Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

151. Đến địa phủ thấy tội nhân lòng ác không chừa

31/10/201818:07(Xem: 6984)
151. Đến địa phủ thấy tội nhân lòng ác không chừa

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 151:
Đến địa phủ thấy tội nhân lòng ác không chừa

Gặp yêu quái khởi tà tâm tan thân mạng


Bị quỷ tốt ném vào vạc dầu sôi, Trương Sĩ Phương sợ quá hét lên một tiếng giựt mình tỉnh lại, mở mắt ra mới hay là mình vừa chiêm bao, đang nằm trên giường mà mồ hôi ra ướt cả mền nệm. Vừa mới định thần thì nghe bên kia Lý Tu Duyên la lên:

- Không xong rồi, đau lòng em quá Trương đại ca ơi!

Trương Sĩ Phương hỏi:

- Lý hiền đệ, em la cái gì vậy?

Em mới vừa nằm mộng, thấy có hai quan nhân đến trói dẫn anh xuống gặp Diêm Vương. Diêm Vương bảo quỷ tốt dẫn anh đi xem các địa ngục. Em cũng đi theo phía sau anh. Anh xem các địa ngục xong, Diêm Vương nói anh làm hại Vương viên ngoại, lại còn muốn hại bao nhiêu người nữa. Em thấy anh bị quăng vô vạc dầu sôi sùng sục, sợ quá em la lên một tiếng giật mình tỉnh lại.

Trương Sĩ Phương nghe xong nghĩ thầm: "Lạ thiệt, làm sao mình nằm mộng mà nó biết kìa?". Rồi lại nghĩ: "Nằm mộng là ở trong lòng thôi, làm gì có việc đó! Phải nghĩ cách giết hai thằng này mình mới phát tài được. Nếu không như vậy thì không xong!". Nghĩ tới nghĩ lui rồi ngũ nữa. Lại cũng nằm mộng như trước, nhưng lần này thấy mộng không bị quăng vào vạc dầu mà bị ném lên núi dao. Sợ quá giật mình tỉnh giấc, lại ướt đẫm cả mồ hôi! Ba lần như vậy, Trưong Sĩ Phương sợ quá trống ngực đập thình thịch! Nghe bên ngoài trống điểm canh ba, Trương Sĩ Phương nghĩ bụng: "Thôi mình đừng ngũ ở đây nữa, căn nhà này xui quá! Ngủ nữa, mình phải sợ bắt chết đi!". Hắn nghĩ rồi, ngồi dậy nói:

- Hai vị hiền đệ ngủ đi nhé! Tôi có việc phải đi đây.

Vương Toàn cũng tỉnh dậy, nói:

- Trương đại ca, nửa đêm mà anh đi đâu vậy?

- Chú để mặc tôi. Tôi không ở đây nữa.

- Anh muốn thế thì gọi gia nhân mở cửa cho.

Trương Sĩ Phương mặc y phục xong, bước ra kêu gia nhân mở cửa. Mọi người vừa mới ngủ bị dựng dậy mở cửa, ai cũng rủa thầm hắn vì từ hồi nào đến giờ hắn không được lòng ai cả. Ra khỏi thôn Vĩnh Ninh, Trương Sĩ Phương thẳng đến Hài Sanh kiều, ngước mắt nhìn lên, mặt trăng đang lơ lửng trên không. Đương lúc tàn thu, mặt nước lặng lờ long lánh như gương. Gió Tây thổi lại, nhuộm màu vàng cả rừng cây. Nhìn xuống dưới cầu, dòng nước thu trong cuồn cuộn chảy về Đông. Đêm sâu yên tĩnh, gà chó lặng im. Đứng trên cầu, Trương Sĩ Phương tự hỏi: "Đêm khuya canh ba mình đi đâu nhỉ? Chi bằng đến viện Câu Lan nghỉ đỡ đêm nay". Mới tính như vậy, bỗng nghe trong rừng cây phía Bắc có tiếng đàn bà khóc nỉ non. Trương Sĩ Phương theo tiếng tìm đến gần xem thử. Quả nhiên đó là một thiếu phụ, tuổi cũng không quá hai mươi. Tiếng thở than như mật rót đầy vẻ bi ai. Trương Sĩ Phương tiếc cho ánh trăng không đủ tỏ để nhìn thấy vẻ nguyệt thẹn hoa nhường. Chiếc miệng nhỏ xíu hợp với đôi mày ngài mắt hạnh trên gương mặt ngọc phù dung, từ đầu đến chân không chỗ nào chê được. Trương Sĩ Phương nhìn thấy tức thì dâm tâm phát động. Hắn ta vốn là quỷ đói trong đám sắc, ma vương của loài hoa, vội vàng nói:

- Vị tiểu nương này, tại sao đêm khuya tăm tối mà lại khóc than ở đây?

Người thiếu ấy ngước mắt lên nhìn, nói:

- Thưa đại gia công tử, tiểu phụ học Chương, chỉ vì chồng không ra gì, cả gia tài đều đem nướng vào sòng bạc hết, đến nổi nhà phải chạy ăn từng bữa. Như vậy chưa đủ, hôm nay chồng tiểu phụ cần tiền, mới bán tiểu phụ để ăn thua trong sòng bạc. Cho nên tối nay tiểu phụ lén trốn ra đây, định ngồi khóc lóc một hồi rồi treo mình kết liễu cuộc đời cho xong. Đại gia công tử nghĩ xem, rơi vào hoàn cảnh này còn sống mà làm gì?

Trương Sĩ Phương nghe nói có ý mừng thầm, cho đây là dịp thuận tiện, vội nói:

- Tiểu nương tử ơi, nàng đừng nghĩ quẫn như thế! Người ta chết rồi không thể sống lại được. Nàng đang còn tuổi trẻ thanh xuân, chết thật là quá uổng! Chi bằng nàng hãy theo ta có tốt hơn không?

- Ôi, tôi theo công tử đi đâu?

- Ta nói cho nàng biết, nàng thử hỏi thăm trên phố này xem. Ta họ Trương tên là Sĩ Phương, là ai tài chủ ở tại địa phương này, trong nhà cũng có nhà cửa điền sản đầy đủ, cửa hiệu buôn bán tơ lụa. Gần đây vợ ta vừa mới mất, không ai vừa ý nên chưa tục huyền. Không đi bước nữa không phải tại ta không muốn, mà vì muốn chính mắt mình thấy người ưng ý mới bằng lòng. Nếu nàng chịu đi cùng ta, chúng ta hai người quả là trai tài gái sắc đẹp đôi. Một khi nàng thành vợ của ta, y phục cả rương, đồ trang sức không biết bao nhiêu hộp, nhất hô bá ứng, nàng thấy thế nào?

- Công tử hiện ở đâu?

- Nàng đi với ta nhé!

Nói rồi đưa tay muốn kéo đi. Thiếu phụ ấy nói:

- Công tử xem có ai đến không?

Trương Sĩ Phương ngoái đầu nhìn lại không thấy có người nào, day lại cũng không thấy thiếu phụ đâu. Trương Sĩ Phương còn đương ngạc nhiên, thì một con hương chương nhảy xổ lại ngoạm ngay cổ kéo vật xuống ăn thịt. Nó ăn Trương Sĩ Phương còn chừa lại một đầu và một cái đùi. Té ra người thiếu phụ ấy chính là con hương chương biến ra. Nó vâng lệnh Tế Công chờ sẵn ở đây để ăn thịt Trương Sĩ Phương. Chính tên tiểu tử này tâm ý quá độc ác xấu xa, mới bị yêu tinh thanh toán như vậy.

Sáng hôm sau, Vương An Sĩ nghe nói Trương Sĩ Phương nửa đêm bỏ đi mới cho người đi tìm kiếm. Gia nhân về báo là chỉ gặp chiếc đầu và một cái đùi của Trương Sĩ Phương sót lại. Vương An Sĩ bảo gia nhân đi mua một cổ quan tài về bỏ chiếc đầu và chân còn lại của hắn vào trong đem chôn trên gò mả lạng. Vương An Sĩ muốn cho Lý Tu Duyên hoàn tục rồi mới lo chuyện hôn nhân tiếp theo, bèn chọn ngày lành tháng tốt, sai gia nhân đưa tin đến Hòa thượng phương trượng chùa Quốc Thanh vì Lý Tu Duyên là đệ tử ký danh của chùa. Hôm đó lãi viên ngoại cùng Vương Toàn đưa Lý Tu Duyên lên chùa Quốc Thanh làm lễ nhảy tường hoàn tục. Viên ngoại kêu gia nhân chuẩn bị ba cổ ngựa chở Lý Tu Duyên và đặt tăng mạo, tăng y rách nát lên đó, Các gai nhân đều cưỡi ngựa đi theo, Vừa mới ra khỏi đầu thôn Vĩnh Ninh, Tế Điên thi triển nghiệm pháp, con ngựa đang cỡi tách đoàn chạy nhanh tới trước vào thẳng trong rừng. Tế Điên nhảy xuống ngựa trút bỏ toàn bộ y phục văn sinh công tử, lấy tăng y cũ mặc vào rồi dùng tay chỉ một cái, đem ngựa treo lên cây, dùng phép ẩn thân giấu biến con ngựa đi, Tế Điên cất bước lần về phía trước, thấy từ hướng đối diện đi lại năm, sáu ông Hòa thượng kiếc. Họ bảo nhau:

Chúng mình phải đi nhanh may ra tối nay mới kịp. Hôm nay cháu gái của Đổng viên ngoại là Lưu Tố Tố con của Lưu Bá Vạn cúng Tăng thí gạo, mỗi người được 200 tiền và một cái bánh bao. Cô nương nguyên đã hứa gả cho Lý Tu Duyên, con của Lý Tiết đạt sứ. Nào ngờ Lý Tu Duyên từ năm 18 tuổi đã bỏ đi mất. Cô nương này hiện ở nhà cậu, Đổng viên ngoại muốn tìm mối khác cho cô, nhưng cố ấy nói: "Trung thần không thờ hai chúa, liệt nữ chẳng lấy hai chồng, đến chết không đổi ý". Vị cô nương này là người tài giỏi, các thân hào nhân sĩ của huyện Thiên Thai chúng ta ai cũng khen ngợi cô. Đổng viên ngoại thúc ép cô dữ quá, bảo cô nương không cần phải chờ Lý Tu Duyên nữa, nên ưng mối khác đi. Cô nương không biết làm sao mới ra một câu đối, nói rằng nếu ai đối được thì ưng người đó. Cô nương ra câu đố khó quá nên mấy giám sinh ở phủ Thái Châu chúng ta không ai đối được, đúng là đụng đầu vào gai! Cô nương tánh hay làm phước, chúng ta đi lãnh bánh bao và tiền đi!

Tế Điên nghe họ nói chuyện, biết là họ nói về cô vợ chưa cưới của Lý Tu Duyên, nên bước tới nói:

- May quá, may quá! Chúng ta cùng đi nhé!

Các ông Hòa thượng kia dòm lại, hỏi:

- Ông cũng đi lãnh bánh bao ở Đổng gia trang à?

- Chớ sao!

Nói rồi nhìn kỹ trước mắt không xa là một vườn cây, đó là Đổng gia trang. Tiến vào cửa thôn, thấy cổng lớn ở phía Bắc đường cất một cái rạp rất lớn. Các tăng nhân vào cửa, thấy quản gia đang phát bánh và tiền. Tế Điên nói:

- Chúng tôi có bảy Hòa thượng tất cả. Chú đưa bảy cái bánh bao và một điếu tiền 400 tiền cho tôi, tôi sẽ chia lại cho các Hòa thượng kia.

Quản gia nghe nói bèn lấy bảy cái bánh bao và một điếu 400 tiền tổng cộng nặng khoản một cân mốt đưa cho Tế Điên. Tế Điên nói với Hòa thượng kia:

- Bánh bao thì mấy vị hãy cầm phần mình, còn tiền thì thư thả lát nữa lại đằng kia sẽ chia nhé!

Nói rồi nhìn sang thấy cửa sổ mở hoác, bên trong có một chiếc bàn để sẵn bút mực nghiên đầy đủ. Kế bên dán một câu đối 11 chữ, đều có bộ Mịch trùm đầu, câu đối là: "Ký ngụ khách gia, lao thủ hàn song không tịch mịch". (Nương náu nơi này, nóng nảy não nề niềm nợ nặng). Tế Điên hỏi:

- Câu đối này để làm gì vậy? 

Câu đối này của cô nương chúng tôi ra đó. Viên ngoại chúng tôi nói: Nếu có ông nào đối được vế sau thì coi như người nhà; nếu người tăng hay đạo đối được thì viên ngoại tôi sẽ cất một ngôi chùa hay ngôi miếu; hoặc là văn sinh công tử đối được, chỉ cần tuổi tác tương đương, viên ngoại sẽ tình nguyện gả cô nương cho người ấy. Nhưng câu đối ấy quá khó đến nỗi những người đọc sách ở xứ này đều thúc thủ.

Tế Điên nói:

- Để ta đối vế sau câu ấy có được không?

- Nếu ông có tài học có thể đối được về sau, viên ngoại tôi chắc chắn sẽ cất chùa cho ông đó.

Tế Điên cầm viết ngoáy lia liạ. Quản gia cầm đưa cho vú em bảo đem cho cô nương xem. Cô nương xem vế đối cứ tặc lưỡi khen hay, cho thiệt là kỳ văn, diệu văn, tuyệt văn! Thật ra vế trên không phải là dễ đối. Mười một chữ trên đều có bộ Mịch trùm đầu, còn về ý nghĩa thì cô nương nói về thân thế mình, cha mẹ mất sớm phải ở tạm nhà của cậu, khác nào việc "Ký ngụ gia" (tạm ngụ nhà người), còn "Lao thủ hàn song không tịch mịch" là nói con người lẻ loi của chính mình, ngồi một mình ở khuê phòng, trong lòng buồn bả, biết đến ngày nào mới được mở mặt mày!

Về phần vế dưới muốn coi như đắc cách, ngoài việc đối được ý tứ còn phải 11 chữ mang cùng bộ loại: hoặc toàn là bộ Mịch, hoặc ba chấm Thủy, hoặc đeo bộ Khẩu, hoặc Nhơn đơn nay Nhơn kép (xích) ; hoặc có Ngôn ở bên toàn dùng lời nói; còn vế sau của Tế Điên dùng toàn bộ Sước có nghĩa là "đi". Câu đối là: "Viễn ti mê đồ, thối hoàn liên kỉnh phản tiêu diêu" (Đường đời đày đọa, đến đâu đạo đức được đồng đi). Ý nghĩa 11 chữ này ám chỉ Lưu Tố Tố cô nương từ khi lọt lòng đến nay, chay tịnh từ bụng mẹ không ăn thịt cá bao giờ. Cô ta vốn là Liên Hoa La Hán chuyển thế lạc vào nữ thai. Hôm nay Tế Điên đến làm câu đối lại cốt ngầm độ người vợ chưa cưới. "Viễn tị mê đồ" có ý nói người ta sống ở đời như một giấc mộng to, không khác nào lạc trong đường mê. Xa lánh đường mê tức là phải lánh khỏi đường mê đó. "Thối hoàn liên kỉnh phản tiêu diêu" là nói chi bằng đi xuất gia là được tiêu diêu tự tại. Cô nương xem câu đối tắc khen hay, vội bảo:

- Mau kêu người ấy vào đây cho ta gặp mặt.

Gia nhân nói:

- Người đó là một ông Hòa thượng kiếc.

- Bất luận là tăng hay đạo ta cũng muốn gặp.

Gia nhân chạy ra ngoài tìm Hòa thượng thì không còn thấy tung tích đâu nữa. Tế Điên cầm một điếu 400 tiền thi triển nghiệm pháp chạy đi. Sáu ông Hòa thượng trong chớp mắt không để ý, thấy ông Hòa thượng đâu mất bèn lật đật rượt theo. Vừa chạy ra khỏi cửa làng thì thấy Tế Điên đang ngồi trên đất nghịch tiền, nói nhảm một mình:

- Tiền này ít quá, hai trăm tiền không đủ đếm!

Sáu ông Hòa thượng thấy vậy nổi giận áp lại vây chặt định đánh Tế Điên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7663)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8546)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7345)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6225)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7153)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5357)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4033)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8788)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23358)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4710)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]