Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Cứu nạn dân đưa về am Thanh Tịnh

15/10/201821:17(Xem: 7062)
26. Cứu nạn dân đưa về am Thanh Tịnh

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 26:
Cứu nạn dân đưa về am Thanh Tịnh

Cao Quốc Thái nghèo khổ kiếm bà conứu Thế


Có thơ:
Tâm tư sầu thảm phổ lên đàn

Gió mai trăng lạnh tiết thu sang

Tiếng ca réo rắt dường dao cắt

Não nuột lòng người dạ xốn xang.

Triệu Văn Hội, Tô Bắc Sơn và Tế Điên vừa ngồi xong thì màn trúc lay động, từ bên trong đi ra một người thiếu nữ khoảng mười tám, mười chín tuối, phong tư rất mỹ lệ, đầu chải kiểu tóc vấn, mình mặc áo trắng thường. Tô Bắc Sơn thấy biết nàng là gái từ nhà lương thiện, mới hỏi kỷ về lai lịch. Nghe hỏi, cô gái lộ nét u sầu, đem việc bán mình chôn cha rồi bị kẻ gian gạt gẫm bán vào chốn yên hoa, mỗi mỗi thuật lại rõ ràng.

Hai vị viên ngoại nghe xong rất lấy làm cảm kích, bèn hỏi:

- Này cô nương, nàng có biết ngâm thi không?

Xuân Hương đáp:

- Về văn lý, tiểu nữ cũng biết rõ vẽ đôi chút.

Triệu viên ngoại nói:

- Thế thì nàng làm hai bài cảm hoài cho ta xem thử.

Hồi nãy, Triệu viên ngoại thấy mấy câu thơ hãy còn nghi là không phải chính tay Xuân Hương làm, nên bây giờ muốn tận mặt thử về văn lý như thế.

Xuân Hương không cần nghĩ ngợi lâu, cầm bút viết ngay:

Son phấn lầu xanh biếng điểm hoa

Tấc lòng tơi tả cánh hoa sa

Khúc cũ càng ngâm thêm áo não

Vườn xưa về lại khổ không nhà

Tóc mây nửa món lười gương lược

Giọt lệ tuôn sa ướt đẫm tà

Tư mã Giang Châu may được gặp

Chén mừng rót nối khúc Tỳ bà.

Viết xong đưa lên cho Tô, Triệu hai vị viên ngoại xem.

Cả đến Tế Điên cũng khen hay: Tiếc thay, con người tài cao như thế, nhân phẩm như thế mà lại sa vào chốn yên hoa! Uổng thiệt! Uổng thiệt!

Ba người còn đương than thở, lại thấy Xuân Hương đưa thêm một bài thơ bảy chữ nữa:

Cốt nhục chia lìa sự nghiệp tan

Chiếc thân xấu số lọt Câu Lan

Vóc ngọc sụt sùi rời quan xá

Gót son đau đớn nhập bình khang

Trước gương luống thẹn khuynh thành sắc

Gặp người hổ bấy nét bên đàng

Gió sớm sương chiều mòn mỏi mắt

Mong sao gặp Nguyễn chớ Lưu lang.

Tế Điên xem bài thơ xong, khen không tiếc lời. Triệu Văn Hội nói:

- À, à, tôi có bài thơ thất tuyệt đây.

Mụ tào kê đem văn phòng tứ bửu đến. Triệu Văn Hội không cần suy nghĩ, cầm viết thảo một mạch:

Lầm lạc Câu Lan chán phận mình

May gặp Xuân Hương tại viện đình

Nhan sắc đâu nhường nàng Tây Tư?

Mình thương tớ với, tớ thương mình.

Tô Bắc Sơn cũng buột miệng làm một bài thơ tuyệt cú:

Áo thắm mộng xanh đẹp lạ thường

Phong lưu thiên hạ chỉ Xuân Hương

Suốt tháng không ăn, nhìn cũng thỏa

Mới nghe chớ trách tớ si cuồng.

Tế Điên nói: Ờ, ta cũng có bài thơ nữa chớ!

Bèn đọc:

Hôm nay ta thấy sướng vui thay

Cười bảo Xuân Hương bước lại ngaỵ

Xuân Hương nghe đọc thất kinh, vội hỏi:

- Thưa sư phụ, sư phụ là người tu hành, bảo tôi đến gần làm gì?

Tế Điên điềm nhiên thong thả đọc tiếp:

Mau cởi thắt lưng bằng lụa đẹp

Đưa tặng lão tăng buộc lại giày.

Mọi người nghe xong, cười rộ.

Tế Điên nói:

- Nhân dịp này, hai vị viên ngoại nên làm một việc công đức đi!

Tô Bắc Sơn hỏi:

- Này Xuân Hương, nàng muốn lập gia thất hay ý nàng muốn thế nào?

Xuân Hương đáp:

- Nếu may được người hảo tâm cứu tôi ra khỏi hầm lửa, thì tôi tình nguyện xuất gia làm tiểu nị Gia đình họ Doãn nhà tôi ba đời cám đội ơn đức đó.

Tô viên ngoại hỏi mụ tào kê:


- Nhà chủ tốn về nàng Xuân Hương hết bao nhiêu?

Mụ tào kê đáp:

- Về phần chuộc về, tôi chi ra hơn 350 lượng. Ấy là không kể việc nàng ở nhà tôi mấy tháng nay, mỗi ngày ăn xài hao tốn.

Tô Bắc Sơn nói: Được rồi.

Triệu Văn Hội nói:

- Này Tô huynh, việc đó để cho tôi, Tôi sẽ bỏ ra 500 lượng chuộc nàng ra đưa đến Thanh Tịnh am ở trên Thành Hoàng Sơn, nhờ Thanh Chơn lão ni cô chiếu cố giùm.

Nói rồi bảo gia nhân lấy bạc ra đến 500 lượng giao cho mụ tào kê, rồi thuê kiệu đưa Xuân Hương đến Ni am.

Xuân Hương nghe nói, cúi đầu lạy tạ và yêu cầu ba vị theo đưa hộ tống.

Tế Điên nói: Ừ, được, để chúng ta đến trước chờ sẵn, gia nhân Triệu Minh sẽ theo kiệu đưa đi sau.

Tế Điên ba người ra khỏi viện Câu Lan, thẳng đến núi Thành Hoàng. Tế Điên buột miệng ngâm:

Người lành ắt gặp thiện duyên

Người dữ ắt gặp oan khiên dẫy đầy

Bần tăng độ kẻ khờ ngây

Chỉ e nhân thế phây phây lơ là.

Bỗng nghe có người kêu:

- Có phải Tế Công lão nhân gia đến đó không? Tôi liên tiếp lên chùa Linh Ẩn ba lần để đón Ngài mà hôm nay mới gặp!

Nói rồi chạy tới quỳ xuống cúi đầu thi lễ.

Tế Điên nhìn lại là một người tuổi ngoài 60, đầu đội khăn bốn góc, mình mặc áo màu vàng đất, lưng thắt dây tơ, chân mang hài trắng, ngũ quan rất đoan chánh.

Nguyên ở núi Thành Hoàng có một vị lão ni tên là Thanh Tịnh, có một cháu gái tên là Lục Tố Trinh lấy chồng tên là Cao Quốc Thái, nhà ở đường Nho Lâm phía cửa Nam huyện Dư Hàng.

Cao Quốc Thái là con nhà rất có gia sản nhưng anh ta chỉ biết đọc sách mà không chịu lo việc kinh doanh.

Qua một thời gian, của cải trong nhà sạch như rửa, chỉ còn lại hai vợ chồng không, trên không miếng ngói che đầu, dưới không tấc đất cắm dùi. Ăn sớm lo chiều, chạy ăn từng bữa. Lục thị nói:

- Vợ chồng ta không lẽ ngồi khoang tay chờ chết ở đây sao? Chi bằng chúng ta dời đến ở thành Lâm An trú tạm. Ở đó, tôi sống nhờ với người cô đang tu ở một am trên núi Thành Hoàng, còn chàng thì tìm ghi tên vào ở nhờ học quán tại đó. Như vậy chúng ta có thể sống qua ngày được, còn chàng cũng có thể trau giồi học nghiệp. Đợi đến kỳ thi sắp mở, chàng lại ra kinh ứng thí để lập công danh, không biết ý chàng như thế nào?

Cao Quốc Thái nói: Đến nước này, hai ta chỉ còn cách đó thôi, chớ không còn cách nào khác.

Hai vợ chồng bèn bán hết những đồ đạc lặt vặt để làm lộ phí rồi lên đường đi Lâm An.

Thấy họ đến, vị lão ni cô vui mừng lắm, bèn cấp riêng cho vợ chồng họ một căn nhà ba gian phòng để ở. Lục thị giúp đỡ việc may vá, còn Cao Quốc Thái chỉ dốc lòng đọc sách mà thôi. Ở trong am, đời sống hai vợ chồng rất bình thản. 

Mấy tháng trôi qua bình tịnh, rồi một sự biến xảy ra: Vị lão ni có một vị đại đồ đệ tên là Huệ Tánh, thấy Cao Quốc Thái là con người ngà ngọc, văn chất nguy nguy, kinh luân đầy bụng, phẩm mạo hơn người thì có ý mến tài. Hai người thường cùng nhau cao đàm hùng biện. Huệ Tánh vốn là con nhà quan, văn chương thông suốt. Quốc Thái nói chuyện cũng đối đáp như lưu.

Một ngày nọ, nhân lúc nhà vắng không có ai, Huệ Tánh lấy viết thảo một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đưa cho Quốc Thái xem. Thơ rằng:

Chắp tay khấn nguyện Đại Sĩ danh

Chẳng nguyện sanh Tây, Tiên Phật thành

Chỉ mong được giọt cành dương rảy

Tác hợp cho con sen liền cành.

Quốc Thái xem xong, đổi sắc mặt, nói:

- Thiếu sư phụ không nên nghĩ như thế. Trên đời này, trai gái vì thú vui chốc lát mà hư danh tiết một đời, để nhơ muôn thưở, làm trò cười cho hậu thế. Huống nữa, đây là chốn thanh sạch của Phật môn, đâu nên làm ô uế.

Huệ Tánh nghe nói thế, mặt tai đỏ ửng, quay mình bỏ đi. Từ đó, hễ gặp Cao Quốc Thái, Huệ Tánh mắc cỡ, bét sang ngõ khác. Cao Quốc Thái thấy có điều bất tiện, mới thưa với lão ni:

- Xin sư phụ tìm giúp cho một căn nhà hai phòng ở dưới núi để vợ chồng dọn ở. Ở trong am có nhiều bất tiện.

Lão ni không còn cách gì hơn, đành tìm một căn nhà khác ở dưới núi. Tìm được một nhà ba gian chỉ có độc một cửa của viên ngoại Châu Bán Thành.

Châu Bán Thành hỏi lão ni: Sư phụ tìm nhà cho ai ở vậy?

Lão ni đáp: Tôi tìm giùm cho người bà con từ huyện Dư Hàng ngụ Ở am tôi. Nó là cháu gái tôi, cùng đi với chồng nó. Chồng nó tên là Cao Quốc Thái, là người theo nghiệp thi thơ, thấy ở trong am có nhiều bất tiện nên nhờ tôi tìm cho một nhà khác.

Châu Viên ngoại nói: Ngày mai, sư phụ đưa Cao Quốc Thái đến tôi xem thử.

Hôm sau, lão ni dẫn Cao Quốc Thái đến. Châu viên ngoại thấy Cao Quốc Thái cử chỉ đoan nghiêm, văn từ tao nhã, bèn có bụng thương muốn giúp đỡ, lại e mới gặp lần đầu, Cao quốc Thái từ chối không nhận, mình bị bẽ mặt đi, mới ngầm dặn gia nhân rằng: "Nếu Cao Quốc Thái có thiếu tiền phòng thì đừng có đòi nhé!" Đó là Châu viên ngoại thương tình dặn hờ thế thôi.

Quả nhiên, hai vợ chồng Cao Quốc Thái dọn đến ở. Cao Quốc Thái làm nghề xem bói qua ngày. Được 100 điếu ăn hết 100, được 200 điếu ăn hết 200, hai vợ chồng sống hẩm hút rất là chật vật. Lật bật mà nửa năm trôi qua, sáu tháng tiền phòng chưa đóng đủ.

Một hôm, người phụ trách thu tiền nhà có việc xin nghỉ phép, mới nhờ anh phổ ky đi thu giúp. Anh phổ ky không được dặn bảo lại việc này, lấy sổ thuê nhà ra tra xét lại, mới thấy Cao Quốc Thái thiếu đến sáu tháng tiền nhà không trả, bèn nghĩ: "Tên Cao Quốc Thái này bộ mình có mọc ba đầu, vai nẩy sáu tay, đầu to chân cứng, dựa vào sản nghiệp nhà ai mà dám không chịu đóng tiền nhà chớ! Ta phải đi đòi hắn mới được. "

Phổ ky đến nhà Quốc Thái kêu cửa. Bên trong, Lục thị hỏi:

- Ai kêu cửa đó?

Phổ ky đáp:

- Ta là người nhà Châu viên ngoại đến lấy tiền thuê nhà.

Lục thị nói:

- Chồng tôi hiện không có ở nhà, để rồi tôi nói lại nhé!

Phổ ky nói:

- Người không có ở nhà cũng được, còn tiền cũng không có ở nhà nữa sao? Sáu tháng nay rồi, hễ hỏi đến là đi vắng phải không? Các người ở nhà của người ta, dựa thế dựa thần nhà ai mà không chịu trả tiền? Đợi bị mắng chửi mang xấu mới chịu trả phải không?

Lục thị nói:

- Để chồng tôi về rồi sẽ đem tiền đến trả mà!

Phổ ky nói:

- Chẳng thể chờ lâu được, bọn ta ở ngoài khóa cổng lại là xong việc.

Phổ ky bèn khóa cổng ngoài lại rồi bỏ đi. Đến chiều, Cao Quốc Thái trở về, thấy cổng bị khóa lại, mới hỏi vợ. Lục thị nói:

Hôm nay chủ nhà đến đòn tiền, gia nhân họ khóa cổng đó!

Quốc Thái nghe nói, nổi giận đùng đùng, la:

- Hay cho Châu Bán Thành, dám cả gan khi dễ ta đến thế! Để ta đến huyện Tiền Đường làm cáo trạng thưa hắn mới được.

Lục thị nói:

- Chúng ta không tiền làm sao ra lễ nghĩa được? Sáu tháng tiền nhà không chịu trả mà lại muốn đi thưa người ta, làm sao hợp lý được?

Hai vợ chồng còn đang thương nghị, vừa hay có lão ni Thanh Tịnh đến chơi. Thấy vợ chồng có vẻ đứng ngồi không yên, lão ni mới hỏi duyên cớ. Lục thị bèn đem việc tiền phòng không đóng, bị khóa cổng lại thuật qua một lượt. Lão ni nói:

- Tiên sinh không phải ra ngoài làm chi, nên dọn về ở phòng cũ vẫn hơn. Ra ngoài kiếm tiền khó lắm. Tiên sinh lại làm nghề bói toán, hôm nay kiếm được chút ít gì đó, vài bữa lại không ngợ Tiên sinh lại là người thật thà, không thể làm như họ được, thôi tốt hơn nên về chỗ cũ là tiện nhất.

Nói rồi bảo Lục thị gom góp đồ đạc, lão ni thay mặt trả nhà lại rồi cùng hai vợ chồng Quốc Thái trở về núi Thành Hoàng. Phần Châu Bán Thành không chịu lấy tiền nửa năm thuê nhà, nói là để cúng thí vào việc hương khói trong am. Nào dè, hai vợ chồng Quốc Thái về ở lại mấy hôm, một sáng nọ, Quốc Thái nói chẳng rằng bỏ đi mất, để lại cho Lục thị mấy tờ giấy. Lục thị xem xong hồn phi phách tán. Tại sao thế?…
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7484)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8390)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7164)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6079)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6975)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5282)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8487)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22855)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]