- Chương Một: Vài nét phác họa tính cách của bà Blavatsky
- Chương Hai: Hành trình sang Ấn Độ
- Chương Ba: Một động phù thủy
- Chương Bốn: Biệt thự hoa hồng
- Chương Năm: Viếng động Karli
- Chương Sáu: Một chuyến đi lên miền Bắc
- Chương Bảy: Nữ tu sĩ Maji
- Chương Tám: Pháp môn Yoga
- Chương Chín: Viếng thăm Tích Lan
- Chương Mười: Một cuộc khủng hoảng nội bộ
- Chương Mười Một: Thị trấn Simla
- Chương Mười Hai: Vài mẩu chuyện bên lề
- Chương Mười Ba: Adjar
- Chương Mười Bốn: Cái giếng thần
- Chương Mười Lăm: Bí quyết của sự chữa bệnh
- Chương Mười Sáu: Chân sư K.H. tại Lahore
- Chương Mười Bảy: Damodar biệt tích
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Kênh đào này là một công trình thuœy lợi để cứu giúp cho hàng nghìn nông dân bị mất mùa, đói kém trong một trận thiên tai kinh khuœng hồi thời Quận công Buckingham đảm nhiệm chức vụ Thống đốc tỉnh Madras.
Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn sinh hoạt và làm việc chung với sự có mặt của các bạn bè thân hữu, hay nói chung là bao giờ cũng có một “người thứ ba”. Nhưng trong dịp này, chúng tôi sống riêng biệt trong một chiếc du thuyền, chỉ có đứa bé giúp việc Babula và vài người chèo thuyền.
Khoang thuyền được trang bị như một phòng ca-bin nhỏ, hai bên là hai cái tủ nhỏ để đựng hành trang, trên mặt có trải nệm để làm giường nằm. Ở giữa có một cái bàn xếp, khi nào không cần dùng đến thì có thể xếp lại và treo lên nóc khoang. Phía ngoài là chỗ nấu bếp, có lu đựng nước uống, có mọi thứ tiện nghi tối thiểu và mọi thứ phẩm vật cần dùng trong khi đi đường. Khi có gió thổi thì buồm được giương lên để thuyền lướt nhẹ trên mặt nước. Khi gió ngược thì những phu chèo thuyền nhảy lên bờ, dùng dây cói buộc lên vai họ và kéo thuyền đi với tốc độ khoảng năm cây số giờ.
Theo sau chúng tôi, còn một chiếc thuyền khác chở vài bạn đạo thân tín nhất thuộc tỉnh Madras. Trong số đó có bạn Ivalu Naidu, công chức Sở Thuế vụ đã về hưu, một người có tấm lòng vàng mà chúng tôi rất quý mến và hãnh diện khi được kết tình thân hữu với ông.
Mục tiêu của chuyến đi trên sông này là thị trấn Nellore, phải mất hai ngày đi thuyền mới tới. Chúng tôi khởi hành lúc bảy giờ tối một đêm trăng sáng, nhằm ngày 3 tháng 5 năm 1882, trăng đã tròn, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng yên và trong như bạc, làm cho chúng tôi có cảm giác như đi vào cảnh mộng.
Sau khi ra khỏi thành phố, không một tiếng động làm gián đoạn cái im lặng thâm trầm của miền đồng quê, trừ ra tiếng kêu lẻ loi của những con chó rừng, giọng nói thì thầm của những phu chèo thuyền nói chuyện với nhau, và tiếng nước vỗ nhẹ vào hai bên mạn thuyền.
Xuyên qua các cửa sổ, một ngọn gió đêm thổi vào mát rượi, đượm mùi ruộng lúa trổ bông với hương vị đồng quê thật nhẹ nhàng bát ngát.
Tôi với bà Blavatsky cùng ngồi thưởng thức cảnh vật êm đềm, tinh thần sảng khoái trong giờ phút nghỉ ngơi rất hiếm có giữa nếp sống lăn lộn vô cùng kích động, ồn ào và nhộn nhịp của chúng tôi.
Chúng tôi chỉ nói rất ít, dưới ảnh hưởng mê ly đầy thi vị thần tiên của một đêm trăng Ấn Độ. Đến tận khuya chúng tôi mới chia tay để cùng nghỉ ngơi dưỡng sức.
Nhờ có ngọn gió nồm từ hướng tây nam thổi mạnh, chiếc thuyền thẳng tiến suốt đêm, và lộ trình của chúng tôi được nhẹ nhàng êm ái, không trở ngại.
Trời vừa hừng sáng, thuyền tấp vào bờ để những người phu chèo thuyền nhóm lửa nấu cơm. Các bạn hữu trên thuyền kia cũng cho thuyền đậu và sang với chúng tôi.
Khi mọi người đã dùng bữa xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, hai chiếc thuyền lướt nhẹ êm ru như những bóng mây. Bà Blavatsky và tôi bận rộn suốt ngày hôm đó với công việc trả lời thư từ còn ứ đọng và soạn bài vở cho tạp chí Theosophist, thỉnh thoảng cũng tạm ngưng để cùng nhau mạn đàm trong giây lát.
Lẽ tất nhiên, đề tài duy nhất của chúng tôi là tình hình và triển vọng của Hội Thông thiên học, và tác dụng rốt ráo khả hữu của những tư tưởng Đông phương mà chúng tôi đang truyền bá đối với dư luận quần chúng đương thời. Về vấn đề này, chúng tôi cùng lạc quan như nhau, và không một điểm nghi ngờ hay bất đồng nào thoáng qua trong trí óc. Chính niềm tin mãnh liệt đó đã giúp chúng tôi luôn thản nhiên, bình tĩnh trước mọi biến cố, tai ương và nghịch cảnh, những sự ngăn chặn biết bao nhiêu lần trong cuộc đời hoạt động của chúng tôi.
Vài bạn đồng hành hiện hữu có lẽ không thỏa mãn, nhưng quả thật là những sự tiên liệu của chúng tôi nhắm vào ảnh hưởng của giáo lý Thông thiên học đối với trào lưu tư tưởng cận đại nhiều hơn là bàn về sự bành trướng khả hữu của Hội khắp nơi trên thế giới. Thật sự chúng tôi không hề trông đợi việc ấy có thể xảy ra. Cũng như khi rời khỏi New York đi Bombay, chúng tôi không hề mơ tưởng rằng Hội có thể mở Chi hội cùng khắp Ấn Độ và Tích Lan, thì bây giờ cũng thế, trên chiếc du thuyền lướt đi trong im lặng này, chúng tôi không hề nghĩ rằng Hội có thể khuấy động quần chúng để mở đường cho việc tổ chức các Chi hội và thành lập những trung tâm truyền bá giáo lý Thông thiên học khắp nơi ở châu Mỹ, châu Âu; đừng nói chi đến châu Úc, châu Phi và Viễn Đông.
Làm sao chúng tôi có thể nghĩ đến điều đó? Chúng tôi có thể trông cậy nơi ai? Ai là người dũng lực phi thường để có thể gánh lấy trên vai của mình cái trách nhiệm nặng nề như thế? Bạn đọc hãy nhớ rằng, hồi đó chỉ mới là năm 1882, và ngoài châu Á ra, chỉ có ba Chi hội Thông Thiên Học trên thế giới (không kể trung tâm New York vẫn còn chưa được tổ chức lại). Chi hội London và Chi hội Corfu (Hy Lạp) chỉ là những cơ quan bất động.
Ông Judge đã sang Nam Mỹ để làm việc cho một công ty khai thác mỏ bạc, và Trụ sở Thông thiên học ở New York vẫn im lìm không hoạt động. Chỉ còn có hai người bạn già chúng tôi trên chiếc du thuyền này là nắm giữ giềng mối điều khiển mọi sự, và khoảnh đất dụng võ của chúng tôi là phương Đông. Cũng không hơn gì tôi, lúc ấy bà Blavatsky không hề biểu lộ khả năng tiên tri nào, nên chúng tôi vẫn làm việc và xây dựng nền tảng cho cái tương lai vĩ đại mà không người nào trong hai chúng tôi có thể nhìn thấy trước.
Trong số hàng nghìn hội viên Hội Thông thiên học hiện tại, chắc hẳn có bao nhiêu người sẵn lòng đổi lấy với bất cứ giá nào, tình tương thân đầm ấm mà bà Blavatsky dành cho tôi trong chuyến du hành bằng thuyền này! Điều làm cho chuyến đi này càng thú vị và lợi lạc hơn nữa, là bà có sức khỏe tốt, tinh thần lên cao, và không có gì làm che ám bầu không khí vui tươi giữa tình bạn của chúng tôi. Nếu không được như thế, hẳn tôi đã trở thành một kẻ bị nhốt trong chuồng cọp, làm bạn với một con sư tử cái trong Sở Thú! Và như vậy, chắc hẳn là tôi thà nhảy lên bờ đi bộ, hoặc chuyển sang thuyền kia để làm bạn với Iyalu Naidu còn dễ chịu hơn!
Ôi! Blavatsky, người bạn đáng thương, bạn đồng môn, người cộng tác, người hướng dẫn của tôi! Không ai có thể làm khổ tôi hơn bà trong những cơn giông tố ồ ạt, và cũng không ai dễ mến và đáng yêu hơn bà trong những khi tinh thần lên cao, khi bà có một tác phong đằm thắm dịu dàng!
Tôi luôn tin rằng chúng tôi đã từng làm việc chung với nhau trong những kiếp trước, và tôi cũng tin rằng chúng tôi sẽ còn hợp tác với nhau trong những kiếp tương lai vì mục đích phụng sự nhân loại.
Chúng tôi đến Nellore lúc mười một giờ khuya và được tiếp đón trọng hậu. Một ngôi biệt thự to lớn đã được trang hoàng lịch sự để cho phái đoàn chúng tôi tạm trú, và tuy giờ đã khuya, tôi vẫn phải đáp từ hai bài diễn văn, một bằng tiếng Phạn và một bằng tiếng Anh. Sau đó chúng tôi mới được về phòng ngơi nghỉ, ai nấy đều thấm mệt.
Từ ngày hôm sau trở đi, chúng tôi lại bắt đầu chương trình hoạt động thông thường như mọi cuộc viếng thăm ở những nơi khác: một buổi diễn thuyết trước một cử tọa đông đảo. Ngày kế đó dành cho công việc soạn bài vở tạp chí và thu nhận hội viên mới. Chiều đến, một phái đoàn học giả ưu tú về môn Phạn ngữ đến viếng và chất vấn chúng tôi về đạo lý; và đến mười một giờ khuya, chúng tôi chính thức thành lập Chi hội Thông thiên học tại Nellore.
Kế đó chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Mypaud, rồi đi Guntur. Và cứ như thế, chương trình hoạt động của chúng tôi lại tái diễn như trên.
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
CHƯƠNG MƯỜI BA: ADYAR
II.
Trong suốt thời gian liên hệ giữa chúng tôi, bà Blavatsky và tôi chưa bao giờ sống gần bên nhau một cách thân mật như trong chuyến du hành trên một chiếc thuyền trên con kênh đào Buckingham.Kênh đào này là một công trình thuœy lợi để cứu giúp cho hàng nghìn nông dân bị mất mùa, đói kém trong một trận thiên tai kinh khuœng hồi thời Quận công Buckingham đảm nhiệm chức vụ Thống đốc tỉnh Madras.
Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn sinh hoạt và làm việc chung với sự có mặt của các bạn bè thân hữu, hay nói chung là bao giờ cũng có một “người thứ ba”. Nhưng trong dịp này, chúng tôi sống riêng biệt trong một chiếc du thuyền, chỉ có đứa bé giúp việc Babula và vài người chèo thuyền.
Khoang thuyền được trang bị như một phòng ca-bin nhỏ, hai bên là hai cái tủ nhỏ để đựng hành trang, trên mặt có trải nệm để làm giường nằm. Ở giữa có một cái bàn xếp, khi nào không cần dùng đến thì có thể xếp lại và treo lên nóc khoang. Phía ngoài là chỗ nấu bếp, có lu đựng nước uống, có mọi thứ tiện nghi tối thiểu và mọi thứ phẩm vật cần dùng trong khi đi đường. Khi có gió thổi thì buồm được giương lên để thuyền lướt nhẹ trên mặt nước. Khi gió ngược thì những phu chèo thuyền nhảy lên bờ, dùng dây cói buộc lên vai họ và kéo thuyền đi với tốc độ khoảng năm cây số giờ.
Theo sau chúng tôi, còn một chiếc thuyền khác chở vài bạn đạo thân tín nhất thuộc tỉnh Madras. Trong số đó có bạn Ivalu Naidu, công chức Sở Thuế vụ đã về hưu, một người có tấm lòng vàng mà chúng tôi rất quý mến và hãnh diện khi được kết tình thân hữu với ông.
Mục tiêu của chuyến đi trên sông này là thị trấn Nellore, phải mất hai ngày đi thuyền mới tới. Chúng tôi khởi hành lúc bảy giờ tối một đêm trăng sáng, nhằm ngày 3 tháng 5 năm 1882, trăng đã tròn, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng yên và trong như bạc, làm cho chúng tôi có cảm giác như đi vào cảnh mộng.
Sau khi ra khỏi thành phố, không một tiếng động làm gián đoạn cái im lặng thâm trầm của miền đồng quê, trừ ra tiếng kêu lẻ loi của những con chó rừng, giọng nói thì thầm của những phu chèo thuyền nói chuyện với nhau, và tiếng nước vỗ nhẹ vào hai bên mạn thuyền.
Xuyên qua các cửa sổ, một ngọn gió đêm thổi vào mát rượi, đượm mùi ruộng lúa trổ bông với hương vị đồng quê thật nhẹ nhàng bát ngát.
Tôi với bà Blavatsky cùng ngồi thưởng thức cảnh vật êm đềm, tinh thần sảng khoái trong giờ phút nghỉ ngơi rất hiếm có giữa nếp sống lăn lộn vô cùng kích động, ồn ào và nhộn nhịp của chúng tôi.
Chúng tôi chỉ nói rất ít, dưới ảnh hưởng mê ly đầy thi vị thần tiên của một đêm trăng Ấn Độ. Đến tận khuya chúng tôi mới chia tay để cùng nghỉ ngơi dưỡng sức.
Nhờ có ngọn gió nồm từ hướng tây nam thổi mạnh, chiếc thuyền thẳng tiến suốt đêm, và lộ trình của chúng tôi được nhẹ nhàng êm ái, không trở ngại.
Trời vừa hừng sáng, thuyền tấp vào bờ để những người phu chèo thuyền nhóm lửa nấu cơm. Các bạn hữu trên thuyền kia cũng cho thuyền đậu và sang với chúng tôi.
Khi mọi người đã dùng bữa xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, hai chiếc thuyền lướt nhẹ êm ru như những bóng mây. Bà Blavatsky và tôi bận rộn suốt ngày hôm đó với công việc trả lời thư từ còn ứ đọng và soạn bài vở cho tạp chí Theosophist, thỉnh thoảng cũng tạm ngưng để cùng nhau mạn đàm trong giây lát.
Lẽ tất nhiên, đề tài duy nhất của chúng tôi là tình hình và triển vọng của Hội Thông thiên học, và tác dụng rốt ráo khả hữu của những tư tưởng Đông phương mà chúng tôi đang truyền bá đối với dư luận quần chúng đương thời. Về vấn đề này, chúng tôi cùng lạc quan như nhau, và không một điểm nghi ngờ hay bất đồng nào thoáng qua trong trí óc. Chính niềm tin mãnh liệt đó đã giúp chúng tôi luôn thản nhiên, bình tĩnh trước mọi biến cố, tai ương và nghịch cảnh, những sự ngăn chặn biết bao nhiêu lần trong cuộc đời hoạt động của chúng tôi.
Vài bạn đồng hành hiện hữu có lẽ không thỏa mãn, nhưng quả thật là những sự tiên liệu của chúng tôi nhắm vào ảnh hưởng của giáo lý Thông thiên học đối với trào lưu tư tưởng cận đại nhiều hơn là bàn về sự bành trướng khả hữu của Hội khắp nơi trên thế giới. Thật sự chúng tôi không hề trông đợi việc ấy có thể xảy ra. Cũng như khi rời khỏi New York đi Bombay, chúng tôi không hề mơ tưởng rằng Hội có thể mở Chi hội cùng khắp Ấn Độ và Tích Lan, thì bây giờ cũng thế, trên chiếc du thuyền lướt đi trong im lặng này, chúng tôi không hề nghĩ rằng Hội có thể khuấy động quần chúng để mở đường cho việc tổ chức các Chi hội và thành lập những trung tâm truyền bá giáo lý Thông thiên học khắp nơi ở châu Mỹ, châu Âu; đừng nói chi đến châu Úc, châu Phi và Viễn Đông.
Làm sao chúng tôi có thể nghĩ đến điều đó? Chúng tôi có thể trông cậy nơi ai? Ai là người dũng lực phi thường để có thể gánh lấy trên vai của mình cái trách nhiệm nặng nề như thế? Bạn đọc hãy nhớ rằng, hồi đó chỉ mới là năm 1882, và ngoài châu Á ra, chỉ có ba Chi hội Thông Thiên Học trên thế giới (không kể trung tâm New York vẫn còn chưa được tổ chức lại). Chi hội London và Chi hội Corfu (Hy Lạp) chỉ là những cơ quan bất động.
Ông Judge đã sang Nam Mỹ để làm việc cho một công ty khai thác mỏ bạc, và Trụ sở Thông thiên học ở New York vẫn im lìm không hoạt động. Chỉ còn có hai người bạn già chúng tôi trên chiếc du thuyền này là nắm giữ giềng mối điều khiển mọi sự, và khoảnh đất dụng võ của chúng tôi là phương Đông. Cũng không hơn gì tôi, lúc ấy bà Blavatsky không hề biểu lộ khả năng tiên tri nào, nên chúng tôi vẫn làm việc và xây dựng nền tảng cho cái tương lai vĩ đại mà không người nào trong hai chúng tôi có thể nhìn thấy trước.
Trong số hàng nghìn hội viên Hội Thông thiên học hiện tại, chắc hẳn có bao nhiêu người sẵn lòng đổi lấy với bất cứ giá nào, tình tương thân đầm ấm mà bà Blavatsky dành cho tôi trong chuyến du hành bằng thuyền này! Điều làm cho chuyến đi này càng thú vị và lợi lạc hơn nữa, là bà có sức khỏe tốt, tinh thần lên cao, và không có gì làm che ám bầu không khí vui tươi giữa tình bạn của chúng tôi. Nếu không được như thế, hẳn tôi đã trở thành một kẻ bị nhốt trong chuồng cọp, làm bạn với một con sư tử cái trong Sở Thú! Và như vậy, chắc hẳn là tôi thà nhảy lên bờ đi bộ, hoặc chuyển sang thuyền kia để làm bạn với Iyalu Naidu còn dễ chịu hơn!
Ôi! Blavatsky, người bạn đáng thương, bạn đồng môn, người cộng tác, người hướng dẫn của tôi! Không ai có thể làm khổ tôi hơn bà trong những cơn giông tố ồ ạt, và cũng không ai dễ mến và đáng yêu hơn bà trong những khi tinh thần lên cao, khi bà có một tác phong đằm thắm dịu dàng!
Tôi luôn tin rằng chúng tôi đã từng làm việc chung với nhau trong những kiếp trước, và tôi cũng tin rằng chúng tôi sẽ còn hợp tác với nhau trong những kiếp tương lai vì mục đích phụng sự nhân loại.
Chúng tôi đến Nellore lúc mười một giờ khuya và được tiếp đón trọng hậu. Một ngôi biệt thự to lớn đã được trang hoàng lịch sự để cho phái đoàn chúng tôi tạm trú, và tuy giờ đã khuya, tôi vẫn phải đáp từ hai bài diễn văn, một bằng tiếng Phạn và một bằng tiếng Anh. Sau đó chúng tôi mới được về phòng ngơi nghỉ, ai nấy đều thấm mệt.
Từ ngày hôm sau trở đi, chúng tôi lại bắt đầu chương trình hoạt động thông thường như mọi cuộc viếng thăm ở những nơi khác: một buổi diễn thuyết trước một cử tọa đông đảo. Ngày kế đó dành cho công việc soạn bài vở tạp chí và thu nhận hội viên mới. Chiều đến, một phái đoàn học giả ưu tú về môn Phạn ngữ đến viếng và chất vấn chúng tôi về đạo lý; và đến mười một giờ khuya, chúng tôi chính thức thành lập Chi hội Thông thiên học tại Nellore.
Kế đó chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Mypaud, rồi đi Guntur. Và cứ như thế, chương trình hoạt động của chúng tôi lại tái diễn như trên.
Gửi ý kiến của bạn