Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối thoại 10 – Chết và Sống

15/07/201114:24(Xem: 4104)
Đối thoại 10 – Chết và Sống

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 10

CHẾT VÀ SỐNG

New Delhi, ngày 28 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Phải có một cách học hành về chết như thế nào. Biết chết như thế nào có sự quan trọng lạ thường đối với chúng tôi.

Krishnamurti: Những người truyền thống và những người chuyên nghiệp – và qua từ ngữ những người chuyên nghiệp tôi có ý những vị đạo sư, những Sankaracharya, những Adi Sankaracharya, những yogi – họ trả lời nghi vấn này như thế nào?

P: Truyền thống phân chia sống thành những chặng đường khác nhau. Có Brahmacharya, một chặng đường của độc thân, khi như một học sinh, cậu bé học hành từ một đạo sư. Chặng đường thứ hai là chặng đường của Grihastha, nơi người đàn ông lập gia đình, có con cái, tìm kiếm sự tích lũy của cải và vân vân. Anh ấy cũng giúp dỡ những người khất sĩ và trẻ em và vì vậy giúp đỡ xã hội. Chặng đường thứ ba, Vanaprastha, con người ra khỏi sự theo đuổi những việc thế gian và đối diện chặng đường của sự chuẩn bị cho chặng đường cuối cùng mà là Sannyasa, mà trong đó có một từ bỏ sự nhận dạng của tên tuổi gia đình – khoác vào chiếc áo cà sa tượng trưng.

Cũng có một niềm tin rằng tại khoảnh khắc của chết, quá khứ của tất cả con người đều gom tụ lại. Nếu nghiệp lực của anh ấy như những hành động trong sống này đã là tốt lành, vậy thì cái mà là sự suy nghĩ cuối cùng vẫn ở lại cùng anh ấy vào thời gian của chết, tiếp tục. Cái đó được chuyển sang sống kế tiếp. Họ cũng nói về sự cần thiết cốt lõi phải giữ cho cái trí được yên lặng tại thời điểm chết, cho sự kết thúc của nghiệp lực, cho cái trí hoàn toàn tỉnh táo ngay tại khoảnh khắc của chết.

Krishnamurti: Liệu một con người truyền thống trải qua tất cả điều này hay nó chỉ là những từ ngữ?

P:Thông thường, thưa anh, những người Ấn giáo truyền thống có kinh Gita được đọc tại thời điểm chết để cho cái trí của anh ấy ngay tức khắc tự cắt đứt tất cả sự thân mật gia đình, sợ hãi, của cải, vân vân. Điều này không trả lời được câu hỏi của tôi. Bằng cách nào cá thể học hành về chết như thế nào?

Krishnamurti: Hãy nhìn một chiếc lá mùa xuân – nó tinh tế như thế nào và tuy nhiên nó có sức mạnh lạ thường để chịu đựng được cơn gió; vào mùa hè nó lớn lên và vào mùa đông nó chuyển thành màu vàng và rồi nó chết. Đó là một tromg những việc đẹp đẽ nhất khi nhìn thấy. Toàn sự việc là chuyển động của vẻ đẹp, của sự mỏng manh. Chiếc lá mà rất rất mỏng manh, trở nên đầy đặn, có hình thể, gặp gỡ mùa hè và sau đó khi mùa đông đến nó chuyển thành màu vàng. Không bao giờ có bất kỳ ý thức nào của xấu xí, không bao giờ có một tàn tạ giữa mùa hè. Nó là một chuyển động liên tục từ vẻ đẹp sang vẻ đẹp. Có sự trọn vẹn trong chiếc lá mùa xuân cũng như trong chiếc lá đang chết. Tôi không biết liệu bạn thấy điều đó?

Tại sao con người không thể sống và chết trong cách đó? Cái sự việc đang hủy hoại anh ấy từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc là gì? Hãy nhìn một cậu trai mười tuổi hay mười hai hay mười ba tuổi – nụ cười của cậu ấy trọn vẹn làm sao. Đến tuổi bốn mươi cậu ấy trở nên khó khăn và cứng ngắt, toàn dáng điệu và khuôn mặt thay đổi. Cậu ấy bị trói buộc trong một khuôn mẫu.

Làm thế nào người ta học hành về sống và chết, không phải chỉ học hành về chết. Làm thế nào người ta học hành để sống một sống mà trong đó chết là một bộ phận; mà trong đó sự kết thúc, chết, là một phần bẩm sinh của sống?

P:: Làm thế nào chết là một phần bẩm sinh của sống? Chết là cái gì đó trong tương lai, trong thời gian.

Krishnamurti: Chính xác đó là nó. Chúng ta đã đưa chết ra khỏi những bức tường, ra khỏi chuyển động của sống. Nó là cái gì đó phải lẩn tránh, phải tẩu thoát, không suy nghĩ về nó.

Nghi vấn là sống là gì và chết là gì. Hai cái này phải hội tụ cùng nhau, không tách rời. Tại sao chúng ta đã tách rời hai cái này?

P: Bởi vì chết là một trải nghiệm hoàn toàn khác hẳn sống. Người ta không biết chết.

Krishnamurti: Thế sao? Câu hỏi của tôi là tại sao chúng ta đã tách rời hai cái này; tại sao có một khoảng cách rộng lớn này giữa hai cái? Lý do tại sao những con người phân chia hai cái này là gì?

P:Bởi vì trong chết, cái thể hiện trở thành không-thể hiện. Bởi vì cả trong sinh ra lẫn trong chết đi có một bí mật cốt lõi; một xuất hiện và một biến mất.

Krishnamurti: Đó là lý do tại sao chúng ta tách rời hai cái – sự xuất hiện của một em bé và sự biến mất của một ông già? Đó có phải là lý do tại sao con người đã tách rời sống khỏi chết? Các cơ quan thuộc sinh học kết thúc – sanh ra, trưởng thành và chết – người trẻ xuất hiện và người già biến mất. Đó là lý do? Bạn đang nói lý do cho sự phân chia là bởi vì có một khởi đầu và một kết thúc; có sanh ra, niên thiếu, trưởng thành và chết đi. Đó là lý do cho sự sợ hãi về chết. Chắc chắn có một khởi đầu và một kết thúc. Tôi được sinh ra, tôi sẽ chết đi vào ngày mai – có một khởi đầu và một kết thúc. Tại sao tôi không chấp nhận việc đó?

P: Trong chết được bao hàm sự kết thúc của ‘cái tôi’ – của tất cả mọi điều tôi đã trải nghiệm. Sự kết thúc cuối cùng của ‘cái tôi’ xảy ra.

Krishnamurti: Đó là lý do cho sự phân chia bên trong? Dường như đó không là lý do rõ ràng tại sao con người đã phân chia sống khỏi chết.

P: Có phải bởi vì sợ hãi?

Krishnamurti: Liệu do bởi sợ hãi mà khiến tôi phân chia sống và chết? Liệu tôi biết sống là gì và chết là gì?

P: Vâng.

Krishnamurti: Liệu tôi biết hân hoan, vui thú, đó là sống và tôi suy nghĩ chết như sự kết thúc của điều đó? Liệu đó là lý do tại sao chúng ta phân chia một chuyển động được gọi là sống và một chuyển động được gọi là chết? Chuyển động chúng ta gọi là sống, liệu nó là sống? Hay nó chỉ là một chuỗi của những đau khổ, những vui thú, những thất vọng? Đó là điều gì chúng ta gọi là sống?

P: Tại sao anh trao cho nó một ý nghĩa đặc biệt như thế?

Krishnamurti: Liệu có bất kỳ hình thức nào khác của sống? Đây là số mạng của mỗi con người. Con người sợ hãi rằng cái mà anh ấy đã đồng hóa sẽ kết thúc. Vì vậy anh ấy muốn một tiếp tục của cái được gọi là sống này, không bao giờ kết thúc. Anh ấy muốn một tiếp tục của những phiền muộn của anh ấy, của những vui thú, những đau khổ, những hoang mang, những xung đột của anh ấy. Anh ấy muốn cùng sự việc như thế phải tiếp tục, không bao giờ có một kết thúc. Và sự kết thúc của tất cả điều đó, anh ấy gọi là chết. Vì vậy, lúc này cái trí đang làm gì trong điều này? Cái trí bị rối loạn; nó trong xung đột, trong thất vọng. Nó bị trói buộc trong vui thú, trong đau khổ. Cái trí gọi điều đó là sống và cái trí không muốn kết thúc bởi vì nó không biết việc gì xảy ra nếu nó kết thúc. Vì vậy nó sợ hãi chết.

Tôi đang tự hỏi mình, đây là sống hay sao? Sống phải có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn hơn điều này.

P:Tại sao? Tại sao nó phải có một ý nghĩa khác hẳn?

Krishnamurti: Sống là thành tựu, thất vọng, và tất cả điều đó đang xảy ra. Cái trí của tôi đã quen thuộc điều đó và không bao giờ thâm nhập liệu đó là sống? Cái trí của tôi đã không bao giờ tự hỏi nó tại sao tôi gọi cái này là sống? Nó là một thói quen?

P: Tôi thực sự không hiểu rõ câu hỏi của anh.

Krishanmurti: Rốt cuộc tôi phải đặt ra nghi vấn.

P:Tại sao tôi phải đặt ra?

Krishnamurti: Sống của tôi, từ lúc tôi được sinh ra cho đến khi tôi chết đi là một đấu tranh không ngừng nghỉ.

P:Sống là hành động, thấy, hiện diện: tổng thể của điều đó hiện diện ở đó.

Krishnamuti: Tôi thấy vẻ đẹp, bầu trời, một em bé dễ thương. Tôi cũng thấy sự xung đột với người con của tôi, với những người hàng xóm của tôi; sống là một chuyển động trong xung đột và vui thú.

P: Tại sao tôi phải thắc mắc điều đó? Cái trí thắc mắc chỉ khi nào có phiền muộn, khi có nhiều đau khổ.

Krishnamurti: Tại sao không thắc mắc khi bạn có vui thú? Khi không có vui thú có đau khổ.

P: Thưa anh, sống không là một chuỗi của những khủng hoảng. Những khủng hoảng của đau khổ có ít lắm. Chúng là những dịp hiếm hoi.

Krishnamurti: Nhưng tôi thấy việc này đang xảy ra trong sống. Tôi thấy nó đang xảy ra và thế là thắc mắc về sự phân chia này của sống và chết.

P: Anh thắc mắc nhưng những người khác lại không. Chúng tôi thấy có một phân chia; nó là một sự kiện đối với chúng tôi.

Krishnamurti: Tại mức độ nào, tại chiều sâu nào, bằng sự quan trọng nào bạn đang thực hiện câu nói này? Dĩ nhiên, nó là một sự kiện. Tôi được sinh ra và tôi sẽ chết đi. Vậy thì không có gì thêm nữa phải được nói.

P:Điều đó không đầy đủ. Chính sự kiện mà chúng tôi đã hỏi học hành về chết như thế nào…

Krishnamurti: Tôi nói, cũng học hành sống như thế nào.

P: Và tôi đã lắng nghe. Tôi đã không tự đặt ra nghi vấn đó cho chính tôi.

Krishnamurti: Hãy học hành sống như thế nào. Vậy thì điều gì xảy ra? Nếu tôi học hành sống như thế nào, tôi cũng học hành chết như thế nào. Tôi muốn học hành về phiền muộn, vui thú, đau khổ, vẻ đẹp. Tôi học hành. Bởi vì tôi đang học hành về sống, tôi đang học hành về chết. Học hành là một hành động của tinh lọc, không phải sự thâu lượm hiểu biết. Học hành là tẩy sạch. Tôi không thể học hành nếu cái trí của tôi đầy nghẹt. Cái trí phải tự tẩy sạch chính nó để học hành. Vì vậy khi cái trí muốn học hành, nó phải tự-làm trống không chính nó khỏi mọi thứ mà nó đã biết, lúc đó nó có thể học hành.

Vì vậy có sống mà tất cả chúng ta đều biết. Đầu tiên, phải có một học hành về sống hàng ngày này. Lúc này liệu cái trí có thể học hành, không tích lũy? Nếu không hiểu rõ điều gì được hàm ý trong hành động đầu tiên của học hành, liệu nó có thể học hành? Điều gì được hàm ý? Khi tôi không biết, vậy là cái trí của tôi, không-biết, có thể học hành. Liệu cái trí có thể ‘không biết’ để cho nó có thể học hành về sống – sống mà trong đó có đau khổ, phiền muộn, hoang mang, tranh đấu? Liệu nó có thể tiếp cận sống trong một trạng thái của không-biết và thế là học hành? Một cái trí như thế có thể học hành về sống cũng có thể học hành về chết.

Điều gì quan trọng không phải học hành về cái gì đó, nhưng hành động của học hành. Cái trí chỉ có thể học hành khi nó không-biết. Chúng ta tiếp cận sống cùng hiểu biết về sống – cùng hiểu biết của nguyên nhân, hậu quả, nghiệp lực. Chúng ta tiếp cận sống cùng ý thức của ‘Tôi biết’, cùng những kết luận và những công thức và cùng những thứ mà chúng ta chất đầy cái trí. Nhưng tôi không biết về chết. Vì vậy tôi muốn học hành về chết. Nhưng tôi không thể học hành về chết. Chỉ khi nào tôi biết học hành thì tôi sẽ hiểu rõ về chết. Chết là làm trống không cái trí, khỏi hiểu biết mà tôi đã tích lũy.

P: Có thể có học hành về sống trong học hành về chết. Sâu thẳm trong ý thức của con người có sự sợ hãi không tên này của không còn hiện diện.

Krishnamurti: Sự sợ hãi không tên của không-hiện diện. Hiện diện là biết rằng tôi là cái này, rằng tôi hạnh phúc, rằng tôi trải qua một thời gian tuyệt vời. Trong cùng cách như vậy tôi muốn biết về chết. Tôi không muốn học hành, tôi muốn biết. Tôi muốn biết chết có nghĩa gì.

P: Để cho tôi được tự do khỏi sợ hãi.

Krishnamurti: Nếu tôi không biết làm thế nào để lái một chiếc xe hơi, tôi bị sợ hãi.Khoảnh khắc tôi biết, nó chấm dứt. Thế là biết về chết của tôi phụ thuộc vào quá khứ. Hiểu biết là quá khứ, vì vậy tôi nói tôi phải biết chết có nghĩa gì để cho tôi có thể sống. Liệu bạn thấy trò chơi mà bạn đang đùa giỡn vào chính bạn, trò chơi mà cái trí đang đùa giỡn vào chính nó?

Hành động của học hành là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn hành động của biết. Bạn thấy, biết không bao giờ là hiện tại năng động. Học hành luôn luôn ở trong hiện tại năng động. Học hành về chết – tôi thực sự không biết nó có nghĩa gì. Không lý thuyết, không suy đoán nào sẽ thỏa mãn tôi. Tôi sẽ tìm ra, tôi sẽ học hành mà trong đó không-lý thuyết, không-kết luận, không-hy vọng, không-suy đoán, nhưng chỉ có động thái của học hành; thế là không có sợ hãi về chết.

Muốn tìm ra chết có nghĩa gì, hãy học hành.

Trong cùng cách, tôi thực sự muốn biết sống là gì. Vì vậy tôi phải tiếp cận sống bằng một cái trí trong sáng, không có gánh nặng của hiểu biết. Khoảnh khắc cái trí thú nhận nó tuyệt đối không biết gì cả, nó được tự do để học hành. Nhưng không có gì phải học hành. Tuyệt đối không có gì phải học hành, ngoại trừ sự học hành thuộc công nghệ của làm thế nào đi đến mặt trăng. Sự tự do của học hành về cái gì – sự việc mà tôi đã gọi là sống, sự việc mà tôi đã gọi là chết. Tôi không biết nó có nghĩa gì. Vì vậy luôn luôn có đang sống cùng đang chết. Không có chết khi cái trí hoàn toàn được tự do khỏi cái đã được biết – cái đã được biết là những niềm tin, những trải nghiệm, những kết luận, sự hiểu biết, đang nói tôi đã chịu đựng đau khổ và vân vân.

Thuộc trí năng, chúng ta đã chạm khắc một cách đẹp đẽ sống tùy theo tình trạng bị quy định của chúng ta. Muốn đến được Thượng đế ‘Tôi phải sống độc thân’, ‘Tôi phải giúp đỡ người nghèo khó,’ ‘Tôi phải giữ lời thề sống cơ cực.’

Chết nói bạn không thể chạm khắc được tôi. Nhưng tôi muốn tiếp xúc chết; tôi muốn định hình nó vào khuôn mẫu của tôi.

Chết nói bạn không thể chạm khắc được tôi, bạn không thể đùa giỡn với tôi. Cái trí quen sự đùa giỡn – chạm khắc cái gì đó từ sự trải nghiệm.

Chết nói bạn không thể trải nghiệm tôi.

Chết là một trải nghiệm căn nguyên trong ý nghĩa rằng nó là một trạng thái tôi thực sự không-biết. Tôi có thể sáng chế những công thức về chết – sự suy nghĩ cuối cùng là cái mà tự-thể hiện chính nó – nhưng chúng là những suy nghĩ của những người khác. Tôi thực sự không biết. Thế là tôi kinh hãi quá chừng. Vì vậy, liệu tôi có thể học hành về sống và vì vậy về chết?

Vậy là, phủ nhận ‘biết’ – thấy điều gì xảy ra. Trong đó có vẻ đẹp thực sự, tình yêu thực sự, sự việc thực sự xảy ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2669)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 2479)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
07/02/2024(Xem: 5886)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
19/12/2023(Xem: 8126)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 14869)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 13566)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
09/06/2023(Xem: 2911)
Bộ phim Phi Thuyền Serenity (2005) với thể loại khoa học viễn tưởng đã giới thiệu một hình ảnh tên là Miranda, nơi các vấn đề của nhân loại được giải quyết thông quan khoa học công nghệ. Tham lam, giận dữ, si mê (tam độc), phiền não bởi buồn bã, lo lắng và tuyệt vọng - rõ ràng là trùng lặp với một số kiết sử cổ điển của Phật giáo (Skt., Pali: samyojana)
19/05/2023(Xem: 4479)
Tôi đã rất ấn tượng bởi một số chủ đề trùng lặp mà tôi gặp phải từ một số tác giả rất khác nhau. Cụ thể tôi đã thưởng ngoạn tác phẩm “Sapiens: Lược Sử Loài Người” (קיצור תולדות האנושות‎, Ḳitsur toldot ha-enoshut) của Tác giả, Thiền giả, Giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem, Cư sĩ Yuval Noah Harari, một tác phẩm nói bao quát về lịch sử tiến hóa của loài người từ thời cổ xưa trong thời kỳ đồ đá cho đến thế kỷ XXI, tập trung vào loài "Người tinh khôn" (Homo sapiens). Được ghi chép lại với khuôn khổ được cung cấp bởi các ngành khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học tiến hóa.
03/05/2023(Xem: 10225)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
21/04/2023(Xem: 11289)
Thượng Tọa Thích Trí Siêu từ Pháp Quốc sẽ giảng pháp tại Úc Châu vào tháng 4 năm 2023 -- Thượng Tọa Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Theo cha mẹ tỵ nạn qua Pháp năm 1975. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi. Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com