Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

132. Đưa Thánh Tăng bắt yêu Bạch Thủy Hồ

20/10/201815:20(Xem: 6876)
132. Đưa Thánh Tăng bắt yêu Bạch Thủy Hồ

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 132:
Đưa Thánh Tăng bắt yêu Bạch Thủy Hồ

Giả Tế Công lọt vào Thiệu Hưng Phủ


Tế Điên cáo từ quan huyện Tiêu Sơn, cùng Vương Hùng, Lý Báo theo đường lớn đến thẳng Bạch Thủy Hồ, cứ đói ăn khát uống, đêm nghỉ ngày đi. Một hôm, vừa đến cửa Đông phủ Thiệu Hưng, thì thấy trên đường người ta đổ xô tấp nập, chen chân không lọt. Vương Hùng, Lý Báo mới hỏi những người đi đường:

- Việc gì mà tụ tập đông thế?

- Tế Công trưởng lão bắt yêu ở Bạch Thủy Hồ.

- Cái gì? Chúng tôi chưa tới mà làm sao biết Tế Công đi bắt yêu?

Mọi người đều bàn tán xôn xao, có người nói:

- Tôi vì coi việc bắt yêu mà buôn bán dẹp hết.

Đang nói tới đó thì đầu kia mọi người la lên:

- Đại nhân cùng Tế Công trưởng lão đã tới! Sẽ đến nghỉ tại miếu Mã Vương dùng làm công quán tạm, uống trà ăn cơm xong, giây lát sẽ lên đài bắt yêu. 

Vương Hùng nhìn theo hướng mọi người nói, thấy đi đầu là roi bài côn kích, thanh la lộng quạt, theo sau là hai cỗ ngựa, bên trái là ngựa hồng, bên phải là ngựa bạch. Vị đại Hòa thượng cỡi trên lưng ngựa hồng đang nhảy xuống đất. Vị này mình cao hơn trượng, đầu lớn, tam đình mở rộng, cổ ngắn lại to, mặt đỏ hồng, khoác hoàng bào, trên cổ đeo xâu chuỗi 108 hột, sau lưng giắt giới đao, vớ trắng tăng hài vàng, đúng là dáng vẻ của bậc La Hán. Cưỡi trên ngựa bạch là quan tri phủ Cố Quốc Chương đầu đội mũ đen có giắt lông chim, mình mặc đại hồng mãn bào, lưng thắt ngọc đái. Có người đến cạnh, nói:

- Xem vị Tế Công trưởng lão kìa, thiệt là bậc La Hán có khác!

Có người nói:

- Vị này chắc không phảo Tế Điên Tăng đâu! Tế Điên Tăng là ông thầy điên, tóc trên đầu dài chừng hai tấc, mặt dính đất tèm lem, tăng y rách nát, tay vắn sứt bâu, lưng buộc dây nhung, khật khà khật khưỡng, hai chân trần mang đôi dép cỏ, rách rưới hết cỡ, say rượu bét nhè, mới phải là Tế Điên Tăng.

Nói rồi lấy tay chỉ Tế Điên, nói:

- Giống như vị đại sư phó này, mà có thể ông ta còn hơn nữa!

Tế Điên hỏi:

- Tệ hơn ta! Vậy chú có biết Tế Điên không?

Người kia buột miệng nói càn:

- Có chớ! Tôi quen biết Tế Điên đã lâu. Hồi mùa hè năm ngoái, tôi có ở mấy tháng tại Lâm An.

- Chớ không phải mùa hè năm ngoái chú đương buôn bán ở Dương Châu à? Làm sao chú lại có mặt ở Lâm An được?

Người kia nghe nói, ngạc nhiên hỏi:

- Tôi buôn bán ở Dương Châu làm sao ông biết được?

- Vậy mà ta biết chớ!

Đúng lúc đó, Vương Hùng, Lý Báo tới nói:

- Bạch Thánh Tăng! Ngài xem ở đây lại có một Tế Điên nữa kìa! Nếu Ngài muốn tỏ ra là Tế Điên thiệt, thì bọn tôi trình bức thư này lên; nếu Ngài muốn làm Tế Điên giả thì nên đừng dự vào làm chi!

- Ta cũng không biết mình là thiệt hay giả, còn hai ông thấy sao cũng được.

Đương nói tới đó thì ngựa đã đi ngang trước mặt. Tế Điên hét lên một tiếng:

- Hay cho con chó của Vương Bác Hầu này! Mi sẽ biết tay ta.

Vừa hét vừa nhảy xổ lại nắm hàm thiếc ngựa của Tế Điên giả cỡi níu lại. Vị Tế Điên giả này xuất hiện, cũng có một lý do (Ngoài cửa Đông có một đường sông tên là Một Lạo Hà, nhưng trong "Tế Công Toàn Truyện" lại viết là Bạch, và kêu là Bạch Thủy Hồ. Tác giả của sách này cũng không dám tự ý đưa ra ý kiến riêng để cải chánh, nên vẫn để là Bạch Thủy Hồ). Quan Tri phủ Thiệu Hưng Cố Quốc Chương đáo nhậm tại địa phương này không bao lâu thì nước trong hồ này bổng nhiên bốc mùi thơm, các trẻ con ở quanh hồ đi đến đó nghe mùi thơm của nước hồ bốc lên bèn nhảy xuống hồ cả. Về sau, các thôn trang quanh hồ mới lập hương án, làm một buổi tế lễ ở bên hồ, chỉ thấy từ trong hồ xông lên hai luồng khí âm dương, nghe thấy tiếng nói mà không thấy tiếng người, rằng: "Mỗi ngày phải ăn thịt một đứa bé trai và một đứa bé gái. Nếu không đem nộp thì tất cả trẻ nít của phủ Thiệu Hưng đều bị ăn sạch".

Hơn 600 thôn trang đều cùng họp bàn, nhà ai có trẻ nít đều phải viết tên họ trên giấy rồi vo lại bỏ vào trong đấu. Mỗi ngày bốc thăm, bốc trúng tên con nhà ai thì trẻ con nhà đó phải nộp cho yêu tinh ăn thịt. Việc này bẩm lên quan, quan huyện cho viết bố cáo khắp nơi: Ai có thể bắt được yêu tinh, xin thưởng 100 lượng bạc.

Một hôm, bỗng nhiên trước cửa nha môn của tri phủ có tiếng niệm "A Di Đà Phật". Đó là một vị đại hòa thượng, mặt đỏ, mình cao khoảng một trượng, mặc áo vàng, tự xưng: "Bần đạo là Tế Điên Hòa thượng ở chùa Linh Ẩn, đương ngồi thiền trong chùa, bỗng nhiên tâm cơ máy động, bèn toán biết Bạch Thủy Hồ có yêu tinh hại người nên bần đạo cố ý cỡi mây đến đây để hàng yêu bắt quái cứu giúp dân chúng. Các người hãy vào bẩm với quan Thái thú rằng có bần đạo đến nhé!". Các quan nhơn trở vào bẩm báo. Quan tri phủ lập tức bước ra nghinh tiếp, nói:

- Thánh Tăng giá lâm, mà đệ tử không hay để tiếp rước!

Nói rồi quỳ xuống hành lễ. Vị hòa thượng đó lật đật khoát tay, nói:

- Không cần phải hành lễ. Xin đi trước dẫn đường.

Vào đến thư phòng ngồi xuống, quan Tri phủ hỏi:

- Thánh Tăng từ chùa Linh Ẩn tới đây khởi hành từ lúc nào? Đi bao lâu mới tới?

Tế Điên giả nói:

- Bần tăng sáng sớm hôm nay cỡi mây mà đến, đặc biệt hàng trừ yêu quái.

- Thánh Tăng bắt yêu, vậy dùng những vật chi?

- Đại khái là không cần chi, nên dựng một pháp đài cao ở trên bờ hồ.

Quan Tri phủ một mặt sai người dựng pháp đài, một mặt hỏi hòa thượng ăn chay hay ăn mặn?

- Chay mặn gì cũng được!

Quan Tri phủ sai làm một công quán tạm ở miếu Mã Vương ngoài cửa Đông, rồi mời hòa thượng đến công quán dùng cơm. Dùng cơm xong thì pháp đài cũng dựng xong, lúc ấy quan Tri phủ cùng hòa thượng mới đến Bạch Thủy Hồ. Hòa thượng mới lên pháp đài thắp hương đảo cáo thầm các vị tiên linh quá vãng:

- Đệ tử vốn là người luyện khí ở Phi Long Sơn, nhơn vì ở Bạch Thủy Hồ có yêu tinh hại người, con không phải đến đây để hưng yêu tác quái, mà là bắt trừ yêu tinh để cứu giúp lê dân địa phương. Mong các vị thần linh bảo hộ cho.

Đảo cáo xong, họa ba đạo bùa dán lên giới đao, đốt đạo bùa linh ánh sáng lớn bằng cái bát. Hòa thượng trong miệng đọc:

- Đốt đạo bùa này ném xuống hồ, bắt yêu tinh phải hiện ra.

Hô xong ném đạo bùa xuống hồ, tức thì dưới hồ nước réo sôi ùng ục nghe như có tiếng bò rống, rồi nước rẽ làm hai, từ dưới hồ vọt lên hai luồng khí âm dương xông thẳng đến chỗ hòa thượng chụp xuống. Vị hòa thượng này không chậm trễ há miệng phun ra một luồng khí đen chọi lại với hai luồng khí âm dương nọ. Luồng khí đen này to bằng hột đào, còn luồng khí âm dương kia to chừng bằng chén uống trà. Luồng khí âm dương từ dưới hồ xông lên lần lần đè luồng khí đen thấp xuống.

Nguyên, con yêu tinh dưới Bạch Thủy Hồ có 8 - 9.000 năm tu luyện; còn Tế Điên giả ấy chỉ có công phu khoảng 5.000 năm nên địch không lại. Mọi người đừng xem cũng không biết, chỉ thấy vị Hòa thượng mồ hôi tươm ra có hột rớt từng giọt trên pháp đài. Mặt trời đã ngã về Tây, bỗng nhiên mây tụ Ở hướng Tây bắc, sấm chớp đì đùng, luồng khí âm dương đó liền thâu lại. Vị Hòa thượng trên pháp đài mệt nhọc đến nỗi thân ướt đẫm mồ hôi, nói với quan Tri phủ:

- Thưa lão gia, hôm nay bần tăng không mang theo pháp bửu, để trở về lấy, ngày mai sẽ bắt yêu.

Quan Tri phủ hỏi:

- Thánh tăng trở về chùa Linh Ẩn xa 1.800 dặm mà đi về có kịp không?

- Bần tăng biết cỡi mây mà!

Nói xong câu đó, như một làn khói đen, Hòa thượng biến mất. Mọi người đều khen:

- Đó mới thật là thần tiên.

Quan Tri phủ trở về nha môn. Hôm sau quả nhiên Hòa thượng đó lại tới. Ông ta nguyên không phải là đối thủ của yêu tinh ở Bạch Thủy Hồ, bèn trở về núi, muốn thỉnh một lão đạo có đạo hạnh, nào ngờ vị ấy không chịu đi giúp, ông ta nổi giận, hôm nay đến thí mạng với con yêu tinh Bạch Thủy Hồ. Khi gặp, quan Tri phủ cho rằng ông ta đã lấy bửu bối về, bèn xếp đạt chuẩn bị ăn cơm ở công quán tạm ngoài miếu Mã Vương. Hôm nay chưa đến giờ bắt yêu mà người xem đông nghẹt, chen chân không lọt. Quan Tri phủ cùng Tế Điên giả cỡi ngựa đến miếu Mã Vương. Đang đi, bỗng Tế Điên thiệt, hét lên một tiếng, chạy đến nắm hàm ngựa của Tế Điên giả lại.

Tế Điên thiệt nói:

- Hay cho tên này, mi dám đến đây bắt yêu hử?

Tế Điên giả nhìn lại, thì ra là một ông Hòa thượng kiếc điên điên khùng khùng. Ông ta đâu biết rằng La Hán gia đã bịt kín tam quang: Phật quang, Kim quang, và Linh quang rồi. Tế Điên giả nhìn thấy trước mặt mình là một kẻ phàm phu tục tử, lật đật hỏi:

- Vị pháp huynh đệ Ở đâu? Xin mời!

Tế Điên thiệt nói:

- Ông dám xưng huynh đệ với ta ư?

- Ta kính ông làm đàn anh, ông có chịu không?

- Ta chỉ sợ Ông không chịu thôi! Ông đi đâu đó?

- Ta đi bắt yêu. 

- Thôi ông đi đi.

Nói rồi, Tế Điên thiệt thả hàm ngựa ra, Tế Điên giả cùng quan Tri phủ cỡi ngựa đến miếu Mã Vương. Vương Hùng, Lý Báo nhìn thấy Hòa thượng làm việc đầu voi đuôi chuột, những việc đã qua hình như là thiệt, cũng có lúc không đầu không đuôi. Vương Hùng, Lý Báo mới hỏi:

- Bạch Thánh Tăng! Lá thơ chúng tôi cầm đây có nên đưa hay không?

- Hai ông thấy làm sao được thì làm!

Vương Hùng, Lý Báo nghĩ thầm: "Nếu mình không đưa thơ, lại sợ lão gia nói: Bất cứ là Tế Điên thiệt hay Tế Điên giả, ta bảo đưa thơ sao ngươi không đưa? Nếu mình đưa thơ, lại sợ lão gia nói: Đã thấy có một Tế Điên rồi, sao hai người còn đưa thơ làm chỉ Thật rắc rối quá!". Nghĩ tới nghĩ lui, bèn quyết định đưa thợ Hai người mới cùng Tế Điên đi đến miếu Mã Vương. Vương Hùng, Lý Báo vào bên trong văn phòng, qua một hồi chen lấn rất cực nhọc. Vị coi bản án của phủ Thiệu Hưng họ Trương, gọi là Trương Văn Nguyên, trước đây từng giữ việc coi bản án ở huyện Tiêu Sơn nên có quen biết với Vương Hùng và Lý Báo. Gặp mặt hai người, Trương Văn Nguyên hỏi:

- Hai vị Ban đầu từ đâu đến đây? Có mạnh khỏe không?

Vương Hùng nói:

- Chúng tôi vâng lệnh quan huyện đến đưa cho quan Thái thú một phong thơ tiến cử một vị Tế Công trưởng lão bắt yêu ở Bạch Thủy Hồ.

Trương Văn Nguyên ngạc nhiên nói:

- Chúng tôi có một vị Tế Công trưởng lão rồi, làm sao lại có một vị Tế Công nữa? Vị ấy ở đâu?

- Ở ngoài cửa kia kìa!

Trương Văn Nguyên cùng ra cửa xem, thấy Hòa thượng một bệt dưới đất, dựa vách ngủ khò. Vương Hùng lấy tay chỉ Hòa thượng nói:

- Đây, Hòa thượng này đây!

Trương Văn Nguyên nhìn lại, tằng hắng một tiếng, nói:

- Theo tôi thấy thì hai vị không cần phải đưa thơ nữa! Vị Tế Công của chúng tôi ở đây mới thiệt là dáng vẻ La Hán; còn ông Hòa thượng này không khác ăn xin chút nào!

- Chúng tôi vâng lệnh lão gia đưa thơ, chẳng lẽ không đưa? Anh làm ơn bẩm lại giùm.

Trương Văn Nguyên không cách nào hơn, bèn vào trong bẩm lại. Quan tri phủ Cố Quốc Chương đang nói chuyện với Tế Điên giả, Trương Văn Nguyên đưa thơ vào. Quan Tri phủ xem thơ xong mỉm cười, nói:

- Bạch Thánh Tăng! Ngài xem trên thế gian này thiệt có bọn vô tri hết chỗ nói, dám mạo xưng tên họ của lão nhân gia chớ!

Tế Điên giả nghe nói, hỏi:

- Việc đó như thế nào?

- Hiện có bạn tôi là Tri huyện Tiêu Sơn lại tiến cử một vị Tế Điên Hòa thượng nữa. Thiệt đáng tức cười quá!

Tế Điên giả nghe nói, trong bụng nghĩ thầm: "Có thể là Tế Điên thiệt đã đến rồi!". Quan Tri phủ nói:

- Hãy mời vào xem thử!

Lập tức Trương Văn Nguyên bước ra tìm, thì không thấy Hòa thượng ở đấy nữa. Đang đi kiếm các nơi, bỗng nghe tiếng người nấu bếp ở nhà trù la:

Cái ông Hòa thượng kiếc này, tới đây ăn trộm đồ ăn hả? Cái này để dành cho Tế Công trưởng lão đó!

Trương Văn Nguyên nghe nói, chạy vào nhà bếp xem, thấy ông Hòa thượng kiếc đang uống trộm rượu, tay bốc thức ăn nhai nhồm nhoài. Trương Văn Nguyên nói:

Này Hòa thượng! Thái thú chúng tôi mời ông đó!

Tế Điên nghe nói, đáp lại một tiếng rồi bước lên nhà trên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7484)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8389)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7164)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6079)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6974)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5282)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8487)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22855)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]