Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

28. Tô Bắc Sơn phái người tìm hàn sĩ

15/10/201821:20(Xem: 6730)
28. Tô Bắc Sơn phái người tìm hàn sĩ

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 28:

Tế Điên đưa Tô Lộc và Phùng Thuận đến cửa Nam huyện Dư Hàng. Thấy bên đường có một tiệm cơm, Tế Điên nói:

- Này Tô Lộc, Phùng Thuận, chúng ta vào đây uống vài ly rượu, nghỉ ngơi giây lát rồi hãy đi nơi tiếp.

Hai người gật đầu, cùng bước vào quán cơm, kêu mấy món ăn. Tô Lộc nói:

- Thưa Thánh tăng, chúng ta đã đến huyện Dư Hàng rồi mà Cao tiên sinh chưa biết ở đâu. Khi tìm được Cao tiên sinh rồi, chúng ta cùng uống một bữa no say nhé!

Tế Điên nói:

- Bây giờ chúng ta cứ uống rượu trước đi đã, lát nữa sẽ đi tìm kiếp ông ấy. Đường còn xa lắm mà!

Ba người nói chuyện một lát thì ăn uống đã xong, trả tiềm cơm rồi ra khỏi quán, tiến vào cửa Nam. Đến một ngã tư, quẹo về hướng Đông thì phía Bắc con đường chính là nha môn huyện lỵ. Tế Điên bươn bả đi thẳng vào trong huyện nhạ Tô Lộc hỏi:

- Sư phụ đi đâu vậy?

Tế Điên đáp:

- Hai người ở ngoài này chờ ta, ta vào đây kiếm một người.

Tế Điên mới bước vào cửa lớn, nghe bên trong có tiếng nạt:

- Nãy giờ sưu tra hỏi cung, mà can sự chẳng chịu cung khai. Vậy tả hữu hãy bày đồ côn kẹp ra, tra khảo Cao Quốc Thái một hồi rồi sẽ hỏi lại.

Tế Điên nghe nói cũng bắt rùng mình.

Tại sao Cao Quốc Thái lại lọt vào đây, bị quan nha thẩm vấn như vậy? Trong đó có một ẩn tình.

Nhân vì hôm nọ Cao Quốc Thái xuống khỏi núi Thành Hoàng, nghĩ tới tính lui mãi, muốn bỏ đi qua xứ khác, ngặt nỗi không bà con, lại không nơi nương tựa. Rồi tính trở lại, chi bằng về lại huyện Dư Hàng vẫn hơn. Tự mình đáp thuyền nhỏ cũng là chỗ đồng hương quen biết, tiền đò mất 100 tiền. Ăn uống qua loa về tới huyện Dư Hàng thì 200 tiền cũng vừa đủ. Trong lòng lại nghĩ, bây giờ mình trở về nơi cố thổ, cũng không có chỗ sanh phương. Thứ nhất là không một người thân thích, thứ hai là không một bạn quen. Muốn kiếm chỗ mượn đỡ ít điếu tiền cũng không có!

Ở bên xứ người thì muốn trở về nhà. Đến khi về đến nhà, phải sống làm sao đây? Có mấy nhà chí thân, cũng có thể cùng ta chia buồn giải muộn. Có mấy người bạn tri kỷ, cũng có thể để cho ta bày tỏ cả tâm can. Thật đúng như lời người xưa đã nói:

Nghèo ở chợ đông có móc đồng

Móc hoài chẳng dính bà con thân

Giàu ở rừng sâu tay xách gậy

Xua hoài không hết bạn vô nhân.

Cao Quốc Thái là một người có chí khí, không muốn cầu cạnh bạn bè, nghĩ tới nghĩ lui, càng nghĩ càng thêm bối rối, chỉ còn nước chết cho xong! Định đi đến con sông chạy quanh thành nhảy xuống chết cho rảnh. Đứng bên bờ sông nhìn ghe thuyền qua lại rộn rịp, tự nghĩ rằng: "Chết đây, chết đây! Ta chết rồi vạn sự kể như xong. Sống có lúc, chết có nơi, đây là chỗ tuyệt mạng của ta đây!". Nghĩ xong lấy đà định nhảy xuống nước, bỗng sau lưng có tiếng nói:

- Bạn ơi, đừng, đừng! Đừng nhảy xuống sông vội, có tôi đến đây!

Cao Quốc Thái ngoái đầu xem, thấy người ấy mình cao bảy thước, lưng eo vai rộng, đầu đội khăn xanh, y phục màu xanh. Da mặt hơi tía, trong tía ửng hồng, trong hồng lộ tía, mày cong mắt rộng, sóng mũi thẳng ngay, khuôn mặt cân đối, tuổi ngoài đôi mươi.

Người ấy nói:

- Tiên sinh là người đọc sách rõ biết lý lẽ ở đời, cớ sao lại tìm một việc nhầm lẫn đáng tiếc như vậy?

Cao Quốc Thái nói:

- Xin huynh đài đừng hỏi đến làm gì. Trên thế gian này tôi không có đất dung thân, thà chết quách cho xong!

Người kia nói:

- Thưa tiên sinh, tiên sinh có điều gì khó giải quyết, xin nói cho tôi cùng nghe với!

Cao Quốc Thái thấy người ấy thành thật, mới nói:

- Huynh đài tôn tánh chi?

- Tôi họ Vương, tên Thành Bích, cũng là người ở tại địa phương này. Tôi có một cái chành ở bên sông này. Ai có hàng hóa đều đến chành tôi gởi hết. Tiên sinh tại sao lại tìm một việc nhầm lẫn như thế?

Cao Quốc Thái nói:

- Tôi cũng là người ở địa phương này. Nhà tôi ở trong cửa Nam, tôi họ Cao, tên là Quốc Thái. Nhơn vì gia thế suy vi, tôi đưa gia quyến đến Lâm An ký ngụ Ở một Ni am. Tôi nghĩ mình làm trai đứng ở trong trời đất, trên không thể giúp vua an dân, dưới không thể bảo dưỡng vợ con, như vậy sống trên đời này uổng quá. Thôi thà chết phức cho xong!

Vương Thành Bích nói:

- Huynh đài ơi, anh là người thông minh, lại bị chính cái thông minh đó gạt gẫm! Cần chi phải coi thường mạng sống như thế? Thôi, chúng mình tìm một quán cơm ăn no bụng đã, rồi tôi sẽ bày cho anh một phương thế làm ăn. Đừng có nghĩ quẩn làm chi, người ta chết rồi không sống lại được đâu!

Cao Quốc Thái cùng Vương Thành Bích tìm vào một quán cơm kêu mấy món. Ăn uống no say xong, Vương Thành Bích nói:

- Bữa nay trong tay tôi không có một trinh nào hết, cũng không có một tấm ngân phiếu nữa, phải đợi đến ngày mai mới có. Bữa nay anh chịu khó kéo thuyền trước đi nhé!

Cao Quốc Thái nói:

- Tôi là thư sinh, sức trói gà không chặt, làm sao có thể nắm thuyền nổi?

Vương Thành Bích nói:

- Anh ơi, đừng nói như vậy, đến chỗ nào phải theo chỗ đó mới được. Anh không nhớ người xưa có câu thơ như thế này hay sao:

Thân người quân tử có thể lớn có thể nhỏ,


Chí của kẻ trượng phu có lúc duỗi có lúc ngay!

- Hôm nay anh chịu khó đi kéo ghe đi, đợi vài hôm tôi có tiền sẽ đưa anh mua bạc lượng đi rước gia quyến về trước. Anh thấy như vậy có được không?

Cao Quốc Thái nghĩ rằng: "Anh ta với mình là duyên bèo nước mà còn khuyên ta như thế thì ta còn cố chấp lài gì". Nghĩ rồi bèn nói:

- Huynh đài đã quá yêu tiểu đệ như thế, tiểu đệ xin đi kéo thuyền vậy.

Vương Thành Bích nói: Ừ, phải đấy!

Nói rồi đứng dậy dẫn Cao Quốc Thái ra bờ sông. Nơi đây có một thuyền chất đầy hàng hóa sắp nhổ neo.

Vương Thành Bích nói:

- Quản thuyền ơi, tôi có một anh bạn, để anh ấy kéo thuyền chúng mình với. Nhờ quản thuyền để ý chỉ bảo giùm. Đến chỗ cất hàng lên vẫn để ý anh ấy kéo thuyền về được quãng nào hay quãng nấy nhé!

Quản thuyền nói:

- Được mà, có Vương đại ca gởi gấm, chúng tôi đâu dám xử tệ.

Cao Quốc Thái bèn ở lại chờ. Giây lát thuyền nhổ neo, mọi người đều cầm một khúc cây để kéo. Cao Quốc Thái không biết làm gì, có người đưa anh ta một khúc cây như vậy. Đương lúc thuyền đi, mọi người đương kéo vừa hò lấy trớn. Cao Quốc Thái lại nhớ trong sách về chương mười ba có đoạn: "Người quân tử ở hoàn cảnh nào, sống hợp hoàn cảnh đó, không muốn vượt quá phạm vị Ở cảnh giàu sang, sống đúng theo giàu sang; ở cảnh nghèo khó, sống theo nghèo khó; ở chỗ mọi rợ, sống theo mọi rợ; ở cảnh hoạn nạn; sống theo hoạn nạn. Người quân tử không bị mắc mứu vào mà cũng không lấy làm tự đắc mình hơn người".

Cao Quốc Thái chỉ nhớ đến sách, mặt ngẩn ngơ, mấy người kéo ghe thấy vậy cười rộ. Một ngày nọ, ghe đến Ân Gia Độ cất hàng hóa lên. Cao Quốc Thái mệt lử chịu không nổi bèn xuống ghe ngủ vùi. Ngày hôm sau, ghe chở hàng hóa khác trở về. Cao Quốc Thái lại tiếp tục kéo ghe như cũ. Đến huyện Dư Hàng, ghe vừa ghé bến thì Vương Thành Bích đứng chờ sẵn ở đó.

Vương Thành Bích nói:

- Chắc mấy hôm nay anh mệt lắm hả? Tôi đến đón anh đây. Anh em mình chắc là có túc duyên, ngày hôm nay tôi lại được một bút khoảng 35 điếu nữa. Bây giờ chúng mình hãy cùng nhau ăn uống tí chi đã, lát nữa hãy vào thành mua bạc rồi ngày mai anh đi rước gia quyến về. Bữa nay ta đong rượu, mua thịt về vui nhậu suốt đêm nay mới vừa.

Cao Quốc Thái nói:

- Tốt quá! Tốt quá! Tôi cùng Vương huynh sơ ngộ mà huynh trưởng đãi hậu như thế, tôi thật cảm kích vô cùng!

Vương Thành Bích nói:

Anh em mình là bạn tri kỷ, mới gặp như người quen, anh khách sáo làm gì!

Cao Quốc Thái nghĩ: "Anh bạn này thành thật quá!". Bèn cùng với Vương Thành Bích đi ăn điểm tâm. Trời cũng đã tối. Vương Thành Bích lấy tiền trao cho Cao Quốc Thái vào thành mua bạc, cầm theo một chiếc bình để đong rượu, mua thịt đem về nhậu. Cao Quốc Thái vào thành mua 50 lượng bạc, đong rượu, mua thịt xong trở về. Nhằm lúc cửa thành sắp đóng, Cao Quốc Thái vừa sắp ra cửa thành thì từ trước mặt có một người chạy lại như bay, hình như có việc gì gấp lắm và đụng phải Cao Quốc Thái một cái xửng vửng. Người ấy vội nói:

- Xin tiên sinh thứ lỗi, tôi vội quá vì có một việc gấp lắm, mới vô ý đắc tội với tiên sinh như thế.

Nói xong, người ấy chắp tay xá dài, rồi lật đật đi ra cửa thành.

Cao Quốc Thái vốn là người văn nhã, tuy bị đụng xửng vửng, nhưng lại nghĩ: "Người ta đụng mình đâu phải cố ý thì chấp làm chi!". Nghĩ rồi tiếp tục đi ra khỏi thành. Bỗng nhiên sực nhớ lại: Hình như gói bạc của mình bị đụng xóc thì phải? Lấy tay rờ thử thì than ôi, gói bạc không cánh làm bay! Té ra người đụng Cao Quốc Thái chính là kẻ trộm giữa ban ngày. Ban nãy thấy Cao Quốc Thái mua bạc bèn giả bộ đụng Cao Quốc Thái rồi chớp lấy gói bạc đi thẳng. Càng nhớ tới, Cao Quốc Thái càng thấy bối rối thêm: Lát nữa đây gặp Vương Thành Bích, mình sẽ ăn nói ra sao? Chi bằng chết quách cho xong. Ngày hôm kia, ta muốn chết mà không chết được, phải chăng còn lại hai ngày đền tội chưa xong? Thật là "Diêm vương ấn định canh ba chết, nào để người đời sống rốn đến canh năm!". Nghĩ như thế rồi bèn đến bên bờ sông quanh thành, định nhảy xuống chết phứt cho rảnh.

Tự mình than thở: "Cao Quốc Thái ơi, Cao Quốc Thái! Mạng vận mi toan mãi vẫn không thông. Chẳng dè hôm nay ta lại chết tại chỗ này". Đương lúc thở than như thế, lại nghe kế bên có tiếng người hỏi:

- Người đó có phải là ân huynh Cao Quốc Thái đó chăng?

Tiếng nói đó quá gần làm Cao Quốc Thái ngừng bỏ ý định. Người ấy lại nói tiếp:

- Em tưởng anh chết rồi! Tìm kiếm anh khắp nơi mà chẳng biết anh xiêu lạc phương nào, chẵng dè hôm nay anh ở đây!

Người ấy nói rồi chạy đến cúi chào. Cao Quốc Thái nhìn lại mà chẳng nhớ là ai, xem hình như quen mặt nhưng bất chợt chẳng nhận ra, mới hỏi:

- Lão huynh có nhìn lộn người chăng?

Người ấy đáp:

- Huynh trưởng ơi, cả tiểu đệ là Lý Tứ Minh anh cũng không nhớ ra nữa sao?

Cao Quốc Thái nghe qua chợt nhớ, nói:

- À, à, té ra là Lý đệ.

Nguyên Lý Tứ Minh thuở nhỏ nhà nghèo, mẹ góa, ở ngụ cư nơi nhà Cao Quốc Thái. Việc chi dụng hàng ngày đều do Cao Quốc Thái bảo bọc hết. Đến tuổi học tập, Lý Tứ Minh cũng học luôn ở nhà Cao Quốc Thái. Mẹ Tứ Minh chết, Quốc Thái xuất tiền chôn cất chu đáo. Cao Quốc Thái hỏi Tứ Minh ý muốn học tiếp để làm quan hay thích ra buôn bán. Lý Tứ Minh nói:

Tôi muốn tìm một cửa hiệu để học tập nghề buôn bán tốt hơn, nhà tôi nghèo, đâu đủ tiền của mà theo nghiệp công danh.

Cao Quốc Thái nói:

- Cũng được, để ta tìm một chỗ cho em học buôn bán nhé!

Bèn gởi Tứ Minh vào tiệm gạo Thiên Thành trong thành mà học buôn bán. Tất cả những áo quần, mùng mền đem theo để đi học đều do Quốc Thái chu cấp. Lý Tứ Minh cũng quyết ý học tập, mọi việc đều không nhầm lỡ, chuyên tâm học tập ba năm đã mãn. Chủ nhà đến tiệm kết toán sổ sách, thấy Lý Tứ Minh mọi việc đền cần kiệm, lòng rất vừa ý, bèn tìm một nhà khách mở riêng một tiệm gạo ở Thanh Giang giao cho Lý Tứ Minh coi sóc. Công việc làm ăn rất phát đạt. Chủ nhà không có con trai, chỉ có một cô con gái, bèn đem gả cho Lý Tứ Minh bầu bạn, phụng dưỡng ông bà lúc tuổi già, lại đem một phần gia nghiệp chia cho con rể. Về sau, hai ông bà già qua đời, Lý Tứ Minh coi sóc luôn cả sự nghiệp công danh đó.

Hồi tưởng lại: "Ngày trước nếu không nhờ ân huynh bảo bọc, mình đâu có được sung túc như ngày nay". Bèn đưa cả gia quyến, thâu thập đồ tế nhuyễn, cùng nhau về chốn cũ, tìm ân huynh Cao Quốc Thái.

Đến huyện Dư Hàng tìm hỏi, không ai biết Cao Quốc Thái phiêu bạt phương nào! Họ đều nói vì nghèo quá, Cao Quốc Thái dọn đi nơi nào không biết. Lý Tứ Minh than thở không cùng! Bèn mua một ngôi nhà ở ngoài cửa Tây thành, lại mở một tiệm bán lương khô ở ngoài cửa Nam. Hôm nay đang lúc đi trở về nhà, Tứ Minh bỗng gặp Cao Quốc Thái. Hai người gặp nhau, buồn vui lẫn lộn, cùng nhau bày tỏ việc vừa qua.

Cao Quốc Thái nói:

- Lão đệ này, nếu hôm nay anh không bị mất tiền, chắc gì chúng mình gặp được nhau!

Lý Tứ Minh nói:

- Bây giờ anh tới nhà em trước đã, chúng ta sẽ hàn huyên tâm sự.

Hai ngưòi đứng dậy cùng đi, tới trước không xa bỗng Cao quốc Thái đạp phải một vật, cúi xuống đưa tay rờ xem thì là một bó đồ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7484)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8389)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7164)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6079)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6974)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5282)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8487)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22855)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]