NAI TANG YA BIA TAPAH
Thông Thanh Khánh
---o0o---
Không rõ Bà sinh vào năm nào, thông qua truyền thuyết của người Chăm cho rằng Bà là con của một người giàu có và danh tiếng thuộc làng Văn Lâm – ninh phước – ninh thuận ngày nay. Do hôn nhân trắc trở vì Bà không chấp nhận sinh sống khi chồng người Gaigrai nên Bà một mình bỏ lên núi Chà Bang tìm hang núi và lập nguyện xuất gia (Tapad) tu hành. Do khả năng tu hành tinh tấn Bà đã chứng đạo đồng thời thiện hiện nhiều phép thần thông cứu giúp dân làng. Về sau tưởng nhớ đến công ơn của Bà, người Chăm làng Văn Lâm đã lên núi nơi Bà ẩn thân tu tập lập nên đền thờ và hàng năm cứ vào thấng giêng lịch Chăm người làng lại sắm đủ các lễ vật chay tịnh lên núi cúng cho Bà. Trong hệ thống thần linh Chăm tại Ninh Thuận tên Bà được nhân dân tôn xưng với danh hiệu là Pô Nai. Một truyền thuyết khác lại đề cập Bà là em ruột Pôramê (1627 – 1651) Pôramê buộc gả nàng cho vị tướng người Gaigrai có tên là Kẽo Mao nhưng Bà không chấp nhận cuộc hôn nhân này nên bỏ ra chốn kinh kì phồn thịnh, lụa là gấm vóc lập nguyện xuất gia tinh chuyên đơn độc tu niệm tại núi Chà Bang và đã chứng nghiệm nghĩa lý nhiệm màu thường hay hiện thân cứu giúp và che chở cho người thân mỗi khi gặp phải hoạn nạn. Tuy hai truyền thuyết đã đề cập đến hai thân thế khác nhau nhưng qua đó chúng ta có thể thấy rằng nai tang ya bia tapad lên núi Chà Bang để tu hành là hai truyền thuyết và nơi thờ tự tôn trí Bà tại đỉnh núi Chà Bang (Ninh Phước – Ninh Thuận) một điều khiến ta có thể khẳng định rằng Bà đã tu theo tinh thần phật giáo vì bởi cho đế ngày nay từ trong tiềm thức cộng đồng người Chăm Ninh Thuận mỗi khi dâng lễ đến Bà vẫn thường sắm sữa vật thực chay tịnh và mỗi khi tìm đến dâng lễ thân tâm phải thanh tịnh không được bàn đến việc thế sự, đặc biệt là chuyên nam nữ. Điều này được người Chăm Ninh Thuận mỗi khi hướng về Bà luôn tự mình tuyệt đối tuân thủ, chấp hành một cách thành kính. Như vậy có thể xem rằng Bà là Ni giới cuối cùng của Ni Bộ Chăm còn lại hiện diện của tư tưởng Phật gíáo đã có nhiều cuộc biến chuyển lớn lao. Từ một quốc gia sùng kính Phật giáo đến giai đoạn này sự hiện diện của tư tưởng Phật giáo đã không còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến cộng đồng tộc người Chăm. Cùng lúc này sự du nhập nở rộ của tư tưởng Hồi giáo từ Mã Lai thâm nhập qua cùng việc đưa quân hỗ trợ cho triều đình trong việc mở mang và giữ yên lãnh thổ, bản thân triều đình lúc này lại this cực ủng hộ vấn đề truyền giáo của các giáo sĩ Hồi giáo nên những tôn giáo chủ đạo như Phật giáo, Bàlamôn ngày càng thu hẹp dần trong đời sống cộng đồng. Một tính năng khá quan trọng để tác động đến việc Phật giáo Chămpa đã không còn hiện diện và phát triển như những giai đoạn của thiên niên kỷ khác : tính chất mở rộng của tinh thần Phật giáo Đại Thừa qua mạnh, sự thể nhập và dung hoá giữa Phật giáo và Bàlamôn đến lúc khó phân biệt đi vào trạng thái đồng nhất. Chính vì vậy cho đến bây giờ như cấu trúc tỏ chức của Bà La Môn hiện nay chúng ta khó tìm thấy dáng dấp của hệ tư tưởng Bà LaMôn chánh phái. Sự phát sinh của các hệ phái như Mư Duôn (Thầy Võ) Kadhar (Thầy kéo đàn Kanihi… có thể chứng minh rõ hơn hết cho vấn đề này. Tacù nhân thứ ba chúng tôi muốn đề cập đến là sự gắn bó Phật giáo với các triều đại, các vùng phật giáo được xem như là tôn giáo cho những hạng quí tộc tôn xưng vả quy ngưỡng, đối với dân chúng tuy ảnh hưởng Phật giáo chính thức đi vào cuộc sống nhưng có tính chất tự do không theo một hệ phái hay tổ chức giáo hội rõ ràng. Do sự bảo trợ hết mình của các vua chúa, vấn đề thành lập Giáo đoàn tăng lữ không được chú trọng, việc Xương minh giáo pháp chủ yếu tập trung vào các tầng lớp quí tộc, các bậc thức giả cho nên mõi khi các triều đại ấy suy sụp dẫn đến hệ thống tổ chữ tăng lữ lung lay. Từ ba yếu tố vừa nêu trên có thể thấy rằng , vào giai đoạn của thế kỷ XVI – XVII điểm giao thoia à giai đoạn các triều đại Chiêm Thành đi vào cuộc chiến liên miên với quân chúa Nguyễn đang ngự ở Thuận Hoá và chính sách Nam tiến luôn đặt mục tiêu phát triên vê phía Nam của chúa đã gây cho Chiêm Thành những ứng phó liên tục. Cuộc chiến sảy đến liên tục đã tạo nên đời sống kinh tế- tín ngưỡng đi vào trạng thái suy kiệt hoàn toàn. Đứng trước những vấn đề đó, với tinh thần thế nhập của Phật giáo cùng khả năng tu luyện của mình, Bà đã có những sự trợ giúp đáng kể đối với cộng đồng người Chăm. Chính vì vậy trở về sau này nghĩa là sau khi Bà viên tịch cộng đồng người Chăm đã sáng tác bài sử ca đểû tuyên đọc mỗi khi hành lễ dâng cúng p hẩm vật lên Bà được Ôn Như Duôn (Thầy Võ) hay Ôn Ka Dhak (thầy kéo đàn Kanhi) xướng lên trong nghi lễ đã phản ánh đầy đủ về tinh thầnPhật giáo trong các đoạn của sử ca trên ngôn ngữ Chăm, đây là một tư liệu rất quí có liên quan đến phật giáo còn,lại có tính chất văn bản chép tay được lưu giữ chưa được chú ý khai thác.
TÍNH CHẤT NGÔN NGỮ PHẬT GIÁO TRONG BÀI SỬ CA
Bài sử ca tuyên dương công trạng của Bà được sáng tác theo thể lục bát Chăm gồm 82 câu được nhà nghiên cứu Trương Văn Món – Trung tâm nghiên cứu văn hoá chăm - Ninh Thuận phiên âm và dịch nghĩa dựa trên bản chép tay sách cổ của ông Bá văn Có người thôn Như Bình – Ninh Thuận. Đây được xem như bài sử ca tuyệt diệu, mang chất liệu thi từ độc đáo đem đến giá trị xuất sắc về một tsc phẩm thơ của văn học Chăm. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ xin đề cập đến những ngôn ngữ Phật giáo trong các đoạn của bài sử ca. Trong câu thứ ba của bài sử ca có đề cập đến “ Patau Adi Tiak” theo quan niệm của người Chăm cho rằng đó là Thần Mặt Trời. Theo chúng tôi đây không phải chỉ đề cập đến Thần Mặt Trời nó được phiên âm từ nguồn gốc Phạn ngữ của chữ Amitaba – A di đà có nghĩa Việt là Bất Đoạn Quang, Diệm Vương Quang, Hoan Hỷ Quang,Nan Tư Quang, Siêu Nhật Quang, Viên Vương Quang, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Ngại Quang, Vô Xưng Quang. Chữ Quang ở đây có nghĩa là luồng sáng trong hay sự phát sáng. Đây là 12 danh hiệu của Đức Phật Amitaba. Về tiền thân của Đức Phật nhày xa xưa, ngài là vua của một nước sau đi tu phát nguyện 48 lời nguyện để giúp chúng sanh, trong đó nếu ai thành tâm yin chắc rằng muốn sanh về nước tôi, tức là Tây Phương cực lạc thế giới, chỉ cần đem tất cả công đức tu hành hồi hướng cầu xin về nước tôi nhất định sẽ thành công mãn nguyện. Hạnh nguyện của Đức Phật A di đà đã được cộng đồng xem như là hiện thân về sự cứu giúp cho nên xem Bà như là “ Thần Mặt Trời sai Nàng xuống trần gian” hầu gởi gắm moot tư tưởng cứu độ – trợ giúp của một tinh thần xuất thế. Từ những câu 4 đến câu 81 thật sự đã toát lên tinh thần Phật giáo trên ngôn ngữ mô tả những ẩn ý của câu chuỵên Thiền quán và tính chất buôn xã trên một không gian – thời gian hết sức độc đáo. Để hưởng thụ phương pháp này không gì khác hơn là phải thưởng thức bằng tính chất nguyên bản, chất chứa đầy Thiền vị trong giọng ngâm Ariya (truyện thơ) của các lão nghệ nhân Chăm. Để khẳng định tính chất này trong câu kết thứ 82 “ Mưng Dowh Di Hagou Ngak Ka Bwol – Tâm Nàng tỉnh thức điều lành giúp dân” tính chất giác ngọ chứng thành đạo quả khi trải quan việc thiền quán của Bà thật thụ đã ban đến cho dân làng những hy vọng lớn lao và tôn kính.
Tóm lại: Từ truyên thuyết cho đến sử ca mà người Chăm Ninh Thuận đề cập đến Bà, cho chúng ta thấy rằng Bà là đại diện Ni giới Phật giáo Chămpa cuối cùng được cộng đồng người Chăm còn tôn thờ đồng thời theo quan niệm chung đã xem như là một vị thần chính thống của cộng đồng, nhưng thông qua sử ca đề cập đến thời gian tu tập chúng ta lại thấy tuy Phật không còn tồn tại trong giai đoạn của Bà nhưng tinh thần Phật giáo đã được các thức giả vẫn bảo lưu gìn giữ rồi kết tinh thành bản sử ca mang đậm tính chất của ngôn ngữ Phật giáo với cộng đồng người Chăm trong giai đoạn cuối cùng này.
Phiên âm :
NAI TANG YA BIA TAPAH
1. Alwah Crauk ka nai Brai tal
2. RiBâu Bwơl Nugar pok khway paya Nai
3. Đa Ka Nưgar dwio sak
4. Patau aditiak Nai mưng rai
5. Nai Klak paley Nai mai
6. Đwa gaun parai dwah cowh tapah
7. Crok din ripan lâu lâu
8. Nai ôh likâu dwah cơk tapah
9. Crok din tamư dwa gah
10. Nai ôh tapah dwah cơk tapah
11. U rang nau tapah Bwol Ba
12. Tha trey Jata Kanâu Klơn nai tapah
13. U rang nau tapah Bwol lâu
14. Tha trey Kanâu Klơn nai tapah
15. Mưyom Nai hunit ginrơh
16. Nai Rwah tanơn Boh cơk Palin
17. Nao dok tha trey nai hamit
18. Bok cơk Palin lilek tanah
19. Alwah Crauk Ka nai Brak tal
20. Krơp Nưgar pok khway limah
21. Huăp ia harey glơh kiah
22. Nai khein likah mong jawa riyok
23. Amek thong amư đun rowl
24. Pakran Nưgar Ka gaun naBi
25. Thang prong Nai dak dok
26. Nai Rwah danok Bok cơk BiSa
27. Gail war Tanhrak ala
28. Gail răm BiSa Bok cơk mưng yâu
29. Nai dok tapah They Thâu
30. Ka ing Thong pajâu lac nai tapah
31. Ka ing Thong pa yaau dwa gah
32. Ô Kơl nai dang ligah rup nai sunit
33. Nai dok tapak tok thit
34. Tapak tok sunit Băng Blăng mưng nâu
35. Nai pajương di kayâu
36. Cơk prong di tau glai răm di BiSa
37. Nai dok the trey nai jwa
38. Ta wwaw thong jata klơn pamưng yok
39. Ô kal nai tapah thauh
40. Đwa gawn patau mai suan Nưgar
41. Ô kal nai tapah thauh Ô
42. Đwa gaun pô Ka Bwol liwak
43. Cơk prong tali Biđan
44. Bwol poh libăng ka nai likâu
45. Da Crok Cơk dak Bitâu
46. Dak pa mưng yaau mong nai Rikit
47. Rikì thong Riki tha tian
48. Dwa năn tha wan atey sa ai
49. Amek thong amư taip mai
50. Klău aicey srai taBiak mưng in
51. Nai Biđan Klao nhi
52. Mong nai mưng in di krưh riyak
53. Ia poh danac aran
54. Thit nai riđan nai dok mưng in
55. Wat ia harey glơn nhi
56. Nai dok mưng in tom jawa riyak
57. Binan yawa riyak Blan Blan
58. Nai doh di jaban mong jawa riyak
59. Binan yawa riyak lâu lâu
60. Nao dok likâu mong di yawa riyak
61. Binan jaya riyak ul ul
62. Nai tok tăk năn mong yawa riyak
63. Hăup ia harey Biên ni
64. Hađơn mưng nhi riyak rathrok
65. Riyak tathrot nai thrơt
66. Nai Khin talơn dom yawa riyak
67. Khar haluh mưng ran jih piah
68. Binan yawa riyak nai Brak mưng in
69. Khar haluh mưng ran jih Bhing
70. Nai Binan dom yawa riyak
71. Khar haluh mưng ran jih chuk
72. Nai thin Blak tom yawa riyak
73. Tanhrak Blong hala nai đun
74. Nai khin mưng in tom yawa riyak
75. Hala cih tanhrrak nai Ba
76. Jan di adhwa nai khin mưng liêng
77. Nai nau mưng in sơh
78. Hachar dê di thrơh taip nai mưng rai
79. Nai dok mưng in dak wan
80. Bwol eu padong di rim harey
81. Di rim harey Bwol eu
82. Mưng dơn di hagow nghak Dhak ka Bwol
(Phiên âm và dịch từ tư liệu sách cổ củ Bá Văn Có – thôn Như Bình – Ninh Thuận)
Từ vựng:
- Bwơl :thần dân
- Khwai : phủ phục
- Patrai :thái thịt (thời vận)
- Binan : rừng rậm
- Hâu hâu :hớn hở, tươi vui
- klơn :theo
- grinrak :đầy bụng, đầy
- kiah :ngang bằng
- đung ran : cưu mang
- pakrong Nưgar : ka gaun nư bi
(sau khôn lớn ) trị nước theo lệnh ngài
- Pakran : trị nước
- Tok thik : nhờ ảnh hưởng
- Bi Đan : ngủ (nằm) , nhìn
- aran : tiếng sâm biển
DỊCH NGHĨA :
NAI TANG YA BIA TAPAH
1. Tìm khắp chốn mới thấy Nàng
2. Hàng ngàn dân chúng phủ phục suy tôn
3. E rằng đất nước lâm nguy
4. Thần Mặt Trời sai nàng xuống trần gian
5. Nàng bỏ làng sớm ra đi
6. Thế thời, thời vận nàng tìm núi tu
7. Sông sâu rừng lá sum sê
8. Nàng không tu lại đi tìm núi cao
9. Sông sâu đường rẽ lối hai
10. Nàng không tu lại tìm đồi cao rừng dày
11. Người ta đi tu có dân theo
12. Nàng đi tu chỉ một mình Jata (*)
13. Người ta tu dân hớn hở
14. Nàng đi tu vắng vẻ chỉ một bồ câu
15. Nàng đã từ lâu định sẳn
16. Lần tìm đến đó thấy núi Palin
17. Nàng ở một mình lắng nghe
18. Thấy núi Palin rơi xuống nơi đây
19. Tìm kiếm khắp nơi thấy nàng
20. Khắp xứ sở kính hiền dâng phủ phục
21. Mặt trời phủ bóng chiều tà
22. Nàng nhìn sóng biển nhấp nhô dập dềnh
23. Công lao cha mẹ cưu mang
24. Tuân theo lệnh thần lớn lên trị nước
25. Nhà cao nàng cất để ở
26. Chọn đất tu thấy núi cao rừng già
27. Nàng bỏ quên túi đựng trầu
28. Rừng sâu mới thấy núi non chập chùng
29. Nàng đi tu chẳng ai biết
30. Thầy bóng, Bà bóng nói rằng đi tu
31. Thầy bóng, Bà bóng cả hai
32. Chẳng biết Nàng đang lặng mình luyện phép
33. Nàng ngồi luyện phép tu hành
34. Ưùng linh hiệu nghiệm phép bùa thần thông
35. Nàng sinh ra từ gỗ cây
36. Núi cao đá lớn rừng sâu chập chùng
37. Nàng ngồi một mình vắng vẻ
38. Nhờ con chim ti hú Jata mới vui
39. Nàng đi tu không khó
40. Thừa lệnh, nàng xuống phò vua giúp nước
41. Nàng đi tu không khó
42. Thừa lệnh, thần giúp nước cho dân thương
43. Núi cao đá sắp chồng chồng
44. Thần dân gõ cữa cho nàng cầu xin
45. Núi cao đá tận ở rừng sâu
46. Chấp cây đứng ngắm nhìn nàng Rikit
47. Rikì ,Rikit (*) cùng mẹ cùng cha
48. Hai chị em như hsai giọt nước
49. Rikì ,Rikít mẹ cha xua đến
50. Ba chị emm cùng vui chơi hớn hở
51. Nàng nằm cười khucs khích
52. Nhìn nàng chơi với sóng biển bao la
53. Dập dềnh tiếng sóng vỗ bờ
54. Nàng vẫn nằm yên, say với sóng nước
55. Mặt trời ngã bóng sang chiều
56. Nàng vẫn còn mãi mê nơi sóng biển
57. Sóng biển vỗ tung trắng xoá
58. Nàng ngửa mình trên tấm ván nhìn sang
59. Từng cơn sóng vỗ ào ào
60. Nàng ngồi ngắm mãi từng cơn sóng trào
61. Tiếng sóng bỉên vỗ rì rào
62. Nàng ngồi ở đó mãi mê ngắm nhìn
63. Nhớ những lúc chiều xa vắng
64. Ngồi một mình lại nghe từng cơn sóng
65. Tiếng sóng xô nàng thoả thích
66. Không sao nở bỏ từng cơn sóng dềnh
67. Khăn Nàng dệt bằng vải trắng
68. Trắng xoá như cơn sóng Nàng chạy ra
69. Khăn Nàng dệt bằng chỉ đỏ
70. như nghe sóng bỉên vỗ tung trắng bờ
71. khăn Nàng dệt bằng chỉ đen
72. Nàng không quên từng con sóng vỗ
73. Trầu nàng tem Nàng gói mang theo
74. Cùng đi thưởng thức từng cơn sóng về
75. Trầu tem Nàng gói mang đi
76. Nửa đường dứt bỏ về nơi sóng gần
77. Nàng đi chơi cho thả thích
78. Chớ quên luyện phép thần thông giúp đời
79. Nàng đi chơi suốt ngày
80. Thần dân kêu cứu mỗi ngày lâm nguy
81. Ngày mọi ngày dân kêu cứu
82. Tâm nàng tỉnh thức đều lành giúp dân
Trượng Văn Món
(phiên âm và dịch nghĩa)
Rikì, Rikit. Tên riêng của người thị giả Pô-Nai
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường