Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

114. Trịnh Huyền Tu quán rượu gặp Hòa thượng

20/10/201814:54(Xem: 6670)
114. Trịnh Huyền Tu quán rượu gặp Hòa thượng

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 114:
Trịnh Huyền Tu quán rượu gặp Hòa thượng

Thẩm Diệu Lượng nghe ca biết Thánh tăng


Tế Điên bước vào tửu lầu tìm một chiếc bàn ngồi xuống. Phổ ky dọn chén đũa ra, lão đạo sĩ hỏi:

- Này phổ ky! Ở đây có bán đồ chay không? Tôi ăn chay.

- Thưa có!

Tế Điên nói: - Ta ăn mặn hè!

- Mặn chay có hết mà! Phổ ky nói:

- Chú đem cho đạo gia một miếng tầu hũ rán trước đi! Tế Điên nói - Ta kính lão đạo đó!

Lão đạo nghĩ bụng: "Hòa thượng này không quen với mình, lại kính đồ chay cho ta, ta phải kính lại mới được:. Bèn lật đật gọi phổ ky:

- Chú đem cho sư phó một món chiên nhé! Ta kính Ngài đó.

Phổ ky dạ ran, giây lát thức đem lên đủ. Tế Điên muốn uống rượu, bèn kêu phổ ky:

- Đem cho lão đạo sĩ một đĩa giá chua, ta kính Ngài.

Lão đại sĩ lại kêu cho Tế Điên một chén vò viên; Tế Điên kêu cho lão đạo sĩ một đĩa đậu hũ xào, lão đạo kêu lại một đĩa thịt dê; Tế Điên kêu một tô canh cải trắng, lão đạo kêu lại một đĩa thịt ram. Hai người kêu qua kêu lại tặng nhau. Tế Điên kêu phổ ky lại nói:

- Lát nữa đạo gia ăn hết bao nhiêu tiền, để ta trả cho nhé!

- Vâng ạ!

Lão đạo sĩ nghe nói thế, khi ăn xong kêu phổ ky tính tiền và bảo:

- Hòa thượng ăn hết bao nhiêu tiền để ta trả cho nhé!

Tế Điên lật đật nói:

- Đạo gia đừng làm thế! Để tôi trả cho.

Lão đại sĩ nói rồi bèn mở túi ra, trong túi có 200 lượng bạc. Tế Điên nói:

- Để tôi trả cho!

Nói xong lấy tay cướp lấy chiếc túi của lão đạo sĩ cầm đi xuống lầu. Lão đạo sĩ cho rằng Hòa thượng có tính mau mắn, đi xuống lầu để trả tiền nên không giật túi lại. Lão đạo sĩ đợi một hồi lâu không thấy Tế Điên trở lên, mới kêu phổ ky xuống xem thử. Phổ ky trở lên trả lời:

- Hòa thượng đã đi từ nãy rồi!

Lão đạo sĩ nghĩ thầm: "Hòa thượng này là tên lường gạt, lấy mất 200 lượng của ta mà cũng không trả tiền cơm nữa". Nay mắn lão đại sĩ còn một ít bạc vụn trong túi, bèn lất ra trả tiền cơm, rồi xuống lầu đuổi theo Hòa thượng. Đi tới đầu thôn, lão đạo thấy Hòa thượng đang ngồi tại cổng thôn mở bao bạc ra và tự nói lẩm nhẩm: - Cái này là Cao bạch, cái này là Thành sắc, cái này là Thái hồ, không biết có tốt hay không?

Lão đạo sĩ Trịnh Huyền Tu thấy vậy mới nói:

- Hay cho ông Hòa thượng! Ông cướp bạc của tôi còn nói thành sắc này thành sắc nọ hử?

Nói rồi chạy tới đánh lia lịa. Tế Điên bèn đếm: 1 đấm, 2 đấm... Lão đạo sĩ đánh đến 5 đấm, Tế Điên bèn nói:

- Để ta đấm lại ông chớ!

Nói xong giằng lão đạo sĩ xuống đánh 5 đấm. Tế Điên đứng dậy nói:

- Ông đánh lại ta!

Lão đạo sĩ lại đánh. Tế Điên lại giằng lão đạo sĩ xuống đánh 5 đấm. Người ta thấy vậy bu lại xem, nhưng chẳng ai can ra. Có người nói:

- Hai vị này đánh nhau coi cũng được quá! Mỗi người đánh 5 đấm.

Người khác nói:

- Hòa thượng công bằng hơn! Đánh lão đạo 5 đấm rồi tự mình nằm xuống bảo lão đạo đánh; còn lão đạo không công bằng chút nào, phải đợi Hòa thượng đè xuống mới chịu nằm.

Lão đạo sĩ nghe nói giận quá, trả lời:

- Ta mà không công bằng à? Ông ấy ăn của ta một bữa cơm, lại giựt của ta 200 lượng bạc chạy đi, mà ta lại không công bằng à?

Mọi người muốn khuyên giải thì đằng kia Thẩm Diệu Lượng, Lý Diệu Thanh, Chữ Đạo Duyên chạy tới. Thẩm Diệu Lượng nói:

- Này Hòa thượng! Tôi đang tìm ông thì gặp ông ở đây! Tôi hỏi ông nè, tại sao ông khinh dể đồ đệ tôi quá vậy?

- Cái đó là tự đồ đệ của ông vô cớ xía vô chuyện của người. Ta bảo cho ông biết: này Thẩm Diệu Lượng! Cả đến ông, ta cũng không coi ra gì nữa mà!

- Này Hòa thượng! Ông có bao nhiêu lai lịch mà dám nói lớn lối như vậy?

- Có bao nhiêu lai lịch hử? Hãy nghe mấy câu ta nói đây:

Xưa kia anh kiệt bốn phương đồn,

Giết vợ tìm vào học đạo tôn,

Làm Linh ban tặng Phân quang kiếm,

Mới nhập Tam Thanh cổ đạo môn.

Thẩm Diệu Lượng nghe Tế Điên đọc mấy câu, rất đỗi kinh ngạc! Thật ra Thẩm Diệu Lượng trước kia là người Giang Tây, sống về nghề bảo tiêu tên là Thẩm Quốc Đống, oai danh vang dội khắp nơi, thường đi bảo tiêu xạ Vợ Ở nhà là Tào thị và con, hai người sống qua ngày. Ngày kia, Thẩm Quốc Đống rảnh việc ở nhà bèn đi ra tiệm uống trà, nghe ở bàn bên có hai người nói chuyện phiếm. Họ nói:

- Việc trên thế gian này khó mà nói cho hết! Bậc đại trượng phu khó khỏi vợ không hiền, con không hiếu. Như Thẩm Quốc Đống là bậc anh hùng đi bảo tiêu xa, vợ Ở nhà lại làm chuyện lén lút xấu hổ; đáng tiếc Thẩm Quốc Đống anh hùng như vậy mà vợ làm mất hết danh tiếng!

Người kia nói:

- Sao mà anh biết?

Người nọ đáp:

- Tôi có người bà con ở gần nhà của Thẩm Quốc Đống. Tôi thường đến đó chơi. Nghe nói vợ của Thẩm Quốc Đống thật là vô liêm sỉ! Việc này nếu để Thẩm Quốc Đống biết được thì mất mạng như không.

Người kia nói:

- Cũng không chắc gì ông ấy biết. Có ai dám nói ra đâu!

Thẩm Quốc Đống ngồi một bên nghe thấy hết, nhưng cố làm như không biết gì, vả lại cũng không biết hai người đó là ai. Còn hai người này chỉ nghe tên Thẩm Quốc Đống mà chưa thấy mặt bao giờ. Thẩm Quốc Đống nghe việc ấy xong, trở về nhà, cũng không đề cập chuyện ấy. Ngày kia, Thẩm Quốc Đống nói định đi ra ngoài, Tào thị hỏi:

- Anh đi bao lâu mới trở về nhà?

- Có việc gấp phải mất hơn hai tháng mới về.

Thẩm Quốc Đống đi ra khỏi nhà, bèn đến một trấn nhỏ cách nhà khoảng ba dặm, tìm một quán trọ ngụ đỡ. Tối lại, khi sang canh, tự mình cắp dao ngầm trở về nhà dò xét, không thấy động tĩnh chi, bèn về quán ngủ lại. Tối hôm sau vào khoảng canh hai, Thẩm Quốc Đống lại trở về nhà dò xét, thì nghe trong nhà có tiếng gái trai cười giỡn. Thẩm Quốc Đống đến bên cửa sổ xoi lỗ giấy nhìn vào: vợ hắn ăn mặc chải chuốt, trang sức đẹp đẽ. Trên giường đặt một chiếc bàn thấp, trên bàn rượu thịt đầy đủ, ngồi một bên là một vị văn sinh công tử đẹp đẽ ưa nhìn. Thẩm Quốc Đống nhận ra là Tôn công tử ở sát nhà mình tên là Tổ Nghĩa, hiệu Tú Phong. Vị này vốn dòng dõi nhà quan, cha ông đã từng làm chức Giáo học, nhưng vì tổ tiên không đức hạnh mới sanh ra hạng con cháu lưu đãng, thông gian với Tào thị như thế! Kế nghe Tào thị nói:

- Hai ngày nay hắn ta ở trong nhà, tôi sợ công tử đến, hai đàng chạm mặt e có nhiều điều bất tiện! May mà hắn lại đi, dễ chừng đến hơn hai tháng.

Vị công tử kia nói:

- Nàng ơi! Hai hôm nay ta thiệt là sách vở biếng xem, cơm nước nuốt không trôi, chỉ hận mình không được cùng nàng vui chung một chỗ. Được như vậy mới toại lòng ta!

- Công tử có muốn cùng nhau làm vợ chồng lâu dài chăng?

- Làm chồng vợ lâu dài là thế nào?

- Công tử mua cho em một gói thuốc độc, đợi hắn về, em dọn tiệc tẩy trần, bỏ thuốc độc vào trong rượu thuốc chết hắn đi. Như vậy chúng ta há chẳng phải là làm chồng vợ lâu dài sao?

Thẩm Quốc Đống nghe tới đó trong lòng khó chịu, tự nghĩ rằng: "Chí thân không ai bằng cha con, gần gũi không ai hơn vợ chồng, mà bây giờ thiệt là: Chồng vợ đồng giường, lòng xa trăm dặm!". Rồi xông vào nhà giết chết hai kẻ gian dâm ấy. Thẩm Quốc Đống định đầu cáo với quan huyện để chịu án cho xong, nhưng lại nghĩ: "Người ta sống trên đời giống như một giấc mộng dài! Công danh giàu có, vợ đẹp con khôn chỉ toàn là giả, rốt cuộc đều không. Chi bằng xuất gia là khỏe nhất!".

Nghĩ như vậy rồi, Thẩm Quốc Đống bèn đến lạy Tử hà chơn nhơn Lý Hàm Linh làm thầy, được ban tên là Diệu Lượng và một thanh Phân quang kiếm để hộ thân. Hiện tại Thẩm Diệu Lượng đã hơn 90 tuổi, chuyện ngày xưa của ông ta không ai biết, mà hôm nay bốn câu thơ của Hòa thượng lại trúng vanh vách sự việc cũ. Hòa thượng độ chừng hơn 20 tuổi, làm sao biết được chuyện mấy mươi năm trước?

Thẩm Diệu Lượng ngạc nhiên một hồi lâu mới nói:

- Này Hòa thượng! Làm sao ông biết được chuyện quá khứ của ta?

Tế Điên đem 200 lượng bạc ra trả cho Trịnh Huyền Tu rối nói:

- Để Hòa thượng ta cho ông thấy lai lịch của ta nhé!

Nói rồi lấy tay sờ lên thiên linh một cái, lộ ra Phật quang, linh quang, kim quang. Thẩm Diệu lượng nhìn thấy đúng là vị Tri Giác La Hán. Lão đạo sĩ lật đật cúi đầu, miệng niệm "Vô lượng Phật". Tế Điên cười hà hà, quay đầu cất bước, vừa đi vừa hát:

Sống tuổi 70 được bao người?

Bỏ đi bé bỏng lúc nhiều mươi,

Khoảng giữa thời gian đà mấy chốc.

Lộn xem sầu não với vui tươi!

Trăng quá Trung thu, trăng chẳng sáng.

Hoa quá Thanh minh, hoa kém tươi.

Bên hoa dưới nguyệt vui ca giọng,

Chén vàng cạn chuốc mãi đầy vơi.

Trên đời tiền của dùng nào hết,

Triều nội quan to được mấy người?

Quan to, của lắm, tâm thêm bận,

Chỉ tội đầu xanh sớm bạc thôi!

Xuân Hạ Thu Đông tày mháy mắt,

Gà báo canh khuya, chuông hoàng hôn.

Hãy xem trước mắt nhân gian,

Mỗi năm một bận cỏ hoang viếng mồ.

Mộ hoang cao thấp lô xô,

Mỗi năm già nửa cỏ khô mọc tràn.

Tế Điên hát sơn ca xong, đi đến phủ Khúc Châu. Quan Tri phủ là Trương Hữu Đức nhìn thấy, nói:

- Bạch Thánh tăng! Ngài đi đâu đó? Tôi đương phái người đi khắp nơi tìm Thánh tăng đây!

- Ta được bạn bè mời rượu mà đến đây. Lão gia tìm Hòa thượng ta có việc gì?

- Tôi đã lấy cung hai tên Hoa Vân Long và Điền Quốc Bổn xong rồi, bọn chúng đều thú nhận cả; chờ Thánh tăng đến để tôi sai một người cùng đưa bọn giặc về Lâm An.

- Được đấy!

Quan Tri phủ phái hai vị Đầu mục mang theo 10 tên quân, đem bọn giặc đóng trăn lại, dùng thuyền đưa đi. Tế Điên và hai Ban đầu Sài, Đỗ nói lời cáo từ. Quan tri phủ đưa đến bờ sông rồi mới trở về. Lập tức thuyền nhổ neo, Tế Điên nói:

- Này hai vị Ban đầu! Chắc là hai vị mừng rồi đó! Giải mấy tên giặc Lâm An, hai vị lên nha môn lãnh 1.200 lượng bạc thưởng, mỗi vị được 600 lượng.

Sài đầu, Đỗ đầu cũng vui vẻ nói:

- Bọn tôi được như vậy là nhờ ơn sư phó thành toàn cho!

Thuyền vẫn phăng phăng đi tới, mọi người nói cười vui vẻ. Một ngày kia đi đến Tiểu Long khẩu, nào ngờ từ dưới nước xông lên bốn tên giang dương đại đạo muốn cướp tù xa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7484)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8389)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7164)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6079)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6974)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5282)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8487)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22855)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]