kheo ni An Phùng - Lệ Quán (安逢麗觀) mới tái tạo lại. Năm Giáp Thìn (1964), trùng tu nguy nga tráng lệ như hiện nay. Ngôi Danh lam cổ tự hùng tráng này là cơ sở thứ 23 của Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc.
19/06/2012(Xem: 3275)
Sa mạc Gobi (Trung Quốc) nổi tiếng thế giới bởi sự khắc nghiệt, xứng danh là một trong các vùng đất “khó sống” nhất trên hành tinh. Những đụn cát cao ngút, những trận bão sa mạc và nạn thổ phỉ kinh hoàng trong truyền thuyết xảy ra liên miên, cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu thương nhân khi qua đây. Nó trở thành nỗi ám ảnh lớn với rất nhiều người và không mấy ai nghĩ địa điểm này thích hợp cho sự sống. Ấy thế mà đã có một hồ “trăng lưỡi liềm” và mảnh đất thiên đường “rơi” xuống sa mạc Gobi và trở thành một trong những ốc đảo tuyệt vời nhất trên Trái đất này.
20/05/2012(Xem: 8248)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
02/03/2012(Xem: 3603)
Trên đường đến Linh Thứu sơn thuộc thành Vương Xá, nay là Rajgir, cách trường đại học Na Lan Đà khoảng 1500 m, đoàn chúng tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm ngài Huyền Trang (Huyền Trang Kỷ Niệm Đường) mặc dù ngoài trời mưa vẫn còn nặng hạt...
12/02/2012(Xem: 14756)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
11/01/2012(Xem: 9322)
Ý tưởng về một cuộc hành hương về xứ Phật là do chính Đức Phật nói ra. Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình sau khi Người từ giã trần gian. Những nơi đó là Lumbini, nơi Đức Phật đản sinh; Bodhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Đức Phật chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng; Vườn Nai ở Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên – Kinh Chuyển Pháp Luân; và Kusinara (Câu Thi Na), nơi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn...
28/12/2011(Xem: 4025)
Trong khi nhiều tôn giáo truyền thống khuyến khích tín đồ lên đường hành hương, như Đức Phật Thích Ca là một bậc thầy vô thượng mà tất cả Phật tử hướng về quy y và những giáo huấn của Ngài chúng ta thực hành một cách tốt nhất để đi theo, đối với chúng ta những thánh địa thiêng liêng nhất là những nơi Đức Phật đã giảng dạy và hành động vì lợi ích của chúng sinh. Trong khi chúng ta nên ngưỡng vọng và thăm viếng những nơi này, một cách truyền thống bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất là: * Lâm tỳ ni, nơi Sĩ Đạt Ta sinh ra trong thế giới này như một người bình thường. * Đạo Tràng Giác Ngộ, nơi Sĩ Đạt Ta trở nên giác ngộ. * Lộc Uyển, nơi Ngài giảng dạy con đường đến giác ngộ, và * Câu thi na, nơi Ngài nhập niết bàn.
01/08/2011(Xem: 3978)
Từ 13/3 đến 28/3/1994, Viện Nghiên cứuPhật học Việt Nam đã tổ chức một đoàn chiêm bái các Phật tích tại Ấn Độ, gồm 19 người, do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu làm Trưởng đoàn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Phó đoàn, với Ban Thư kýgồm Hòa thượng Thích Giác Toàn và Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn. Chuyến đi được Hòa thượng Thích Chơn Thiện lúc ấy đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ giúp sắp xếp các việc cần thiết và đề xuất kế hoạch, lộ trình chi tiết. Sau ngày thống nhất đất nước, đây là chuyến xuất ngoại dân sự đầu tiên có tổ chức của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, mở đầu cho việc hội nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo đăng tải lại dưới đây bài tường thuật do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu thực hiện, như một kỷ niệm để tưởng nhớ ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]