Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đáp ứng của Phật Giáo trước Đại Dịch Covid-19 từ gốc độ lịch sử ( Buddhist Responses to the Covid-19 Pandemic in Historical Perspective)

01/02/202218:55(Xem: 5797)
Đáp ứng của Phật Giáo trước Đại Dịch Covid-19 từ gốc độ lịch sử ( Buddhist Responses to the Covid-19 Pandemic in Historical Perspective)

covid-19 


 ĐÁP  ỨNG  CỦA PHẬT GIÁO  TRƯỚC  ĐẠI  DỊCH  COVID -19  TỪ  GỐC ĐỘ  LỊCH SỬ

( Buddhist Responses to the Covid-19 Pandemic

 in Historical Perspective)

 

Nguyên Tác : C. Pierce Salguero
Việt dịch      : Trần Như Mai

 

 

 

Giới thiệu : C. Pierce Salguero là một học giả liên ngành về y học nhân văn . Ông đã có học vị Tiến sĩ về Lịch Sử Y Khoa tại Đaị Học Y Khoa John Hopkins, Hoa kỳ  ( 2010) , và giảng dạy về Lịch sử Á Châu, Y học và Tôn giáo tại Trường Abington, thuộc Đại học Pennsylvania, gần Philadelphia. Trong số nhiều công trình nghiện cứu đã được xuất bản có liên quan đến Phật Giáo và Y học, ông là tác giả của bộ sưu tập  “Phật Giáo và Y học” , do Đaị học Columbia xuất bản.

 

*****************

 


stayhomecovid19

Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử.

 

Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh  Hoa Kỳ công bố  - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương  tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho những nỗ lực quốc tế rộng khắp của Hội Từ Tế để giúp khống chế và giảm thiểu tác hại của đại dịch khắp nơi trên thế giới. Suốt thời gian này, trụ sở trung ương của Hội cũng liên tục phổ biến Giáo pháp được soạn thảo cho những thời điểm khó khăn như hiện nay. Giáo pháp ấy gồm có “ Lời nhắc nhở hằng ngày” khích lệ Phật tử cầu nguyện, giữ vững chánh niệm, thanh lọc tâm, phát triển lòng từ bi, thực hành ăn chay và xem đại dịch như là một dịp để thức tỉnh tâm linh.

 

Những đáp ứng có tầm mức rộng lớn khác của Phật giáo trước đại dịch Covid-19 bao gồm các hoạt động của tổ chức Soka Gakkai International ( SGI), một tổ chức Phật giáo khổng lồ  đặt trụ sở trung ương ở Tokyo, với khoảng 12 triệu hội viên ở 192 quốc gia.  Trong một thông cáo báo chí ngày 10/ 4 /2020, chủ tịch hội SGI là Minoru Harada thông báo rằng các chi nhánh tại Ý, Mã-lai, và Hoa kỳ đang tặng khẩu trang và gây quỹ để gúp đỡ các nhân viên y tế ở tuyến đầu, trong lúc các hội viên trẻ ở Nhật chia sẻ một sáng kiến về “Ở Nhà” trên Twitter.

 

Cũng trong tháng 4, tổ chức Dhammakaya của Thái-lan đã sử dụng YouTube để kêu gọi khoảng 3 triệu hội viên khắp thế giới cùng đến với nhau để “ hành thiền chống coronavirus”. Tổ chức này gọi nỗ lực của họ để tích lũy một triệu phút hành thiền  tập thể vào ngày 22/04/2020 là một hành động sẽ “ chữa lành vết thương trên thế giới ”. Trong lúc đó Đức Dalai Lama đã  xuất hiện  rất nhiều lần trên các phương tiện truyền thông báo chí để truyền bá đáp ứng của ngài trước đại dịch Covid-19. Trong một bài báo đăng trên tạp chí Time ngày 14/04/2020 , ngài đã diễn dịch cuộc khủng hoảng này theo nguyên lý tương quan tương liên, khổ, và vô thường , và kêu gọi lòng từ bi và hy vọng. Trong một bài báo khác dành riêng cho các Phật tử Trung quốc và Tây Tạng, ngài đặc biệt kêu gọi các tín đồ tụng thần chú Bồ tát Tara  để  cầu an và được che chở  chống lại virus.

 

Những hành động được tóm tắt ở đây  tiêu biểu cho tính đa dạng trong các đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch Coronavirus. Do tầm cở của những tổ chức đặc biệt này, những sáng kiến của họ đã tạo nên  ấn tượng rộng lớn hơn hầu hết các tổ chức khác. Nhưng các tổ chức Phật giáo khắp thế giới – dù là Nguyên Thủy, Đại Thừa hay Kim Cương Thừa, truyền thống hay hậu truyền thống, điạ phương hay toàn cầu - tất cả đều tích cực dấn thân giúp đỡ các thành viên  và công đồng của họ bằng nhiều phương cách tương tự trong lúc hoạn nạn này.

 

Nói chung, phần lớn những đáp ứng trước đại dịch coronavirus đều có  nền tảng vững chắc dựa trên giáo lý và lịch sử Phật giáo. Có lẽ rất nhiều độc giả đã quen thuộc với lời dạy của Đức Phật về các chiều hướng tinh thần và tâm linh. Tuy nhiên, có lẽ các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng đây cũng là trường hợp Phật giáo đã giảng dạy hằng nghìn năm trước về những đáp ứng đặc biệt, trực tiếp và cụ thể trước các dịch bệnh truyền nhiễm. Những biện pháp chống lại dịch bệnh đã được đề cập đặc biệt trong các bài kinh lớn xuyên qua nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Trong các nền văn hóa Á châu tiền-hiện-đại, các tu viện Phật giáo là một trong những tổ chức có nhiều quyền lực và tương quan xã hội nhất , và vì thế thường có nhiều ảnh hưởng trong việc vận động quần chúng đáp ứng các vấn đề sức khỏe cộng đồng.

 

Bên ngoài các cơ cấu tổ chức chính thức, tín đồ Phật giáo thường tổ chức các nhóm tương trợ và  dự án từ thiện vào những lúc có dịch bệnh, nạn đói, và các thiên tai khác. Nhiều tiền lệ ấy trong lịch sử đang vang vọng lại trong những đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch toàn cầu hiện nay. Ở đây, tôi muốn hướng trọng tâm đến ba lãnh vực: hành thiền, từ thiện và nghi lễ cầu an. Những ví dụ được đề cập dưới đây đã được các học giả ghi lại thành tài liệu trong khi nghiên cứu về lịch sử Phật giáo và y học, và được rút ra từ các tuyển tập “Phật giáo và Y học” của tôi vừa đựợc Viện Đại Học Columbia xuất bản gần đây.

 

Uy lực của thiền tập để nâng cao sức khoẻ đang xuất hiện như một trọng tâm của những đáp ứng của Hội Từ Tế, Tu viện Dhammakaya, và những nhóm Phật giáo thuộc các tông phái khác.  Nhiều chùa và trung tâm hành thiền khắp thế giới đã tạo ra nhiều nguồn tài liệu như ‘Tăng đoàn ảo’, ‘thiền tập được hướng dẫn đặc biệt để tăng cường sức đề kháng và sức khoẻ ’ để phục vụ moị người  trên Mạng Internet . Những biện pháp này phản ảnh sự kết hợp lâu đời giữa thiền tập và sức khoẻ trong truyền thống Phật giáo, vốn đã có mặt rất lâu trước thế kỷ thứ 21,  khi các nhà khoa học thần kinh  nhấn mạnh đến sự can thiệp của thiền chánh niệm để giảm căng thẳng  thần kinh.

 

Thiền tập không những được xem là giúp giảm căng thẳng tinh thần và tăng cường sức đề kháng, mà còn trực tiếp chữa lành nhiều bệnh tật về thể chất. Thí dụ, thiền quán về những chi phần của giác ngộ được mô tả như là một phương pháp thực hành để xua đuổi bệnh tật trong một số bài kinh thuộc Phật giáo Nguyên Thủy, như bài kinh Girimānanda Sutta ( Tăng Chi BK 10.60 ) từ Kinh tạng Pāli, được kết tập trong thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Truyền thống Đại thừa đã dành trọn nhiều bộ luận viết về đề tài làm thế nào một bậc thánh nhân giác ngộ tánh không đã chứng tỏ hoàn toàn chế ngự được bệnh tật, thí dụ như Kinh Duy Ma Cật ( Virmalakirti Sutra), đựợc viết vào thế kỷ 100 sau Tây lịch. Các pháp hành thiền quán tưởng  để chữa  bệnh đã đóng một vai trò nổi bật trong Kim Cương Thừa (Mật Tông) ít nhất là từ thế kỷ thứ năm sauTây lịch, khi các hành giả bắt đầu quán tưởng thần chú, các biểu tượng thiêng liêng hoặc thần linh nhập vào thân để chữa lành bệnh tật hoặc điều hoà năng lượng vi tế . Trong lúc cơ cấu của những phương pháp thiền tập được cho là để chữa bệnh ấy khác nhau tùy theo sự khác biệt giữa các truyền thống Phật giáo và các nền văn hóa , khái niệm về thiền tập có thể chữa lành bệnh hoặc phòng bệnh là một sợi chỉ chung xuyên suốt các tông phái Phật giáo.

 

Một chủ đề quan trọng thứ hai trong những đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch COVID-19 là sự nhấn mạnh đến tâm từ bi và hạnh bố thí đối với người bệnh. Những sáng kiến từ thiện của các tổ chức như Hội Từ Tế, Hội SGI là phiên bản  hiện đại của sự dấn thân của Phật giáo trong công tác từ thiện về mặt y tế  theo truyền thống đã có từ nhiều thế kỷ trước. Bắt đầu từ thuở sơ kỳ là thế kỷ thứ 6 sau Tây lịch và tiếp tục suốt thời kỳ tiền-hiện-đại, các tài liệu lịch sử còn ghi lại  chứng tỏ rằng các nhà nhà hảo tâm Phật giáo đã thường xuyên thành lập và tài trợ  rất nhiều bệnh viện và trạm xá y tế khắp các nước như Campuchia, Trung hoa, Nhật bản, Hàn quốc, Tích-lan, Thái lan, và Tây-tạng. Các cơ sở y tế đó thường do những tăng ni Phật giáo điều hành, và đôi lúc còn được đặt ngay trong khuôn viên của chùa.

 

Thậm chí các cơ sở Phật giáo đôi lúc còn đóng vai trò trực tiếp trong việc thi hành những sáng kiến cứu trợ về y tế hay tai ương thảm họa công cọng ở cấp bậc địa phương. Trong lúc các bệnh viện tiền-hiện-đại chăm sóc bệnh nhân bằng đủ loại y dược truyền thống, thì nhiều tổ chức Phật giáo đương đại đã chuyển sự hỗ trợ của họ sang những biện pháp can thiệp khoa học và y sinh học. Như vậy, các tổ chức từ thiện Phật giáo ngày nay đã tích cực hỗ trợ hoặc trực tiếp điều hành đủ loại bệnh viện, phòng khám bệnh, và những sáng kiến y tế công cọng khắp thế giới.

 

Dù  là lời nhắc nhở cầu nguyện hằng ngày của Hội Từ Tế,  sự nhấn mạnh của Hội SGI về tụng các thần chú, hay lời khuyên của Đức Dalai Lama về cầu nguyện Bồ Tát Tara, một chủ đề lớn khác đã xuất hiện trong đáp ứngcủa Phật giaó trước đại dịch Covid-19 là nghi lễ cầu nguyện sự bảo vệ. Đây đã là mối quan tâm chung đối với Phật tử, xuất phát từ thời xa xưa  khi  lịch sử các truyền thống bắt đầu được ghi chép lại, và tiếp tục trở thành vấn đề quan trọng nhất đối với hầu hết Phật tử khắp thế giới ngày nay.

 

Trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy sơ kỳ, một số bài kinh đặc biệt được tụng như là Kinh Cầu An ( Parittas ), để được bảo vệ khỏi bị bệnh tật và tai họa. Đặc biệt, các bài kinh kể lại chuyện được chữa lành bệnh ngay – như là Kinh Girimānanda  đã được đề cập ở phần trên -  được cho là có năng lực giúp vượt qua bệnh tật và duy trì sức khỏe nhờ những uy lực thần bí về nguồn gốc của bài kinh. Mặc khác, truyền thống tu tập của Đại Thừa và Kim Cương Thừa có khuynh hướng đặt trong tâm vào việc kêu gọi sự phù hộ của một vài vị Phật hay Bồ-tát đặc biệt.  Bài kinh và bài Chú phổ thông nhất liên quan đến các vị Phật chuyên chữa lành bệnh tật là Kinh Dược Sư (Medicine Buddha Sutra ), Chú Đaị Bi ( Great Compassion Mantra)  liên kết với Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, và Thần chú Tara được Đức Dalai Lama khuyến nghị như đã nói ở phần trên. Chúng ta có rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng những ngôn ngữ thần bí đó đã được sử dụng từ thời kỳ trung cổ để chống lại dịch bệnh trong những buổi cầu nguyện riêng tư hay trong các buổi lễ cầu nguyện tập thể của quần chúng, do các tự viện lớn, vua chúa  hoặc các đoàn thể cứu tế  xã hội tổ chức.

 

Được cho là tâm điểm trong giáo  lý và lịch sử Phật giáo, không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta thấy những tổ chức hành thiền để chữa lành bệnh tật, những hoạt động từ thiện về y tế, những nghi lễ cầu an đã đóng một vai trò quan trọng trong  đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch Covid-19. Các Phật tử hầu như luôn luôn sử dụng những biện pháp ấy một cách nghiêm túc như những can thiệp về y tế và sức khoẻ công cọng. Làm thế nào và tại sao họ nghĩ là những biện pháp ấy có hiệu quả lại là một câu hỏi phức tạp hơn.

 

Các truyền thống Phật giáo lớn tự thân đã có nhiều cách diễn giải về bệnh tật rất khác nhau tùy theo tông phái, văn hóa và địa lý. Trong một số nơi, các Phật tử phần lớn nghĩ đến bệnh tật là do quỷ thần gây ra, và đã tìm kiếm sự che chở theo kiểu thần bí. Trong những hoàn cảnh khác, họ đã nghĩ đến bệnh tật là do nghiệp báo, và họ đã tìm kiếm sự can thiệp của các đấng linh thiêng. Trong một số vùng miền, phần lớn người ta nghĩ rằng bệnh tật là do  những biểu hiện đặc thù của các năng lượng vi tế. Những Phật tử đương đại trước tiên muốn diễn dịch các  truyền thống ấy qua một lăng kính hiện đại có lẽ ưa thích cách diễn dịch theo tâm lý học và mang tính chất thế tục hơn về đáp ứng của Phật giáo trước đaị dịch hiện nay. Do sự khác biệt văn hóa, sự trải rộng khoảng cách về địa lý, và luôn luôn có nhiều tiếng nói khác nhau, các truyền thống Phật giáo nói chung tiếp tục đồng thời  lên tiếng về tất cả mọi biện pháp thực hiện này.

 

Như vậy, đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch coronavirus và việc diễn dịch các biện pháp thực hiện ấy không nhất thiết phải trùng hợp nhau trong những nét đặc thù. Tuy nhiên, người ta có thể thấy những đáp ứng ấy qui tụ quanh một số chủ đề bắt nguồn sâu xa từ lịch sử . Những gì làm cho tất cả các đáp ứng ấy trở thành một phần  của truyền thống Phật giáo trước dịch bệnh không phải là vấn đề họ đồng ý với nhau trong mọi lãnh vực, mà là tất cả những đáp ứng ấy đều là một phần của cuộc đối thoại xuyên văn hóa vẫn  tiếp diễn từ mấy ngàn năm nay về Phật giáo và sức khỏe.

 

___________________________

 

    *Xin bấm vào đường dẫn này để  đọc bản tiếng Anh :

https://www.buddhistdoor.net/features/buddhist-responses-to-the-covid-19-pandemic-in-historical-perspective




facebook-1
***
youtube

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 7605)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31141)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
01/02/2022(Xem: 17732)
Nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 2014 tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 vừa qua, chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, có quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc mà không phụ thuộc quá nhiều vào tiền bạc và quyền lực cũng đã diễn ra.
24/12/2021(Xem: 3738)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề xuyên suốt quá trình phát triển của nhân loại. Sự tác động lẫn nhau giữa thiện và ác, chính và tà định hình số phận của các cá nhân và xã hội theo các chu kỳ, có thể biết được và không nhìn thấy. Các vị triết gia và nhà tư tưởng đã cân nhắc không chỉ điều gì tạo nên những chất đạo đức thanh cao mà còn cả những trợ duyên tác động nó. Đạo đức nhân văn là ngành học nghiên cứu các nguyên tắc đạo đức chi phối hành vi hoặc cách cư xử của mỗi cá nhân, và nó cũng là mảng kiến thức liên quan đến các nguyên tắc đạo đức.
05/12/2021(Xem: 4094)
Khi đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu, chúng ta thiết lập các kết nối sâu sắc, và giúp những người xung quanh tránh bị kiệt sức.
17/11/2021(Xem: 19926)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16417)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10337)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11433)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 11684)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567