Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối thoại 10 – Chết và Sống

15/07/201114:24(Xem: 3522)
Đối thoại 10 – Chết và Sống

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 10

CHẾT VÀ SỐNG

New Delhi, ngày 28 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Phải có một cách học hành về chết như thế nào. Biết chết như thế nào có sự quan trọng lạ thường đối với chúng tôi.

Krishnamurti: Những người truyền thống và những người chuyên nghiệp – và qua từ ngữ những người chuyên nghiệp tôi có ý những vị đạo sư, những Sankaracharya, những Adi Sankaracharya, những yogi – họ trả lời nghi vấn này như thế nào?

P: Truyền thống phân chia sống thành những chặng đường khác nhau. Có Brahmacharya, một chặng đường của độc thân, khi như một học sinh, cậu bé học hành từ một đạo sư. Chặng đường thứ hai là chặng đường của Grihastha, nơi người đàn ông lập gia đình, có con cái, tìm kiếm sự tích lũy của cải và vân vân. Anh ấy cũng giúp dỡ những người khất sĩ và trẻ em và vì vậy giúp đỡ xã hội. Chặng đường thứ ba, Vanaprastha, con người ra khỏi sự theo đuổi những việc thế gian và đối diện chặng đường của sự chuẩn bị cho chặng đường cuối cùng mà là Sannyasa, mà trong đó có một từ bỏ sự nhận dạng của tên tuổi gia đình – khoác vào chiếc áo cà sa tượng trưng.

Cũng có một niềm tin rằng tại khoảnh khắc của chết, quá khứ của tất cả con người đều gom tụ lại. Nếu nghiệp lực của anh ấy như những hành động trong sống này đã là tốt lành, vậy thì cái mà là sự suy nghĩ cuối cùng vẫn ở lại cùng anh ấy vào thời gian của chết, tiếp tục. Cái đó được chuyển sang sống kế tiếp. Họ cũng nói về sự cần thiết cốt lõi phải giữ cho cái trí được yên lặng tại thời điểm chết, cho sự kết thúc của nghiệp lực, cho cái trí hoàn toàn tỉnh táo ngay tại khoảnh khắc của chết.

Krishnamurti: Liệu một con người truyền thống trải qua tất cả điều này hay nó chỉ là những từ ngữ?

P:Thông thường, thưa anh, những người Ấn giáo truyền thống có kinh Gita được đọc tại thời điểm chết để cho cái trí của anh ấy ngay tức khắc tự cắt đứt tất cả sự thân mật gia đình, sợ hãi, của cải, vân vân. Điều này không trả lời được câu hỏi của tôi. Bằng cách nào cá thể học hành về chết như thế nào?

Krishnamurti: Hãy nhìn một chiếc lá mùa xuân – nó tinh tế như thế nào và tuy nhiên nó có sức mạnh lạ thường để chịu đựng được cơn gió; vào mùa hè nó lớn lên và vào mùa đông nó chuyển thành màu vàng và rồi nó chết. Đó là một tromg những việc đẹp đẽ nhất khi nhìn thấy. Toàn sự việc là chuyển động của vẻ đẹp, của sự mỏng manh. Chiếc lá mà rất rất mỏng manh, trở nên đầy đặn, có hình thể, gặp gỡ mùa hè và sau đó khi mùa đông đến nó chuyển thành màu vàng. Không bao giờ có bất kỳ ý thức nào của xấu xí, không bao giờ có một tàn tạ giữa mùa hè. Nó là một chuyển động liên tục từ vẻ đẹp sang vẻ đẹp. Có sự trọn vẹn trong chiếc lá mùa xuân cũng như trong chiếc lá đang chết. Tôi không biết liệu bạn thấy điều đó?

Tại sao con người không thể sống và chết trong cách đó? Cái sự việc đang hủy hoại anh ấy từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc là gì? Hãy nhìn một cậu trai mười tuổi hay mười hai hay mười ba tuổi – nụ cười của cậu ấy trọn vẹn làm sao. Đến tuổi bốn mươi cậu ấy trở nên khó khăn và cứng ngắt, toàn dáng điệu và khuôn mặt thay đổi. Cậu ấy bị trói buộc trong một khuôn mẫu.

Làm thế nào người ta học hành về sống và chết, không phải chỉ học hành về chết. Làm thế nào người ta học hành để sống một sống mà trong đó chết là một bộ phận; mà trong đó sự kết thúc, chết, là một phần bẩm sinh của sống?

P:: Làm thế nào chết là một phần bẩm sinh của sống? Chết là cái gì đó trong tương lai, trong thời gian.

Krishnamurti: Chính xác đó là nó. Chúng ta đã đưa chết ra khỏi những bức tường, ra khỏi chuyển động của sống. Nó là cái gì đó phải lẩn tránh, phải tẩu thoát, không suy nghĩ về nó.

Nghi vấn là sống là gì và chết là gì. Hai cái này phải hội tụ cùng nhau, không tách rời. Tại sao chúng ta đã tách rời hai cái này?

P: Bởi vì chết là một trải nghiệm hoàn toàn khác hẳn sống. Người ta không biết chết.

Krishnamurti: Thế sao? Câu hỏi của tôi là tại sao chúng ta đã tách rời hai cái này; tại sao có một khoảng cách rộng lớn này giữa hai cái? Lý do tại sao những con người phân chia hai cái này là gì?

P:Bởi vì trong chết, cái thể hiện trở thành không-thể hiện. Bởi vì cả trong sinh ra lẫn trong chết đi có một bí mật cốt lõi; một xuất hiện và một biến mất.

Krishnamurti: Đó là lý do tại sao chúng ta tách rời hai cái – sự xuất hiện của một em bé và sự biến mất của một ông già? Đó có phải là lý do tại sao con người đã tách rời sống khỏi chết? Các cơ quan thuộc sinh học kết thúc – sanh ra, trưởng thành và chết – người trẻ xuất hiện và người già biến mất. Đó là lý do? Bạn đang nói lý do cho sự phân chia là bởi vì có một khởi đầu và một kết thúc; có sanh ra, niên thiếu, trưởng thành và chết đi. Đó là lý do cho sự sợ hãi về chết. Chắc chắn có một khởi đầu và một kết thúc. Tôi được sinh ra, tôi sẽ chết đi vào ngày mai – có một khởi đầu và một kết thúc. Tại sao tôi không chấp nhận việc đó?

P: Trong chết được bao hàm sự kết thúc của ‘cái tôi’ – của tất cả mọi điều tôi đã trải nghiệm. Sự kết thúc cuối cùng của ‘cái tôi’ xảy ra.

Krishnamurti: Đó là lý do cho sự phân chia bên trong? Dường như đó không là lý do rõ ràng tại sao con người đã phân chia sống khỏi chết.

P: Có phải bởi vì sợ hãi?

Krishnamurti: Liệu do bởi sợ hãi mà khiến tôi phân chia sống và chết? Liệu tôi biết sống là gì và chết là gì?

P: Vâng.

Krishnamurti: Liệu tôi biết hân hoan, vui thú, đó là sống và tôi suy nghĩ chết như sự kết thúc của điều đó? Liệu đó là lý do tại sao chúng ta phân chia một chuyển động được gọi là sống và một chuyển động được gọi là chết? Chuyển động chúng ta gọi là sống, liệu nó là sống? Hay nó chỉ là một chuỗi của những đau khổ, những vui thú, những thất vọng? Đó là điều gì chúng ta gọi là sống?

P: Tại sao anh trao cho nó một ý nghĩa đặc biệt như thế?

Krishnamurti: Liệu có bất kỳ hình thức nào khác của sống? Đây là số mạng của mỗi con người. Con người sợ hãi rằng cái mà anh ấy đã đồng hóa sẽ kết thúc. Vì vậy anh ấy muốn một tiếp tục của cái được gọi là sống này, không bao giờ kết thúc. Anh ấy muốn một tiếp tục của những phiền muộn của anh ấy, của những vui thú, những đau khổ, những hoang mang, những xung đột của anh ấy. Anh ấy muốn cùng sự việc như thế phải tiếp tục, không bao giờ có một kết thúc. Và sự kết thúc của tất cả điều đó, anh ấy gọi là chết. Vì vậy, lúc này cái trí đang làm gì trong điều này? Cái trí bị rối loạn; nó trong xung đột, trong thất vọng. Nó bị trói buộc trong vui thú, trong đau khổ. Cái trí gọi điều đó là sống và cái trí không muốn kết thúc bởi vì nó không biết việc gì xảy ra nếu nó kết thúc. Vì vậy nó sợ hãi chết.

Tôi đang tự hỏi mình, đây là sống hay sao? Sống phải có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn hơn điều này.

P:Tại sao? Tại sao nó phải có một ý nghĩa khác hẳn?

Krishnamurti: Sống là thành tựu, thất vọng, và tất cả điều đó đang xảy ra. Cái trí của tôi đã quen thuộc điều đó và không bao giờ thâm nhập liệu đó là sống? Cái trí của tôi đã không bao giờ tự hỏi nó tại sao tôi gọi cái này là sống? Nó là một thói quen?

P: Tôi thực sự không hiểu rõ câu hỏi của anh.

Krishanmurti: Rốt cuộc tôi phải đặt ra nghi vấn.

P:Tại sao tôi phải đặt ra?

Krishnamurti: Sống của tôi, từ lúc tôi được sinh ra cho đến khi tôi chết đi là một đấu tranh không ngừng nghỉ.

P:Sống là hành động, thấy, hiện diện: tổng thể của điều đó hiện diện ở đó.

Krishnamuti: Tôi thấy vẻ đẹp, bầu trời, một em bé dễ thương. Tôi cũng thấy sự xung đột với người con của tôi, với những người hàng xóm của tôi; sống là một chuyển động trong xung đột và vui thú.

P: Tại sao tôi phải thắc mắc điều đó? Cái trí thắc mắc chỉ khi nào có phiền muộn, khi có nhiều đau khổ.

Krishnamurti: Tại sao không thắc mắc khi bạn có vui thú? Khi không có vui thú có đau khổ.

P: Thưa anh, sống không là một chuỗi của những khủng hoảng. Những khủng hoảng của đau khổ có ít lắm. Chúng là những dịp hiếm hoi.

Krishnamurti: Nhưng tôi thấy việc này đang xảy ra trong sống. Tôi thấy nó đang xảy ra và thế là thắc mắc về sự phân chia này của sống và chết.

P: Anh thắc mắc nhưng những người khác lại không. Chúng tôi thấy có một phân chia; nó là một sự kiện đối với chúng tôi.

Krishnamurti: Tại mức độ nào, tại chiều sâu nào, bằng sự quan trọng nào bạn đang thực hiện câu nói này? Dĩ nhiên, nó là một sự kiện. Tôi được sinh ra và tôi sẽ chết đi. Vậy thì không có gì thêm nữa phải được nói.

P:Điều đó không đầy đủ. Chính sự kiện mà chúng tôi đã hỏi học hành về chết như thế nào…

Krishnamurti: Tôi nói, cũng học hành sống như thế nào.

P: Và tôi đã lắng nghe. Tôi đã không tự đặt ra nghi vấn đó cho chính tôi.

Krishnamurti: Hãy học hành sống như thế nào. Vậy thì điều gì xảy ra? Nếu tôi học hành sống như thế nào, tôi cũng học hành chết như thế nào. Tôi muốn học hành về phiền muộn, vui thú, đau khổ, vẻ đẹp. Tôi học hành. Bởi vì tôi đang học hành về sống, tôi đang học hành về chết. Học hành là một hành động của tinh lọc, không phải sự thâu lượm hiểu biết. Học hành là tẩy sạch. Tôi không thể học hành nếu cái trí của tôi đầy nghẹt. Cái trí phải tự tẩy sạch chính nó để học hành. Vì vậy khi cái trí muốn học hành, nó phải tự-làm trống không chính nó khỏi mọi thứ mà nó đã biết, lúc đó nó có thể học hành.

Vì vậy có sống mà tất cả chúng ta đều biết. Đầu tiên, phải có một học hành về sống hàng ngày này. Lúc này liệu cái trí có thể học hành, không tích lũy? Nếu không hiểu rõ điều gì được hàm ý trong hành động đầu tiên của học hành, liệu nó có thể học hành? Điều gì được hàm ý? Khi tôi không biết, vậy là cái trí của tôi, không-biết, có thể học hành. Liệu cái trí có thể ‘không biết’ để cho nó có thể học hành về sống – sống mà trong đó có đau khổ, phiền muộn, hoang mang, tranh đấu? Liệu nó có thể tiếp cận sống trong một trạng thái của không-biết và thế là học hành? Một cái trí như thế có thể học hành về sống cũng có thể học hành về chết.

Điều gì quan trọng không phải học hành về cái gì đó, nhưng hành động của học hành. Cái trí chỉ có thể học hành khi nó không-biết. Chúng ta tiếp cận sống cùng hiểu biết về sống – cùng hiểu biết của nguyên nhân, hậu quả, nghiệp lực. Chúng ta tiếp cận sống cùng ý thức của ‘Tôi biết’, cùng những kết luận và những công thức và cùng những thứ mà chúng ta chất đầy cái trí. Nhưng tôi không biết về chết. Vì vậy tôi muốn học hành về chết. Nhưng tôi không thể học hành về chết. Chỉ khi nào tôi biết học hành thì tôi sẽ hiểu rõ về chết. Chết là làm trống không cái trí, khỏi hiểu biết mà tôi đã tích lũy.

P: Có thể có học hành về sống trong học hành về chết. Sâu thẳm trong ý thức của con người có sự sợ hãi không tên này của không còn hiện diện.

Krishnamurti: Sự sợ hãi không tên của không-hiện diện. Hiện diện là biết rằng tôi là cái này, rằng tôi hạnh phúc, rằng tôi trải qua một thời gian tuyệt vời. Trong cùng cách như vậy tôi muốn biết về chết. Tôi không muốn học hành, tôi muốn biết. Tôi muốn biết chết có nghĩa gì.

P: Để cho tôi được tự do khỏi sợ hãi.

Krishnamurti: Nếu tôi không biết làm thế nào để lái một chiếc xe hơi, tôi bị sợ hãi.Khoảnh khắc tôi biết, nó chấm dứt. Thế là biết về chết của tôi phụ thuộc vào quá khứ. Hiểu biết là quá khứ, vì vậy tôi nói tôi phải biết chết có nghĩa gì để cho tôi có thể sống. Liệu bạn thấy trò chơi mà bạn đang đùa giỡn vào chính bạn, trò chơi mà cái trí đang đùa giỡn vào chính nó?

Hành động của học hành là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn hành động của biết. Bạn thấy, biết không bao giờ là hiện tại năng động. Học hành luôn luôn ở trong hiện tại năng động. Học hành về chết – tôi thực sự không biết nó có nghĩa gì. Không lý thuyết, không suy đoán nào sẽ thỏa mãn tôi. Tôi sẽ tìm ra, tôi sẽ học hành mà trong đó không-lý thuyết, không-kết luận, không-hy vọng, không-suy đoán, nhưng chỉ có động thái của học hành; thế là không có sợ hãi về chết.

Muốn tìm ra chết có nghĩa gì, hãy học hành.

Trong cùng cách, tôi thực sự muốn biết sống là gì. Vì vậy tôi phải tiếp cận sống bằng một cái trí trong sáng, không có gánh nặng của hiểu biết. Khoảnh khắc cái trí thú nhận nó tuyệt đối không biết gì cả, nó được tự do để học hành. Nhưng không có gì phải học hành. Tuyệt đối không có gì phải học hành, ngoại trừ sự học hành thuộc công nghệ của làm thế nào đi đến mặt trăng. Sự tự do của học hành về cái gì – sự việc mà tôi đã gọi là sống, sự việc mà tôi đã gọi là chết. Tôi không biết nó có nghĩa gì. Vì vậy luôn luôn có đang sống cùng đang chết. Không có chết khi cái trí hoàn toàn được tự do khỏi cái đã được biết – cái đã được biết là những niềm tin, những trải nghiệm, những kết luận, sự hiểu biết, đang nói tôi đã chịu đựng đau khổ và vân vân.

Thuộc trí năng, chúng ta đã chạm khắc một cách đẹp đẽ sống tùy theo tình trạng bị quy định của chúng ta. Muốn đến được Thượng đế ‘Tôi phải sống độc thân’, ‘Tôi phải giúp đỡ người nghèo khó,’ ‘Tôi phải giữ lời thề sống cơ cực.’

Chết nói bạn không thể chạm khắc được tôi. Nhưng tôi muốn tiếp xúc chết; tôi muốn định hình nó vào khuôn mẫu của tôi.

Chết nói bạn không thể chạm khắc được tôi, bạn không thể đùa giỡn với tôi. Cái trí quen sự đùa giỡn – chạm khắc cái gì đó từ sự trải nghiệm.

Chết nói bạn không thể trải nghiệm tôi.

Chết là một trải nghiệm căn nguyên trong ý nghĩa rằng nó là một trạng thái tôi thực sự không-biết. Tôi có thể sáng chế những công thức về chết – sự suy nghĩ cuối cùng là cái mà tự-thể hiện chính nó – nhưng chúng là những suy nghĩ của những người khác. Tôi thực sự không biết. Thế là tôi kinh hãi quá chừng. Vì vậy, liệu tôi có thể học hành về sống và vì vậy về chết?

Vậy là, phủ nhận ‘biết’ – thấy điều gì xảy ra. Trong đó có vẻ đẹp thực sự, tình yêu thực sự, sự việc thực sự xảy ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 7523)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 5763)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 31029)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
01/02/2022(Xem: 17713)
Nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 2014 tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 vừa qua, chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, có quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc mà không phụ thuộc quá nhiều vào tiền bạc và quyền lực cũng đã diễn ra.
24/12/2021(Xem: 3715)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề xuyên suốt quá trình phát triển của nhân loại. Sự tác động lẫn nhau giữa thiện và ác, chính và tà định hình số phận của các cá nhân và xã hội theo các chu kỳ, có thể biết được và không nhìn thấy. Các vị triết gia và nhà tư tưởng đã cân nhắc không chỉ điều gì tạo nên những chất đạo đức thanh cao mà còn cả những trợ duyên tác động nó. Đạo đức nhân văn là ngành học nghiên cứu các nguyên tắc đạo đức chi phối hành vi hoặc cách cư xử của mỗi cá nhân, và nó cũng là mảng kiến thức liên quan đến các nguyên tắc đạo đức.
05/12/2021(Xem: 4070)
Khi đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu, chúng ta thiết lập các kết nối sâu sắc, và giúp những người xung quanh tránh bị kiệt sức.
17/11/2021(Xem: 19838)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16331)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10275)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11358)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567