Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

New Delhi, 1970

15/07/201114:24(Xem: 3311)
New Delhi, 1970

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970
Đối thoại 1 – Ngọn lửa của Đau khổ
Đối thoại 2 – Thuật giả kim và Sự Đột biến
Đối thoại 3 – Ngăn chặn Sự Xấu xa
Đối thoại 4 – Thức dậy của Năng lượng
Đối thoại 5 – Bước Đầu tiên là Bước Cuối cùng
Đối thoại 6 – Năng lượng và Sự Đột biến
Đối thoại 7 – Người Quan sát và Cái gì là
Đối thoại 8 – Chuyển động Rút vào
Đối thoại 9 – Thời gian và Sự Thoái hóa
Đối thoại 10 – Chết và Sống
Đối thoại 11 – Vẻ đẹp và Sự Nhận biết

Đối thoại 1

NGỌN LỬA CỦA ĐAU KHỔ

New Delhi, ngày 12 tháng 12 năm 1970

C

húng ta đang dạo bộ trong một ngôi vườn thoáng đãng gần một khách sạn to lớn. Có một dải xanh sẫm vàng trong bầu trời phía tây và tiếng ồn của những chiếc xe buýt, xe cộ đang chạy qua. Có những cây non tươi tốt đầy hứa hẹn, được tưới nước hàng ngày. Chúng vẫn còn đang tăng trưởng, đang sáng tạo những ngôi vườn và một con chim đang vẫy cánh trong bầu trời, bay lượn vùn vụt vòng vòng trước khi bổ nhào xuống quả đất; và ở phía đông, mặt trăng đang từ từ tròn trịa. Điều gì đẹp đẽ không là những sự việc này nhưng, sự trống không vô hạn dường như ôm trọn quả đất. Điều gì đẹp đẽ là người đàn ông nghèo khổ gầm đầu xuống đất, đang mang một chai dầu hôi nhỏ.

Krishnamurti:Đau khổ có nghĩa gì trong quốc gia này? Những con người trong quốc gia này gặp gỡ đau khổ như thế nào? Họ chạy trốn đau khổ qua sự giải thích về nghiệp lực? Cái trí ở Ấn độ vận hành như thế nào khi nó gặp gỡ đau khổ? Người Phật giáo gặp gỡ nó trong một cách, người Thiên chúa giáo trong một cách khác. Cái trí Ấn giáo gặp gỡ nó như thế nào? Nó kháng cự đau khổ, hay tẩu thoát đau khổ? Hay cái trí Ấn giáo lý luận nó?

Người hỏi P: Liệu thực sự có nhiều cách gặp gỡ đau khổ? Đau khổ là sự buồn bã – buồn bã vì ai đó chết, buồn bã vì chia ly. Liệu có thể gặp gỡ đau khổ này trong những phương cách khác nhau?

Krishnamurti: Có nhiều cách tẩu thoát nhưng chỉ có một cách duy nhất để gặp gỡ đau khổ. Thật ra, những tẩu thoát mà chúng ta quen thuộc là những phương cách để lẩn trốn sự kinh hoàng của đau khổ. Bạn thấy, chúng ta sử dụng những giải thích để gặp gỡ đau khổ nhưng những giải thích này không giải đáp được nghi vấn. Cách duy nhất để gặp gỡ đau khổ là hiện diện mà không có bất kỳ kháng cự, hiện diện mà không có bất kỳ chuyển động thoát khỏi đau khổ, cả bên ngoài lẫn bên trong, vẫn còn trọn vẹn cùng đau khổ, mà không muốn thoát khỏi nó.

P: Bản chất của đau khổ là gì?

Krishnamurti:Có đau khổ cá nhân, đau khổ hiện diện khi có sự mất mát một ai đó mà bạn thương yêu, sự cô độc, sự chia ly, sự lo âu cho người khác. Cùng cái chết, cũng có cảm giác rằng người khác đã không còn hiện diện, và có quá nhiều điều mà anh ấy đã mong muốn thực hiện. Tất cả điều này là đau khổ cá nhân. Rồi thì có người đàn ông đó ăn mặc rách nát, bẩn thỉu, đầu cúi gầm; ông ấy dốt nát, ông ấy không chỉ dốt nát về hiểu biết sách vở, nhưng sâu thẳm, thực sự dốt nát. Cảm giác mà người ta có cho người đàn ông đó không phải là tự-thương xót, cũng không phải có một đồng hóa cùng người đàn ông đó; không phải rằng bạn được đặt vào một vị trí tốt đẹp hơn ông ấy và vì vậy bạn cảm thấy thương hại ông ấy, nhưng bên trong người ta có một ý thức của trọng lượng không-thời gian của đau khổ trong con người. Đau khổ này không có một chút cá nhân nào về nó. Nó hiện diện.

P:Tại sao anh đang nói, chuyển động của đau khổ đã và đang vận hành bên trong tôi. Không có nguyên nhân tức khắc cho đau khổ này nhưng dường như nó giống như cái bóng, luôn luôn theo cùng con người. Anh ấy sống, anh ấy thương yêu, anh ấy hình thành những quyến luyến và mọi thứ kết thúc. Dù điều gì anh nói có thực sự đến chừng nào, trong việc này có một vô hạn của đau khổ. Làm thế nào nó sẽ kết thúc? Dường như không có đáp án. Ngày hôm trước anh đã nói trong đau khổ là toàn chuyển động của đam mê. Nó có nghĩa gì?

Krishnamurti: Liệu có một liên quan giữa đau khổ và đam mê? Tôi không hiểu đau khổ là gì. Liệu có một việc như đau khổ mà không có nguyên nhân. Chúng ta biết đau khổ mà là nguyên nhân và hậu quả. Người con trai của tôi chết; trong đó được bao hàm sự đồng hóa cùng người con trai của tôi, tôi muốn cậu ấy là cái gì đó mà tôi không là, tôi tìm kiếm sự tiếp tục qua cậu ấy; và khi cậu ấy chết, tất cả điều đó bị khước từ và tôi phát giác mình không còn mọi hy vọng nào. Trong đó có tự-thương xót, sợ hãi; trong đó có buồn bã mà là nguyên nhân của đau khổ. Đây là số mạng của mọi người. Đây là điều gì chúng ta có ý qua từ ngữ đau khổ.

Cũng có đau khổ của thời gian, đau khổ của dốt nát, không phải sự dốt nát của hiểu biết nhưng sự dốt nát của tình trạng bị quy định hủy hoại riêng của người ta. Đau khổ vì không hiểu rõ về chính người ta; đau khổ vì không hiểu rõ về vẻ đẹp tại chiều sâu của sự hiện diện của người ta và vượt khỏi nó. Liệu chúng ta có thấy rằng khi chúng ta lẩn trốn đau khổ qua những hình thức giải thích khác nhau, thực sự chúng ta đang phung phí một việc lạ thường đang xảy ra?

P: Vậy thì người ta làm gì?

Krishnamuri: Bạn đã không trả lời câu hỏi của tôi, ‘Liệu có, một đau khổ mà không có nguyên nhân và hậu quả?’ Chúng ta biết đau khổ và chuyển động rời khỏi đau khổ.

P: Anh đã nói về đau khổ không-dính dáng nguyên nhân và hậu quả. Liệu có một trạng thái như thế?

Krishnamurti:Con người đã sống cùng đau khổ từ thời gian không thể nhớ được. Anh ấy chưa bao giờ biết làm thế nào để giải quyết được nó. Thế là anh ấy hoặc tôn sùng nó hoặc lẩn trốn nó. Cả hai đều là cùng chuyển động. Cái trí của tôi không thực hiện hai việc này, nó cũng không sử dụng đau khổ như một phương tiện của thức dậy. Vậy thì điều gì xảy ra?

P: Tất cả những sự việc khác là những sản phẩm thuộc những giác quan của chúng tôi. Đau khổ còn nhiều hơn thế. Nó là một chuyển động của quả tim.

Krishnamurti: Tôi đang hỏi bạn sự liên quan giữa đau khổ và tình yêu là gì.

P: Cả hai đều là những chuyển động của quả tim.

Krishnamurti: Tình yêu là gì và đau khổ là gì?

P: Cả hai đều là những chuyển động của quả tim, một cái được nhận dạng như hân hoan và cái còn lại như đau khổ.

Krishnamurti: Tình yêu là vui thú? Bạn sẽ nói tình yêu và vui thú là giống nhau? Nếu không hiểu rõ bản chất của vui thú, không có chiều sâu để hân hoan. Bạn không thể mời mọc hân hoan. Hân hoan xảy ra. Đang xảy ra có thể bị biến thành vui thú. Khi vui thú đó bị khước từ, có bắt đầu của đau khổ.

P: Tại một mức độ nó là như thế, nhưng nó không là như thế tại một mức độ khác.

Krishnamurti: Như chúng ta đã nói, hân hoan không là sự việc để được mời mọc. Nó xảy ra. Vui thú tôi có thể mời mọc, vui thú tôi có thể theo đuổi. Nếu vui thú là tình yêu, vậy thì tình yêu có thể được vun quén.

P: Chúng ta biết vui thú không là tình yêu. Vui thú có lẽ là một thể hiện của tình yêu nhưng nó không là tình yêu. Cả vui thú lẫn tình yêu đều nảy sinh từ cùng cái nguồn.

Krishnamurti: Tôi đã hỏi sự liên quan giữa đau khổ và tình yêu là gì? Liệu có thể có tình yêu nếu có đau khổ – đau khổ là tất cả những sự việc mà chúng ta đã nói?

P: Tôi sẽ nói ‘có’.

Krishnamurti: Trong đau khổ, có một nhân tố của tách rời, của phân chia. Liệu không có quá nhiều tự-thương xót trong đau khổ, hay sao? Sự liên quan của tất cả điều này với tình yêu là gì? Tình yêu có sự lệ thuộc? Tình yêu có chất lượng của ‘tôi’ và ‘bạn’?

P:Nhưng anh đã nói về đam mê...

Krishnamurti: Khi không có chuyển động của tẩu thoát khỏi đau khổ vậy thì tình yêu hiện diện. Đam mê là ngọn lửa của đau khổ và ngọn lửa đó chỉ có thể được thức dậy khi không có tẩu thoát, không có kháng cự. Mà có nghĩa gì? – Mà có nghĩa, đau khổ không có trong nó chất lượng của phân chia.

P: Trong ý nghĩa đó, liệu trạng thái đó của đau khổ có bất kỳ khác biệt nào với trạng thái của tình yêu? Đau khổ là buồn bã. Anh nói khi trong buồn bã đó không có kháng cự, không có chuyển động thoát khỏi buồn bã, ngọn lửa của đam mê trỗi dậy. Lạ lùng thay trong những kinh điển cổ xưa, kama (tình yêu), agni (lửa), và yama (chết) được giải thích là giống hệt nhau; chúng được đặt trên cùng mức độ; tất cả chúng đều giống hệt; chúng sáng tạo, rửa sạch và hủy diệt để sáng tạo lại. Phải có một kết thúc.

Krishnamurti: Bạn thấy, chính xác đó là nó. Sự liên hệ của một cái trí mà đã hiểu rõ đau khổ và vì vậy sự kết thúc của đau khổ là gì? Chất lượng của cái trí mà không còn sợ hãi sự kết thúc, mà là chết, là gì?

Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ bi là đam mê cho tất cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 7431)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 5710)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 30675)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
01/02/2022(Xem: 17641)
Nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 2014 tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 vừa qua, chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, có quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc mà không phụ thuộc quá nhiều vào tiền bạc và quyền lực cũng đã diễn ra.
24/12/2021(Xem: 3672)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề xuyên suốt quá trình phát triển của nhân loại. Sự tác động lẫn nhau giữa thiện và ác, chính và tà định hình số phận của các cá nhân và xã hội theo các chu kỳ, có thể biết được và không nhìn thấy. Các vị triết gia và nhà tư tưởng đã cân nhắc không chỉ điều gì tạo nên những chất đạo đức thanh cao mà còn cả những trợ duyên tác động nó. Đạo đức nhân văn là ngành học nghiên cứu các nguyên tắc đạo đức chi phối hành vi hoặc cách cư xử của mỗi cá nhân, và nó cũng là mảng kiến thức liên quan đến các nguyên tắc đạo đức.
05/12/2021(Xem: 4012)
Khi đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu, chúng ta thiết lập các kết nối sâu sắc, và giúp những người xung quanh tránh bị kiệt sức.
17/11/2021(Xem: 19400)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 15728)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10102)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11168)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567