Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

William Friderich Stede, Người biên soạn từ điển Pali-Anh

23/05/201318:55(Xem: 20061)
William Friderich Stede, Người biên soạn từ điển Pali-Anh


William Friderich Stede
Người biên soạn từ điển Pali-Anh

Thích Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2005
---o0o---

Là người cộng tác và bạn thân của Rhys Davids, Tiến sĩ William Friderich Stede, người Đức, nhưng được xem như một người Anh, và đã sống phần lớn cuộc đời của mình ở Anh Quốc. Các học giả Pali người Tây Phương coi trọng ông đến mức công cử ông làm người kế tục bà Rhys Davids giữ chức Chủ tịch Hội Phiên Dịch Kinh Điển Pali (Pali Text Society) sau khi bà qua đời.

Trong Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918) Stede bị giam ở Anh Quốc, nhưng vào năm 1915 Rhys Davidsgiúp ông có đủ tự do để biên soạn cuốn Từ Điển Pali – Anh mà Rhys Davidsđã bắt đầu làm cho Hội Phiên Dịch Kinh Điển Pali.

Ông Stede đến trú ngụ ở gần nhà của Rhys Davidsở Chipstead, và mỗi buổi chiều thứ ba trong tuần lại đi bộ đến thảo luận với ông. Rhys Davids lớn hơn ông ba mươi chín tuổi nhưng giữa hai người nẩy nở một tình bạn không chỉ vì cùng quan tâm đến cổ ngữ Pali mà còn vì lòng từ bi. Stede nói: “ Rhys Davidsđã cư xử như thế nào với tôi thì không ai ngoài ông và tôi biết. Khi tôi trình bày những vấn đề của mình với ông thì chắc chắn ông hiểu tôi nghĩ gì về ông. Ông như thế nào với tôi thì tôi cũng hiểu mỗi lần nhìn vào cặp mắt trong sáng của ông và cảm nhận bàn tay của ông. Tử tế, thông cảm, đềm đạm và nói tóm lại “ metta” (lòng từ bi) mà ông thích trích dẫn trong “ Iti-vuttaka” (Như Thị Ngữ Kinh) là đặc tính của ông. Tôi vẫn giữ hình ảnh ông trong tâm trí và sẽ luôn luôn ghi nhớ ông là “ Kalyanamitta” (Thiện tri thức) của mình".

Từ Điển Pali-Anh được hoàn thành

Sinh ngày 9 tháng sáu năm 1882 ở Đức, William Friderich Stede học ở Đại học Gottingen, Leipzig và Đại học Jena. Ông tốt nghiệp ở Leipzig về tiếng Sanskrit, Pali, và ngữ văn đối chiếu. Từ 1908 đến 1911 ông là giảng viên phụ môn ngữ văn Đức, Sanskrit, và Gothic ở Đại học Liverpool. Luận án tiến sĩ năm 1913 của ông được xuất bản ở Leipzig năm 1914 với nhan đề “ Dic Gespensterge chichton des Peta Vatthu”.

pali-english-dictionary77pguc-will-stede

Bìa bộ Từ Điển Pali-Anh

Khi tác phẩm lớn Từ Điển Pali-Anh Ngữ (Pali-English Dictionary ) của ông được hoàn thành mười năm sau đó, Stede bắt đầu việc cộng tác lâu dài với Trường Nghiên Cứu Đông Phương & Phi Châu (the London School of Oriental and African Studies), trở thành giảng viên phụ tiếng Pali năm 1926, giảng viên Pali và Sanskrit năm 1928, giảng viên trưởng năm 1933, và phó giáo sư năm 1945, thời gian ông bị bệnh kéo dài nhưng không bao giờ nghỉ dạy một ngày cho đến khi về hưu vào năm 1949. Ông được người con gái duy nhất của mình kế thừa sự nghiệp là D.A. L. Maskell, người biên soạn bản tiếng Pali của “ Kankhavitarani”. Bà qua đời sớm vào năm 1956, và tất nhiên đây là nỗi đau thương lớn đối với ông.

Ông là giám khảo môn Pali cho những tỳ kheo của Đại học London từ năm 1925 đến năm 1958, môn Pali và văn minh Phật giáo cho Sở Dân Sự Vụ Miến Điện và Tích Lan từ năm 1930 đến năm 1939, và môn Pali cho Đại học Tích Lan từ năm 1944 đến năm 1958.

Ngoài việc dạy học và làm giám khảo, viết báo và biên soạn Từ Điển Pali-Anh Ngữ, Stede còn dành thời gian biên tập bộ sách “ Cullaniddesa” cho Hội Pali Text Society vào năm 1918, “ Sumangavilasini”, cuốn II và cuốn III, năm 1931 và 1932, ông soạn một danh sách các “ Pada” của “ Thera-therigatha” (Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ) cho tạp chí của Hội năm 1927, và giúp con gái ông biên tập cuốn : Kankhavitarani”, được xuất bản vài tháng sau khi bà qua đời năm 1956. Ông lập gia đình năm 1952, và vợ ông vẫn còn sống khi ông qua đời ngày 5 tháng 7 năm 1958.

Tổng hợp theo tài liệu:

-The Western Contribution to Buddhism.William Peiris (1973). Motilal Banarsidass Publications, Delhi, India

-History of Buddhism in Australia 1848-1988. Paul Croucher (1989) New South Wales University Press. Australia

---o0o---


Kỹ thuật vi tính:
Hải Hạnh, Ðàm Thanh, 

Diệu Nga, Tâm Chánh, Nguyên Tâm
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10273)
Nhằm mục đích giúp cho những bệnh nhân vào thời kỳ cuối của bệnh ung thư sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời một cách thanh thản, bình yên về mặt tinh thần cũng như tâm linh trên phương diện y tế được đón nhận sự chăm sóc một cách toàn diện về thân thể, tâm lý và xã hội. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1996 Bệnh Viện Đa Khoa Từ Tế Phật Giáo ở Hoa Liên Đài Loan đã thành lập "AN NINH LIỆU HỘ BỆNH PHÒNG"chuyên môn chăm sóc những bệnh nhân thời kỳ cuối của bệnh ung thư và được Ni Sư Chứng Nghiêm (người sáng lập Hội Từ Tế) đặt tên là "Tâm Liên Bệnh Phòng".
10/04/2013(Xem: 8812)
Ngài Huyền Trang là Cao Tăng đời nhà Đường. Ngài phụng mệnh Đường Thái Tông sang Ấn Độ thỉnh Kinh. Hành trình trên 10 năm thỉnh về hơn 650 bộ Kinh. Sau đó, Ngài đã cùng đệ tử dịch ra Hán Văn được 75 bộ gồm 1335 quyển. Đối với sự phát triển của Phật Giáo Trung Quốc. Ngài là một người có công rất lớn.
10/04/2013(Xem: 4449)
Vùng đất hiện nay được gọi là Mông Cổ cho mãi đến thế kỷ XIII mới có được lịch sử theo tư liệu văn bản. Vào khoảng thế kỷ IX-X, bộ lạc Khiết Đan (Kidans), một bộ lạc nói tiếng Mông Cổ, thành lập nước Đại Liêu ở miền Bắc Trung Quốc. Đến thế kỷ XI-XII, tất cả các bộ lạc Mông bước vào lịch sử được biết dưới các tên Nguyên Mông, Tartar, Kerait và Jalair; họ thường gây hấn và chém giết lẫn nhau cho đến khi một lạc trưởng tên Temudjin chinh phục và thống nhất tất cả, đặt tên chung là Mongol và tự xưng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
10/04/2013(Xem: 4664)
Nhân một thiện duyên, chúng tôi đọc thấy một tài liệu ngắn giới thiệu một chương trình thu tập các tư liệu gồm các thủ bản và mộc bản quý hiếm đánh dấu sự hiện hữu của Phật giáo tại Mông Cổ từ khi đất nước này bắt đầu có sử liệu vào khoảng thế kỷ XIII. Đây là một lĩnh vực chúng tôi chưa học hiểu đến, nhưng cảm thấy tài liệu này có giá trị sử học và nghiên cứu, nhất là hiện tại còn rất ít thông tin về nền Phật giáo tại Mông Cổ, cho nên cố gắng lược dẫn tài liệu này để cống hiến độc giả NSGN và những ai quan tâm đến sự phát triển của Phật giáo trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 5556)
Nhật báo Orange County Register hôm chủ nhật 19-1-2003 đã bắt đầu đăng phần thứ nhất trong loạt bài 4 kỳ về một tu sĩ trẻ Việt Nam -- 16 tuổi -- đang tu học trong 1 Phật học viện ở Ấn Ðộ của Phật Giáo Tây Tạng.
10/04/2013(Xem: 4816)
Trên tay tôi là 2 cuốn sách, một cuốn là Phật Giáo Khắp Thế Giới (Buddhism throughout the World) của tác giả Thích Nguyên Tạng, xuất bản lần thứ nhất năm 2001 tại Australia và cuốn kia là Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới của Thiền Sư Định Lực và Cư sĩ Nhất Tâm, do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin in xong vào tháng 1 năm 2003 mà tôi vừa mới mua.
10/04/2013(Xem: 9874)
Quyển “Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới” (PGVNvTG) của Thiền sư [sic] Định Lực và Cư sĩ [sic] Nhất Tâm biên soạn [sic], được NXB Văn Hoá Thông Tin cấp giấy phép số 1715/XB-QLXB của Cục Xuất Bản ngày 11-12-2001, có mặt trên thị trường sách khoảng giữa năm 2003. Sách dày 632 trang, khổ 16x24 cm, được in trên giấy couche, bìa cứng, rất sang trọng. Sách được xuất bản theo dạng “đội mủ” của quyển “Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại,”
10/04/2013(Xem: 4957)
Cuối tháng 3 năm 2004, tại TP Hồ Chí Minh diễn ra một hội sách mang tính quốc tế với sự góp mặt của hầu hết các nhà xuất bản trong nước cũng như một số nhà xuất bản uy tín nước ngoài. Có thể thấy ngay được những cố gắng của nhà nước trong quản lý văn hóa, nhằm tôn vinh giá trị của văn hóa đọc, một kỹ năng luôn cần cho con người trong quá trình phát triển ở mọi thời đại. Ðiều này cũng nằm trong chủ trương xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc mà nhà nước đã và đang cổ súy.
09/04/2013(Xem: 22950)
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
09/04/2013(Xem: 18715)
Năm 1957, chúng tôi tu học tại cao đẳng Phật học viện Srisumana Vidyalaya, đồng thời theo học trường Srisumana College, tỉnh Ratnapura, nước Srilanka. Theo Phật lịch thì năm 1957 là đúng 2500 năm tính theo tuổi thọ 5000 năm giáo pháp của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Chánh phủ Ấn Độ lần đầu tiên mở cửa cho các hành Phật tử trên thế giới được đến hành hương bốn thánh địa và những địa danh Phật tích chỉ trả nửa giá tiền trong các tuyến đường xe lửa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]