Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Đổng Sĩ Hoằng Đợ Con Chôn Mẹ

13/10/201809:05(Xem: 7453)
02. Đổng Sĩ Hoằng Đợ Con Chôn Mẹ

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 2:
Đổng Sĩ Hoằng Đợ Con Chôn Mẹ


Thơ rằng:

Có công tìm tiên cảnh

Tiên cảnh nào đâu xa

Trước mắt không tham luyến 
Trong lòng ắt thảnh thơi

đất trời thênh thang rộng

Ung dung ngày tháng dài

Suốt đời an bổn phận

Nào phải đắn đo chi.

Tế Điên Hòa thượng đi đến Tây Hồ thấy một người đang thắt thòng lọng định treo cổ, vội bấm linh quang biết rõ mọi việc. Nguyên người định treo cổ có tên là Đổng Sĩ Hoằng ở huyện Tiền Đường, tỉnh Chiết Giang, thờ mẹ rất hiếu thảo. Cha mất sớm, mẹ họ Tần cưới cho người vợ họ Đỗ, chẳng may gãy gánh giữa đường, để lại một đứa con gái khá lanh lợi tên là Ngọc Thợ Đổng Sĩ Hoằng nhờ nghề thợ bạc sống qua ngày. Đến năm Ngọc Thơ 8 tuổi, bà cụ họ Tần nhuốm bệnh nặng. Đổng Sĩ Hoằng hết lòng chăm sóc, hiềm nổi nhà nghèo không đủ sức lo thuốc thang cho mẹ già. Túng cùng, ông ta đành đem đợ đứa con gái của mình cho nhà tiến sĩ họ Cố lấy 50 lượng bạc, với thời hạn là 10 năm chuộc lại. Bà cụ Tần nhân không thấy mặt cháu mới gạn hỏi lý do.

Đổng Sĩ Hoằng đổ thừa:

- Con bé đã về chơi bên ngoại.

Vì nhớ cháu, bà cụ Ốm liệt thêm, bảy ngày dây dưa rồi mất. Đổng Sĩ Hoằng phát mãi hết những đồ vật có giá trị trong nhà để chôn cất mẹ già xong, cũng đến phủ Trấn Giang làm mướn qua ngày. Thấm thoát đã 10 năm, tính lại số tiền dành dụm cũng dễ đến 60 lượng bạc. Đổng Sĩ Hoằng định trở lại làng cũ chuộc con về rồi tìm mua một ngôi nhà cũ để cha con ở. Ngày kia đến Lâm An, ngụ lại khách điếm ngoài cửa Tiền Đường, chờ hôm sau về ngõ hẻm cũ hỏi thăm nhà Cố tiến sĩ. Nào ngờ, người lối xóm đều bảo: "Cố tiến sĩ đã đi nhận chức ở tỉnh nào xa lắm, bây giờ không biết đi phương nào... ". Đổng Sĩ Hoằng nghe nói thế như sét nổ bên tai, như rơi tuột giữa vực thẳm, cố dọ hỏi khắp nơi lân cận cũng không biết Cố đại nhân trấn nhậm ở đâu và con gái mình xiêu dạt phương nào. Buồn bực, Đổng Sĩ Hoằng vào quán rượu uống ít chén giải sầu. Uống vào mấy ly rượu say túy lúy, chân thấp chân cao bước ra khỏi quán, quên cả đường về nơi ngụ, cả đến gói bạc rơi rớt lúc nào cũng chả haỵ đến khi tỉnh rượu, rờ lại gói bạc không còn. Đổng Sĩ Hoằng chậm chạp đi về phía bờ rừng, càng nghĩ càng thêm rầu rĩ: "Muốn tìm con gái rốt cục chẳng thấy được mặt, gói tiền dành dụm bao năm vô ý trắng tay, chi bằng chết phứt cho xong". Nghĩ thế rồi Đổng Sĩ Hoằng đến bên rừng, lần mở thắt lưng buộc lên nhánh cây và làm một cái thòng lọng, sắp sửa đút đầu vào. Ngay lúc đó, có một vị Hòa thượng vừa đi vừa than thở: "Chết! Chết! Phải chết mới được, chết còn sướng hơn sống trên đời. Ta treo cổ quách cho xong". Vừa nói vừa mở thắt lưng dòm lên trên cây định buộc. Hòa thượng ấy phục sức lôi thôi, bộ dạng nửa người nửa ngợm. Có thơ rằng:

Mặt chẳng lau, đầu chẳng cạo,

Mắt say hé mở nhắm liền vô,

Như điên như dại, như khờ khạo,

Gặp chỗ khôi hài thích giở trò,

Tăng y rách nát chẳng kín thân,

Trên dưới xun xoe tiền rủng rẻng,

Tơi tả quanh mình khiếu với chầm,

Giày dây đứt nối đỏ cùng đen,

Tăng hài mòn rách còn lại đế,

Sức mạnh cặp đùi tuy nhỏ thó,

Càn khôn bốn bể mặc tiêu dao,

Qua sông trèo núi nhanh như gió,

Kinh chẳng đọc, thiền bất biết,

Rượu thịt tối ngày, giở trò xiếc,

Thức mê khuyến thiện độ quần sinh,

Cứu vớt nhân gian bất bình diệt,

Đổng Sĩ Hoằng liếc mắt theo dõi, nghe Hòa thượng nói: "Ta chết cho rảnh", rồi thò vào thòng lọng. Đổng Sĩ Hoằng lật đật chạy đến, nói:

- Này Hòa thượng ơi, ông vì cớ gì mà làm việc uổng đời như vậy?

Tế Điên nói:

- Ba năm nay, tôi theo sư phụ đi hóa duyên khắp nơi, cực khổ trăm điều, tính lại chỉ vừa năm lượng bạc. Hôm nay sư phụ sai tôi ra chợ sắm hai bộ tăng bào và tăng mão (mũ ni). Thèm rượu quá, tôi ghé vào quán uống chơi vài chén, ngờ đâu say quá đánh rơi mất 5 lượng bạc mang theo. Bây giờ tôi còn mặt mũi nào trở về gặp sư phụ nữa. Mất tiền này, sư phụ tôi thế nào chẳng nổi giận đánh mắng. Nghĩ tới nghĩ lui, thôi thà chết cho khoẻ.

Đổng Sĩ Hoằng nghe nói thế, liền nói:

- Này Hòa thượng, 5 lượng bạc có xá gì mà ông lại muốn tìm cái chết. Tôi cũng làm người mắc nạn, sẳn trong túi có 5 - 6 lượng bạc vụn để cũng chả làm gì. Ông lại đây, tôi đem số tiền giúp đỡ ông.

Nói xong thò tay vào bọc lấy bạc đưa cho Tế Điên. Tế Điên cầm bạc 5 trong tay, cười ha hả nói:

- Bạc của ông không tốt bằng bạc của ta, lại vụn nát lấm chấm. Tuy vậy cầm tạm cũng được.

Đổng Sĩ Hoằng nghe nói không vui, thầm nghĩ: "Mình đã biếu ông hết cả tiền mà ông còn chê là bạc xấu!". Rồi nói:

- Hòa thượng ơi, có tiền rồi đó, ông mặc ý mà xoay xở đi.

Tế Điên nói: Tôi đi nhé.

Đổng Sĩ Hoằng lẩm bẩm: "Ông Hòa thượng này thật chẳng biết điều chút nào cả, mình có bao nhiêu cho hết mà ông lại còn chê là bạc xấu. Lúc đi, họ tên mình ông cũng không hỏi, cả đến tiếng cám ơn cũng không. Thiệt là hạng hạ cấp. Ôi, để chết đi cho rảnh". Đang lúc đùng đùng nổi giận như thế, lại thấy Tế Điên từ đằng kia trở lại nói:

- Hòa thượng ta một khi thấy bạc là quên hết, cũng không hỏi ân công tên họ là gì? Tại sao ra nông nỗi thế?

Đổng Sĩ Hoằng đem việc mình mang bạc đi bị mất ra sao lần lượt thuật lại.

Tế Điên nói:

- Té ra ông cũng là người mất bạc để cha con không được gặp mặt nhau. Như vậy ông chết là đáng lắm! Thôi ta đi nhé!

Đổng Sĩ Hoằng nghe thế, giận nói:

- Ông Hòa thượng này thiệt mất lịch sự quá, mở miệng nói toàn những việc không đâu vào đâu.

Tế Điên đi được năm sáu bước, quay lại hỏi:

- Này Đổng Sĩ Hoằng, ông muốn chết đó là muốn chết thiệt hay chết giả?

Đổng Sĩ Hoằng nói:

- Tôi muốn chết thiệt thì sao?

Tế Điên nói:

- Ông muốn chết thiệt hử? Ta sẽ giúp ông trọn tình trọn nghĩa: Bộ quần áo ông đang mặc đáng giá năm sáu lượng bạc. Khi ông chết bị chồn xé, quạ rỉa rách nát cũng uổng, chi bằng cởi ra đưa cho tạ Cởi hết ra, cởi hết ra, chết chẳng là thoải mái lắm sao?

Đổng Sĩ Hoằng nghe thế, giận run cả người, nói:

- Hay cho Hòa thượng, ông trọn tình trọn nghĩa quá! Tôi với ông bèo nước gặp nhau, tôi cho ông mấy lượng bạc, ông lại nói với tôi những lời khó nghe nhỉ?

Tế Điên vỗ tay cười ha hả nói:

- Lành thay, lành thay! Ông chưa muốn chết vội, ta hãy hỏi ông: số bạc ấy đã mất rồi, ông lại muốn chết. Số tiền 50 - 60 lượng kể có là bao, ta sẽ tìm giùm con gái ông có bằng lòng không?

Đổng Sĩ Hoằng nói:

- Hòa thượng ơi, số tiền mang đi chuộc con tôi đã đánh mất rồi. Giả sử bây giờ có tìm gặp nó, tôi cũng không biết lấy gì để chuộc ra được.

Tế Điên nói:

- Được, được, ta sẽ có cách. Ông cùng đi với ta nhé!

Đổng Sĩ Hoằng hỏi:

- Hòa thượng hiện tu ở chùa nào? Và quý hiệu là chi?

Tế Điên nói:

- Bần đạo tên là Đạo Tế, tu ở chùa Linh Ẩn trên núi Phi Lai nơi Tây Hồ, người ta thường gọi là Tế Điên tăng.

Đổng Sĩ Hoằng thấy Hòa thượng nói năng khác thường, lại có ý cứu vớt hoạn nạn cho mình, bèn nói:

- Thưa sư phụ, chúng ta sẽ đi đâu?

Tế Điên chỉ nói: Đi!

Đoạn xoay mình cắp tay Đổng Sĩ Hoằng đi tới trước, vừa đi vừa hát:

Đi đi đi, dạo dạo dạo.

Không thị, không phi suốt tháng năm.

Ngày nay mới biết xuất gia quý.

Ăn năn thuở trước kiếp ngựa trâu!

Ân với ái? Chỉ là mộng ảo.

Vợ cùng con? Chi khác ma đầu!

Chi bằng ta, tay trắng với một bầu.

Chi bằng ta, qua phố phủ, kinh châu.

Chi bằng ta thong thong thả thả.

Chi bằng ta lãng đãng giang hồ

Suốt ngày vui sống đời thư thả,

Cũng chẳng ưu tư cũng chẳng sầu.

Vẹt gót giày băng đồng trèo núi,

Rách tăng y vượt suốt qua sông

Ta cũng hát hè ca với xướng

Ta cũng cương hề lại cũng nhu.

Ngoài thân thể hợp cùng trời đất

Nào ngại chi đời chẳng chỗ dung.

Trời cũng thây, đất cũng thây.

Vui vui vẻ vẻ ngạo vương hầu.

Buồn ngủ khoanh tròn say một giấc,

Tỉnh lại sự đời chả đáng chị

Đến một ngõ hẻm, Tế Điên bảo Đổng Sĩ Hoằng:

- Ông đứng ở ngoài này nhé, giây lát sẽ có người ra hỏi ngày tháng năm sinh của ông. Ông cứ thực mà nói, đừng đi đâu nhé. Hôm nay ta sẽ làm cho cha con ông được đoàn tụ.

Đổng Sĩ Hoằng nói:

- Cúi xin Thánh Tăng từ bi thương xót.

Tế Điên ngước mắt nhìn thấy mười mấy tên gia đinh đang ngồi phía trong cổng một tòa nhà cao lớn với biển đề treo cao, biết rằng đây là nhà một vị quan nào, bèn xăm xăm đi tới hỏi:

- Kính chào chư vị, đây có phải là nhà Triệu lão gia không?

Gia nhân thấy vị Hòa thượng ăn mặc lôi thôi, trả lời:

- Phải đấy, chủ nhân chúng tôi họ Triệu, Hòa thượng hỏi có việc chi?

Tế Điên nói:

- Nghe người ta nói bà cụ Ở nhà bệnh thế trầm trọng sợ e khó sống, ta muốn đến tìm chủ nhân của các người để trị bệnh cho bà cụ.

Gia nhân nói:

- Hòa thượng đến thật đúng lúc; bà cụ, nhân vì tiểu chủ bệnh, nặng lòng lo cho cháu, lo quá thành bệnh. Gia chủ đã rước khá nhiều thầy thuốc đến điều trị mà chưa thấy thuyên giảm. Gia chủ chúng tôi tên là Triệu Văn Hội rất có hiếu với mẹ, thấy bà cụ bị bệnh nặng, hễ có thầy thuốc nào tài giỏi đều cho người mời đến để trị bệnh. Gần đây có một vị viên ngoại họ Tô tên Bắc Sơn, cũng có bà cụ mắc bệnh. Bên đó mời được một vị lương y tên là Lý Hoài Xuân, trác hiệu là Trại thúc hòa, rất tinh thông y lý. Chủ nhân chúng tôi vừa sang nhà Tô viên ngoại để mời y sĩ về.

Vừa nói đến đó, bên ngoài có một đoàn người cưỡi ngựa về tới. Ba người đi trước, một người cưỡi ngựa bạch, tướng mạo đẹp đẽ, tuổi trạc 30, đầu đội khăn bốn góc, trên có cài phiến ngọc, mình mặc áo cừu viên ngoại, trên đó thêu hàng trăm con bướm nhỏ, chân mang đôi giày gấm, da mặt hơi trắng, dưới cằm không râu. Người này chính là Trại thúc hòa Lý Hòa Xuân.

Người thứ hai đội khăn lam chéo góc thêu khảm ngọc đẹp, mình mặc áo cừu lam, chân mang giày xanh, mặt như trăng rằm, đôi mắt hiền từ, râu ba chòm phất phơ trước ngực. Người này chính là Tô bắc Sơn viên ngoại.

Người thứ ba cũng có dáng dấp một phú ông viên ngoại, mặt trắng râu dài, ngũ quan thanh tú.

Tế Điên thấy rồi, ra trước đầu ngựa nói:

- Xin ba vị khoan đi đã, Hòa thượng ta chờ quý vị đã lâu rồi.

Triệu Văn Hội ở phía sau thấy một vị Hòa thượng khùng khùng cản lối, vượt lên trước nói:

- Này Hòa thượng, chúng tôi có việc gấp, rước thầy thuốc về trị bệnh cho mẹ già. Hòa thượng muốn hóa duyên thì để ngày khác, hôm nay không được đâu.

Tế Điên nói:

- Không phải đâu, Hòa thượng ta đâu có đi hóa duyên. Nghe nói trong quý phủ có bà cụ bệnh nặng, ta muốn đến thăm bệnh nhơn, phải đi cứu bệnh mới được. Ý của Hòa thượng ta chỉ cốt đến trị bệnh mà thôi.

Triệu Văn Hội nói:

Tôi đã mời thầy thuốc rồi, vị này là một danh y đương thời. Thôi, Hòa thượng đi đi, tôi không mời ông.

Tế Điên quay nhìn Lý Hoài Xuân với một mắt, nói:

- Ông là danh y đương thời hử? Tôi xin hỏi ông một vị thuốc này xem trị bệnh gì?

Lý Hoài Xuân nói:

- Xin Hòa thượng cứ hỏi.

Tế Điên nói:

- Bánh bao mới ra lò trị bệnh gì?

Lý Hoài Xuân nói:

- Sách bản thảo không có nói vị đó, tôi không biết.

Tế Điên cười ha hả, nói:

- Cả đến vìệc quan trọng dường ấy ông không biết mà lại dám xưng là danh ỵ Này nhé, bánh bao mới ra lò là trị bệnh đói, có phải không? Ông nói không trôi, Vậy ta sẽ vào nhà họ giúp đỡ ông một tay nhé!

Lý Hoài Xuân nói:

- Được, Hòa thượng muốn đi thì cứ đi.

Triệu Văn Hội và Tô Bắc Sơn cũng không tiện ngăn trở, lấy mắt nhìn nhau rồi cùng nhau tiến vào cổng.

Đến trước phòng của Triêu thái thái, gia nhân dâng trà xong, Lý tiên sinh chẩn mạch cho bà cụ, nói:

- Đây là chứng đàm ứ uất kết bừng lên, Phải trị bằng cách cho mửa cục đàm đó ra mới lành bệnh. Bà cụ tuổi tác đã cao, khí hhuyết kém suy, không thể trị bằng cách đó được. Xin viên ngoại thỉnh một vị lương y khác cao minh hơn.

Triệu Văn Hội nói:

- Thưa tiên sinh, không ở trong y giới, làm sao tôi biết vị nào là cao minh để tôi mời, xin tiên sinh vui lòng tiến cử hộ.

Lý Hoài Xuân nói:

- Ở Lâm An này chỉ có tôi và Thang Vạn Phương mà thôi. Bệnh nào ông ấy trị được, tôi cũng trị được. Ngược lại, bệnh nào tôi trị không được, ông ấy cũng đành thúc thủ mà thôi. Chúng tôi tài học ngang nhau.

Câu chuyện đến đó bỗng nghe Tế Điên nói:

- Các ông đừng quá lo, để Hòa thượng ta chẩn mạch bà cụ thử xem.

Triệu Văn Hội là người con chí hiếu, nghe thế lật đật nói:

- Phải đấy, xin kính mời Hòa thượng.

Lý Hoài Xuân cũng muốn xem tài nghệ Hòa thượng ra sao. Chỉ thấy Tế Điên đến trước lão thái thái vỗ tay nói:

- Lão thái thái chưa chết được đâu, xương sọ còn cứng lắm mà.

Lý Hoài Xuân nói:

- Hòa thượng này khéo nói chuyện tầm ruồng không.

Tế Điên nói:

- Được rồi, để Hòa thượng ta đem cục đàm ra là xong.

Nói rồi, Tế Điên đến trước lão thái thái nói:

- Đàm a đàm, ra đây mau, ra đây mau! Mi ở trong đó tức chết lão thái thái ư?

Lý Hoài Xuân cười thầm: "Thực là đồ bá vơ ở đâu".

Chỉ thấy lão thái thái ho ra một cụ đàm. Tế Điên thò tay vào mình lấy một viên thuốc vò vò, hô:

- Đem một chén nước âm dương ra đây!

Giây lát, gia nhân đem nước tới.

Triệu văn Hội vội hỏi:

- Thuốc đó tên là chi mà có thể trị bệnh cho mẫu thân của tôi được?

Tế Điên cười lớn, tay cầm hoàn thuốc, nói:

Thuốc này tùy thân dùng mãi mãi

Chẳng phải hoàn tán với cao đơn

Tạp bênh uốngvào liền hiệu nghiệm

Bát bửu tiên y Trừng nhãn hoàn.

Tế Điên nói xong, thà viên thuốc vào chén nước, nói:

- Lão thái thái vì lòng lo lắng nóng nảy, nên bị một cục đàm vọt lên lập tức hôn mê bất tỉnh. Qúy vị nên khéo léo phò dưỡng lão bà và cho uống viên thuốc này, lập tức có công hiêu.

Triệu Văn Hội nghe nói như thế, biết Hòa thượng này lai lịch phi thường nên nói nguyên nhân gây bệnh rất đúng, vội nói:

- Bạch Thánh tăng, xin người từ bì cứu giúp chọ Mẹ cửa con nhân vì quá lo lắng cho bệnh tình của cháu nội, lòng dạ cấp bách mà ra nông nỗi. Con có một đứa bé mới lên 6 tuổi không biết bị chứng bệnh oan nghiệt gì mà cứ hôn mê bất tỉnh luôn. Mỗi lần như thế, mẹ con lo sợ cuống cồng mới bị đàm chặn nghẹt như thế. Sư phụ có ý trị bệnh cho mẹ con, luôn tiện xin rủ lòng thương chữa trị cho cháu.

Tế Điên bảo đem thuốc đổ cho bà cụ, giây lát đàm hạ bình phục như xưa.

Triêu Văn Hội đến thỉnh an lão thái thái rồi lại dập đầu cầu xin Hòa thượng trị bệnh cho con mình.

Tế Điên nói:

- Muốn Hòa thượng ta trị cho thằng bé hết bệnh không phải là chuyện khó, chỉ cần y theo những điều kiện sau đây.

Triệu văn Hội hỏi:

- Bạch Hòa thượng, điều kiện đó thế nào?

Tế Điên thông thả nói:

 Điều kiện ấy thế này... thế này..!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7484)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8389)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7164)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6079)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6974)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5282)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8487)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22855)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]