Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Tế Điên hóa phép đùa Quảng Huệ

13/10/201809:40(Xem: 6870)
14. Tế Điên hóa phép đùa Quảng Huệ

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 14:
Tế Điên hóa phép đùa Quảng Huệ
Trịnh Hùng vì mẹ cầu Thánh tăng



Có thơ rằng: 
Lưu thủy cao sơn một khúc cầm

Bá kỳ thiên cổ vẫn tri âm

Chân tình đàn đến thông trời đất

Mới thấy u huyền thái có tâm.

Tế Điên nói:

- Thưa Trịnh đại quan nhân, hôm nay tôi biến một pháp thuật, xin mời lão thái thái ra nhìn tận mắt mới hay.

Trịnh Hùng nói:

- Không được đâu, mẹ tôi không thấy đường đã hai năm rồi, làm sao có thể thấy được?

Tế Điên nói:

- Cũng vì lão thái thái hai mắt không thấy đường, tôi mới mời ra xem, nếu là người thấy đường thì đâu cần phải mời.

Trịnh Hùng biết Hòa thượng là người không phải tầm thường, đi ra nhà sau mời lão thái thái ra, hai đứa a hoàn dìu đỡ đi ra bên ngoài. Các thân hữu đều đứng dậy, nói:

- Xin chúc mừng lão thái thái, kính mong lão nhân gia đa phúc đa thọ.

Lão thái thái ngồi xuống. Trịnh Hùng nói:

- Thưa mẹ, hiện có Tế Công trưởng lão ở chùa Linh Ẩn muốn biến một pháp thuật, có thể mời mẹ xem cho rõ ràng.

Lão thái thái gật đầu. Tế Điên đến trước lão thái thái, nói:

Tiệc thọ mở lời:

Đào thọ sắc hồng tươi

Rượu thọ sánh chén ngời

Ngũ phúc thọ đầu tiên

Thọ miên miên - phúc trường viễn

Cầu mong:

Tuổi thọ thanh tòng

Chẳng sợ gió sương lay

Khác nào phúc như Đông hải

Thọ tỷ Nam san.

Đọc xong mấy câu, Tế Điên lấy tay vẽ trên tròng mắt của lão thái thái một vòng, thầm niệm lục tự chơn ngôn "Án ma ni bát mê hồng". Lão thái thái quả nhiên mắt thấy được. Lão thái thái kêu:

- Trịnh Hùng à, mắt trái của mẹ đã thấy được rồi.

Trịnh Hùng hãy còn chưa tin, vẫy tay gọi một con a hoàn đến, hỏi:

- Má ơi, má có thấy ai đây không?

Lão thái thái nói:

- Đây là con Xuân Mai chớ ai.

- Phải rồi. Xin chúc mừng lão thái thái. Thiệt thấy được rồi!

Trịnh Hùng nghe nói mừng quá, vội đi lại gần, hỏi:

- Thưa mẹ, mẹ có thấy con ra thế nào không?

Lão thái thái nói:

- Ngày tháng thoi đưa, mi cũng già đi nữa.

Trịnh Hùng vội đến trước Tế Điên thi lễ, nói:

- Bạch Thánh tăng, xin lão nhân gia từ bi cứu trị cho! Mắt bên trái đã thấy được rồi, còn mặt bên phải xin người trị luôn một thể.

Lão thái thái nói:

- Bây giờ, mắt bên trái của ta đã thấy được rồi.

Tế Điên nói:

- Ta không thể trị mắt bên phải được. Hiện giờ ở ngoài cổng nhà này có một người đang ẵm đứa nhỏ tên là Mã Bái Nhiên. Người ấy có thể trị bệnh này được.

Trịnh Hùng vội sai người ra cổng mời Mã Bái Nhiên vào. Trịnh Hùng đến thi lễ nói:

- Thưa tiên sinh, xin tiên sinh trị giùm mắt bên phải của mẹ tôi, tôi xin đền ơn trọng hậu.

Mã Bái Nhiên vừa định mở lời từ chối, Tế Điên bèn nói:

- Mã Bái Nhiên ơi, ông trị giùm bà ấy đi!

Nói rồi ngầm đưa cho Mã Bái Nhiên một viên thuốc. Đương lúc đó, các vú em, a hoàn đều kéo ra đứng đầy ở cửa để xem trị mắt phải của lão thái thái, trong đó có một người đàn bà bước tới ẵm giùm em bé cho bú sữa, đứa bé ré lên khóc. Mã Bái Nhiên cũng chí phúc tâm linh, cầm viên thuốc nói:

- Thuốc này phải dùng vô căn thủy hòa tan. Đây là tiên đơn diệu dược của nhà Phật ban truyền, bảo lão thái thái lấy nước này rửa mặt, mắt sẽ sáng lại như xưa.

Bảo gia nhân đem thuốc hòa tan với nước. Quả nhiên, lão thái thái rửa vào mắt phải, mắt sáng lại như thường.

Trịnh Hùng thấy người vú em mới đến bồng con Mã Bái Nhiên cho bú, chẳng biết nguyên cớ ra sao, liền đem hỏi Mã Bái Nhiên. Mã Bái Nhiên mới đem tình cảnh vợ chồng nghèo khổ, vợ phải đi kiếm việc, còn chính mình muốn đem con cho rồi nhảy xuống sông tự vận, may gặp được Tế Công, mỗi mỗi kể ra một mạch. Trịnh Hùng nghe thuật mới vỡ lẽ ra, nói:

- Được rồi, trong nhà tôi đang thiếu một người quản lý, ngươi nên ở lại đây, ta sẽ cấp riêng cho vợ chồng ngươi một căn nhà để ở.

Rồi day qua Tế Điên:

- Bạch Thánh tăng, xin người từ bi nhận cho, xin cho tôi đổi y phục đang mặc của người.

Tế Điên nói:

- Ngươi không cần thay đổi y phục của tạ Hòa thượng ta xin hóa ở ngươi chút duyên này thôi. Ngươi hãy đem hai khoảnh ruộng lúa ngoài cửa Thanh Ba cúng cho Lưu Thái Chơn ở Tam Thanh quán để làm đất hương hỏa cho miếu này. Như vậy chính là tạ Ơn Hòa thượng ta đó.

Quảng Huệ đang ngồi một bên, thấy Tế Điên thi triển kỳ công vừa hổ vừa giận, bèn đứng dậy nói:

- Thưa Trịnh đại quan nhân, tôi biết phía sau nhà Ngài nơi hoa viên có một yêu quái làm lộng, tôi tình nguyện đến đó bắt yêu an trạch, không lấy một tơ hào nào hết. Tôi sở dĩ làm như thế là muốn so sánh pháp thuật với Tế Điên, xem thử ai hơn ai kém!

Tế Điên nói:

- Được rồi, ông đã nói thế thì ta cùng ông ra hoa viên bắt yêu an trạch, lui quỷ trị bệnh nhé! Nếu ông bắt được yêu tinh thì kể như Hòa thượng ta thua, còn như bắt yêu không được sẽ tới lượt Hòa thượng ta ra sức.

Quảng Huệ nói:

- Cũng được, bây giờ chúng ta đi!

Tế Điên nói:

- Vội chi, chúng ta hãy ăn cơm đã. Còn sớm quá, bắt yêu, yêu cũng không đến đâu!

Trịnh Hùng nói:

- Nơi hoa viên của tôi, không biết yêu quái hay là gia tiên ở đó? Thường thường bọn gia nhân nằm ngũ ở gác sau, bị ai đó quăng xuống lầu. Còn không như thế thì đồ vật trong nhà kêu lên loảng xoảng và bị ném xuống đất lung tung. Có khi trên lầu tự nhiên đèn thắp sáng, xem lại chẳng có người nào, cũng không biết là yêu hay quái? Tôi cũng chẳng biết sao. Tình trạng này đã nữa năm rồi!

Quảng Huệ nói:

- Không hề chi! Tối nay, ta không cần biết nó là yêu, là quái hay quỷ. Ta tóm lấy nó, lấy giới đao kết thúc tánh mạng là xong.

Mọi người cùng nhau trò chuyện, phút chốc trời đã tối, Trịnh Hùng hỏi hai vị Hòa thượng cần dùng những thức chi.

Quảng Huệ cầm viết ghi ra một toa, Trịnh Hùng bảo gia nhân chiếu theo đó sắm sẵn, để ở hoa viên. Khi tất cả đã sửa soạn xong, hai vị Hòa thượng mới ra hoa viên xem xét. Đồ vật gồm có: một bàn bát tiên, một cái ghế, một bộ lư hương chân đèn, một thẻ nhang dài, một xấp giấy tiền, một nghiên mực, một mớ bạch cập, một gói chu sa, hai cây bút mới, một tờ giấy vàng, một bó rau thơm, một mâm ngũ cốc, một chén nước mưa.

Quảng Huệ xem xong, bèn trước hết đốt đèn hương, rồi mới đảo cáo với quá vãng thần kỳ, bảo hộ cho đệ tử là Quảng Huệ bắt được yêu quái, trở về chùa sẽ dâng hương, thiết trai đáp tạ. Đảo cáo xong, Quảng Huệ dùng nước mưa hòa chu sa và bạch cập nghiền nát, lấy bút mới viết ba đạo thần phù, đốt lên sẽ hóa làm linh phù, trong miệng lâm râm đọc: "Đốt đạo bùa thứ nhất, cuồng phong nổi dậy; đốt đạo bùa thứ hai, bắt yêu quái trói lại; đốt đạo bùa thứ ba, dùng giới đao kết thúc tánh mạng". Trịnh Hùng cùng một tên gia nhân gan dạ đứng bên ngoài theo dõi. Tế Điên cũng ở tại đó, tay cầm hồ rượu uống tì tì không nói chi hết. Quảng Huệ miệng lâm râm đọc, tay cầm đạo linh phù thứ nhất đốt hươ lên mà không có động tĩnh chi, cũng không có chút gió. Mọi người thấy vậy đều cười rộ lên, nói:

- Quảng sư phụ nói dóc, chớ có tài cán chi.

Quảng Huệ lại đốt linh phù thứ hai hươ lên, cũng không có gì lạ xảy ra. Quảng Huệ lòng gấp như lửa đốt cầm luôn linh phù thứ ba đưa ra phía ngoài, tức thì bên ngoài có một luồng quái phong cuốn theo cát bụi mịt mù, mưa lớn lột độp, chưa từng thấy. Có bài tán rằng:

Vô ảnh lại vô tung

Cuốn dương hoa, Tây lại Đông 

Hút lá thả từng không

Sông ngòi thuyền nhỏ chao nghiêng ngửa

Mây bay nhanh quá đỉnh cung

Qua vườn rừng hoa lá lung tung

Vút thông xanh, xuyên cửa sô?

Đuốc bạc lắc lư, bóng chập chùng.

Trận gió qua đi, bèn thấy ở ba gian lầu đối diện, một căn lầu tự mở ra, bên trong đi ra một lão già, mặt non như trẻ nít, đầu đội khăn bốn góc màu đồng xưa, mình mắc áo thụng cùng màu, vớ trắng giày xanh, tay cầm phất trần chỉ về phía Quảng Huệ, nói:

- Hay cho Quảng Huệ! Ta với ngươi ngày trước không oán, gần đây không cừu, tại sao ngươi lại tới làm kinh động tả Tại làm sao thế hử?

Bèn lấy phất trần chỉ một cái, một đám khói trắng xông thẳng tới Quảng Huệ. Quảng Huệ cảm thấy đầu nặng, mắt hoa, té ngửa trên đất. Tế Điên tay cầm hồ lô rượu, cười hà hà nói:

- Ngươi vốn là người tu đạo, tại sao vô cớ đạp vào hồng trần, lại còn dám hiếp đáp đệ tử của ngôi Tam bảo nữa hử?

Nói rồi vỗ đầu một cái, lộ ra ba đạo hào quang. Vị tiên gia kia vốn là bậc tu đạo, ở trên lầu này, có mấy ngàn năm công hạnh. Nhân vì bọn gia nhân của Trịnh Hùng ăn ở không được tinh khiết, động chạm tới ông ta, ông ta mới náo loạn như thế. Hôm nay, thấy Tế Điên hiện ra ba đạo hào quang như thế, vị tiên gia vốn là người tu chẳng dám đến gần, sợ bị ba luồng ánh sáng đó rọi vào thì mất đi 500 năm công hạnh. Người có lời của người, thú có tiếng của thú, vị hồ tiên đó đã biến làm người được, đạo pháp cũng cao xa lắm, lật đật nói:

- Xin Thánh tăng chớ giận! Cũng đừng nên oán trách tôi. Chỉ nhân vì bọn gia nhân của Trịnh Hùng đánh đập bọn tiểu hồ không một chút thương tiếc, nên tôi làm như vậy để bọn nó biết tay.

Tế Điên nói:

- Ngươi phải mau mau rời khỏi chỗ này cho ta, nếu không đi ta kêu thiên lôi đánh chết đấy nhé!

Vị tiên gia ấy tức hóa làm trận gió bay mất.

Tế Điên lấy một viên thuốc cho Quảng Huệ uống giây lát tỉnh lại. Quảng Huệ hổ thẹn, mặt đỏ đến mang tai, nói lời cáo từ trở về Tam Thanh miếu. Tế Điên còn ở lại nhà Trịnh Hùng. Hôm sau trở dậy, Trịnh Hùng khoản đãi cơm rượu xong, nghĩ đến ơn Tế Điên trị bệnh mắt cho mẹ, trong lòng rất cảm kích, muốn thay đổi y phục cho Tế Điên để tạ Ơn. Tế Điên nói:

- Lần này ngươi muốn tạ Ơn ta thì hãy ghé tai lại nghe ta nói như vầy, như vầy…

Trịnh Hùng gật đầu ưng thuận. Tế Điên mới cáo từ ra khỏi nhà Trịnh Hùng đi về phía cửa Tiền Đường.

Đến bên ngoài cửa Tiền Đường, Tế Điên thấy có một gánh thịt chó để đó, còn người bán thì đang ngồi xổm đại tiện ở chân tường đối diện với Ngọc Hoàng các. Tế Điên vỗ đầu ba cái, nhướng mắt huệ nhìn xem, nói: "Đây thiệt là người con hiếu bậc nhất trên thế gian. Hòa thượng ta nếu không cứu hắn, ắt lôi thần sẽ đánh chết". Nghĩ rồi bèn hỏi:

- Thịt chó này của ai đây?

Hỏi liên tiếp ba lần mà không có ai trả lời.

Nguyên người bán thịt chó này họ Đổng tên Bình, nhà ở trong cửa Tiền Đường, trong nhà có bà mẹ và vợ là Hàn thị. Đổng Bình là người tánh tình rất đa nghi, thường hay trước mặt mẹ nói nhiều điều bất hiếu, dù mẹ không lỗi lầm chi, nhưng lời nói cũng tỏ ra ngang ngược. Sáng ra, Đổng Bình cùng mẹ cải nhau một trận, Bình cho mẹ không biết gì hết. Vợ hắn là Hàn thị, là người vợ hiền lương, thường khuyên can hắn, nói:

- Mẹ đã lớn tuổi rồi, anh không nên vô cớ rầy rà như vậy để mẹ phải buồn lòng.

Đổng Bình cũng không nói năng chi, ra cửa đi bán thịt. Hôm đó, Bình xào một chảo thịt chó, bảo Hàn thị xem chừng, còn mình đi mua chó. Triều nhà Tống cho phép người ta mua bán thịt chó tự dọ Đổng Bình đi đường Hồ Đồng, thấy ở phía Bắc đường có một người đứng sẵn chờ, tuổi độ hơn 30, có dáng vẻ như người buôn bán. Người đó hỏi:

- Anh đi mua chó về bán thịt phải không?

Đổng Bình đáp: Phải.

Người ấy nói:

- Tôi vốn không muốn nuôi chó, nhưng từ năm kia có một con chó hoang đến ở, đuổi nó, nó không đi. Tối lại đóng cửa nhốt chó ở trong nhà. Nửa đêm nghe tiếng chó sủa, tôi thức dậy xem, thì ra có kẻ trộm đang cạy cửa. Tôi nghĩ rằng con chó này cũng có chỗ dùng bèn để lại nuôi. Năm nay, nó lại sanh thêm một con chó nhỏ nữa, chúng nó cứ giành ăn cắn nhau mãi. Tôi sợ cắn phải đứa con tôi, nên cũng có ý bán nó, nhưng không lẽ đã có ơn nuôi dưỡng lại có cừu giết hại sao? Tôi cũng không cần tiền, anh nên bắt về đi.

Đổng Bình nghĩ: "Thế thì hợp quá!". Bèn lấy dây cột con chó lớn, ôm con chó nhỏ, cám ơn người ấy vài câu rồi kéo chó trở về nhà. Đến nhà, cột chó lớn ở trong sân rồi vào nhà lấy dao ra định giết chó. Để dao ở ngoài sân, vào nhà lấy cái chậu trở ra thì con dao đâu mất. Đổng Bình hỏi vợ:

- Bà có lấy dao không?

- Không có, người vợ trả lời.

Đổng Bình đi tìm, thấy con chó nhỏ nằm ép lên lưỡi dao, cán ló ra ngoài. Đổng Bình đi đến, lấy chân đá chó nhỏ một cái, lấy dao lại định giết chó lớn. Con chó nhỏ chạy tới nằm trườn trên bụng chó lớn, nhe răng nhìn Đổng Bình, mà hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7663)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8545)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7345)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6225)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7151)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5357)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4033)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8787)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23358)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4710)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]