Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

150. Mua thuốc độc ngầm hại người em họ

20/10/201815:45(Xem: 6722)
150. Mua thuốc độc ngầm hại người em họ

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 150:

Mua thuốc độc ngầm hại người em họ

Điềm ác mộng khó độ kẻ hôn mê



Trương Sĩ Phương lén mang thạch tín, hồng phàn đến nhà Vương An Sĩ, khi gặp Vương viên ngoại, hắn nói:

- Thưa dượng, dượng có khỏe không? Con nghe hai em đã trở về nên đặc biệt tới thăm đây.

Vương An Sĩ không biết Trương Sĩ Phương cấu kết với hai lão đạo sĩ hại mình, lại cho hắn là người tốt. Tại sao như thế? Nhân vì Vương thái thái rất thương cháu ruột, khi Vương An Sĩ mạnh rồi, Vương thái thái kể nhiều điều tốt cho hắn, nói rằng khi ông bệnh, Trương Sĩ Phương thiệt là quá tốt, thấy em nó không có ở nhà mà ông bị bệnh, nó lo việc giăng màn tính hậu sự trước; lại đi đặt nhà đám nhà đồ, chạy tới chạy lui lăng xăng mấy bữa. Thấy ông mạnh lại mới đi về đó. Vương An Sĩ nghe vợ nói tin là thiệt, nói:

- Thằng bé này tại nó không lo làm ăn thôi chớ kỳ thật không đến nỗi không tốt.

Hôm nay Trương Sĩ Phương đến thăm, Vương An Sĩ rất vui, nói:

- Trương Sĩ Phương, con thấy hai em con đã về rồi đó. Từ nay nếu con cải tà quy chánh, ta lo nhân duyên của Lý Tu Duyên xong sẽ cưới vợ cho con. 

Trương Sĩ Phương gặp Lý Tu Duyên hỏi:

- Này chú em, mấy năm nay chú đi đâu? Ta thiệt nhớ chú quá!

Tên tiểu tử này ngoài miệng nói ngọt xớt mà trong lòng lại toan tính: "Lát nữa thừa dịp họ bất phòng, mình bỏ thuốc vô bình trà, còn không nữa, mình bỏ vô rượu hay trong chén cơm để hai thằng ấy chết đi mình mới phát tài được". Trong lòng toan tính hại người mà bên ngoài hắn nói những lời nhân từ đạo đức!

Lý Tu Duyên nói:

- Trương đại ca, anh lại đây, một lát chúng ta cùng ăn cơm chung bàn nhé!

Vương An Sĩ nói:

- Được, ba anh em con ăn chung bàn đi, ta thấy vui đó.

Nói rồi kêu gia nhân dọn cơm rượu lên, Trương sĩ Phương ngồi giữa, Vương Toàn và Lý Tu Duyên ngồi hai bên. Vừa định uống rượu thì Lý Tu Duyên nói:

- Trương đại ca, anh coi tôi bây giờ cần có người ăn chung lắm, tôi rất sợ nên phải đề phòng. Bây giờ người tốt thì ít mà người xấu thì nhiều. Tôi rất sợ người ngoài miệng nói tốt mà trong lòng toan tính hại tôi. Mua 100 tiền thạch tiền thạch tín, 100 tiền hồng phàn, rình khi bất phòng bỏ vào chén cơm, còn không được thì bỏ vào ly rượu.

Trương Sĩ Phương nói:

- Chú em, chú nói khùng à? Ai dám hại chú đâu.

- Năm kia có người đồng bạn của chúng tôi cũng là hòa thượng kiếc, ông ta cùng ăn cơm chung với tôi lại bỏ thuốc độc, suýt chút nữa là tôi bị hại rồi. Từ dạo đó ăn cơm chung với ai, tôi hay để ý lắm; thật ra chúng ta là anh em với nhau, lẽ nào lại hại tôi sao? Trương đại ca, anh đừng giận! Trên mình anh có mang theo thạch tín không?

- Không có đâu!

- Có mang theo hồng phàn không?

- Cũng đâu có!

- Tôi cũng biết anh không thể làm như vậy, mà để ý vẫn tốt hơn!

Câu nói đó làm cho Trương Sĩ Phương tâm thần rúng động. Hắn sẵn có tịch thành ra càng nhột nhạt. Làm sao trên đời này lại có một trường hợp giống như vậy được. Hắn sợ quá, cũng không dán lòi ra. Một ngày hai bữa cơm hắn không dám bỏ thuốc. Trời đã tối, viên ngoại nói:

- Trương Sĩ Phương, nếu con không về thì ở đây ba anh em con ngủ ở thư phòng, ta ra phía sau nghỉ.

- Vậy cũng được, Trương Sĩ Phương nói.

Lão viên ngoại đi vào trong. Ba người ngủ lại thư phòng. Vương Toàn và Lý Tu Duyên ngủ một giường, Trương Sĩ Phương ngủ riêng một giường. Vương Toàn nằm xuống là ngủ ngay, Lý Tu Duyên cũng ngáy pho pho, chỉ có Trương Sĩ Phương nằm lăn qua lăn lại không ngủ được. Trong bụng hắn trù tính: "Ta phải tìm cách hại hai thằng này mới phát tài được. " Nghĩ tới nghĩ lui đã chìm sâu vào giấc ngủ. Vừa mới thiếp ngủ thì thấy từ ngoài đi vào một ngườI chừng hơn 50 tuổi, mặt trắng râu đen, đầu đội mũ bằng vải xanh, mặc áo kép cùng màu lưng thắt dây to bản, mang giày đỏ két, đế mỏng, tay cầm truy hồn thủ mạng bài, đi theo sau là một con quỷ nhỏ, mặt như bùn xanh, hai chân mày đỏ, đầu tóc đỏ nốt, mình trần quấn quanh chiếc quần màu da cọp, tay cầm lang nha bổng, răng chơm chởm. Trương Sĩ Phương nhìn thấy sợ run lập cập! Vị công sai ấy nói:

- Trương Sĩ Phương, việc của ngươi làm ngươi có viết không? Hiện tại có người tố cáo ngươi, ngươi phải đi với ta.

Nói xong khua dây sắt rổn rảng, trói chặt Trương Sĩ Phương và lôi đi. Trương Sĩ Phương thấy mình đi trên đường cát vàng im ỉm không giống như đường đã đi. Đương đi thấy trước mặt có môt toà lầu, trên đề chữ "Âm Dương Giới". Trương Sĩ Phương lo lắng: "Không xong rồi! Chắc tới Âm tào Địa phủ đây!".

Qua khỏi tòa lầu không xa, thấy trước mặt có một toà thành trì rất là hiểm ác! Chỉ thấy âm phong thăm thẳm, mây đen mịt mù. Trong âm phong phưởng phất có tiếng khóc than, trong mây đen lảng vảng bóng hình li mị. Mang gông xiềng xích, chưa biết ngày nào thoát khỏi âm sơn! Cưa xẻ giã nhồi, không hay bao giờ xa rời địa ngục! Mục Liên mẫu tựa lan can dõi mắt trông con, vợ Giả Sung ngồi bên Nại Hà chờ chồng, Mã diện Ngưu đầu kéo lôi Tào Man vừa qua, Tang môn điếu khách trói dắt Vương Mãn lại đến.

Thật là:

Nhân gian chẳng thấy bọn gian dâm,

Địa phủ chất đầy người thọ tội.

Trương Sĩ Phương đang kinh hãi quá sức thì thấy một con quỷ lớn mình cao một trượng, tam đình nở rộng, mặt như gạch nám, lông mày đỏ tươi, con mắt đỏ lòm, tóc để xõa, mình đầy lông lá, tay cầm thiên xoa ba ngấn, bộ tướng rất hung ác, lớn tiếng hỏi:

- Mày là du hồn ở phương nào đến địa phương Phong Đô của tao, Hãy nói mau để khỏi bị bắt giữ.

Viên công sai ấy đáp:

- Xin chào quỷ vương huynh! Tôi vâng lịnh Diêm La Thiên tử bắt hồn quỷ Trương Sĩ Phương đến đây.

- Đã như thế thì thả cho mày đi qua.

Viên công sai lại kéo hắn đi tiếp, thấy trước mặt một tòa cửa lớn, hai bên vô số ác quỷ dữ tợn, trước cửa có một đôi liễn đối:

Bên này:

Dương thế gian hùng, thương thiên bại lý bởi do ngươi.

Bên kia:

Âm tào địa phủ, xưa qua nay lại có chừa ai?

Bảng ngang đề: Ngươi đến rồi ư?

Trương Sĩ Phương nhìn thấy mật rớt tim run! Tiến vào cửa lớn, bên trong phưởng phất giống như một tòa Kim An điện. Trên cột điện có một đôi liễn:

Chớ làm càng, ảo mộng sanh hoa, sờ sờ trước mắt thật cùng không, luống nhọc tâm cơ!

Đừng lớn mật, sắt nóng đồng sôi, mờ mịt tâm thần sợ hay không, nghĩ suy cặn kẽ!

Trên biển ngang đề: Thiện ác phân minh.

Trương Sĩ Phương ngước đần nhìn lên thấy Diên La Thiên tử ngồi chễm chệ ngay chính giữa, đầu đội mũ ngũ long tranh châu, đầu rồng day ra trước, mình mặc cổn lông bào màu vàng, ngọc đái thắt ngang lưng, chân dận quan hài. Diêm Vương mặt như dao sắt, ba chòm râu đen lòa xòa trước ngực. Thiệt là thiết diện vô tư, phán quan: Một vị cầm sổ thiện ác, một vị cầm sổ sinh tử. Hai vị phán quan đều đội mũ đen giắt lông trĩ, mình mặc đại hồng bào, cổ tròn tay rộng, lưng cột bảo đái bằng tê giác, chân mang giày đen đầu vuông. Hai bên đều có Ngưu đầu Mã diện, rất nhiều ác quỷ dữ tợn đứng dàn hầu. Vị công sai ấy hô:

- Diêm La Thiên tử ở trên, quỷ tốt vâng sắc chỉ bắt hồn quỷ Trương Sĩ Phương về đây. 

Trương Sĩ Phương lúc đó không tự chủ được, tự động quỳ xuống. Diêm La Thiên tử ở trên nhìn xuống, nói:

Trương Sĩ Phương, ngươi đời trước có tích tụ phước đức nên đời này thác sanh làm con nhà giàu sang, hưởng phước an nhàn tự tại, không ngờ ngươi lại tự tung tự tác làm chuyện thương thiên nghịch lý, ra ngoài tìm hoa hỏi liễu, phá hoại phụ nữ nhà lành, làm tổn hao âm đức; ngươi lại mưu hại dượng ngươi là Vương An Sĩ, bây giờ định mưu hại em họ là Vương Toàn và Lý Tu Duyên nữa. Thật là tội ác đầy trời! quỷ tốt đâu! Hãy dẫn Trương Sĩ Phương đến các vua Tần Quảng Vương, Sở Giang Vương, Tống Đế Vương, Ngũ Quan Vương, Biện Thành Vương, Thái Sơn Vương, Đô Thị Vương, Bình Đẳng Vương, Chuyển Luân Vương, qua Tả ba tào, Hữu bốn tào, 74 ty, rồi sau đó dẫn nó đi thăm các cửa ngục cho biết mà chừa.

Quỷ tốt dạ rân, lập tức lôi Trương Sĩ Phương qua 10 điện Diêm La, rồi mới đến một sở, nơi đó hai con ác quỷ dữ tợn đang trói một người và cầm dao cắt lưỡi người ấy. Trương Sĩ Phương nhìn thấy, hỏi:

- Quỷ vương ơi, đây là tội gì thế?

- Người này hồi còn ở dương thế hay nói mách lẻo, khêu gợi chuyện thị phi, nói bạ. Sau khi chết phải vào địa ngục cắt lưỡi này.

Trương Sĩ Phương thấy ghê quá. Lại đi tới chỗ quỷ sứ đang mổ ngực móc tim tội nhân ra. Trương Sĩ Phương hỏi và quỷ tốt đáp:

- Người này hồi còn ở dương thế lòng quá ích kỷ, gian dâm, trộm cắp. Sau khi chết phải vào địa ngục moi tim.

Lại đi tới nữa, thấy một tòa núi dao, có mấy con quỷ lớn nâng bổng người tội ném trên núi dao ấy. Họ đều bị mũi dao đâm suốt cả người, máu tuôn xối xả. Trương Sĩ Phương hỏi:

- Mấy người này tại sao bị như thế?

- Đó là những đứa con bất hiếu, chửi mắng cha mẹ, oán trời trách đất, rủa gió hờn mưa. Sau khi chết phải vào địa ngục núi dao này.

Lại đi nữa, thấy một cây cột sắt cháy đỏ hừng hực, bắt một tội nhân đến ôm bị một con quỷ to đánh đập khổ sở. Trương Sĩ Phương hỏi và ngục tốt đáp:

- Người này hồi còn sống ở dương thế gian dâm vợ người làm mất danh tiết của họ. Sau khi chết xuống phải ôm cây cột lửa này.

Lại đi nữa, đến một tòa Hồ băng, người tội thân thể lõa lồ, nằm trên hồ băng giá buốt ấy. Trương Sĩ Phương hỏi và ngục tốt cho biết:

- Người này hồi còn sống ở dương thế cổ xướng những dâm thư, chuyên hát những dâm từ, dẫn dụ phụ nữ nhà lành hư thân mất tiết. Sau khi chết phải vào trong địa ngục băng lạnh này.

Lại đi nữa đến một ao huyết, rất nhiều người đàn bà đang uống máu dơ trong đó. Trương Sĩ Phương hỏi và được cho biết:

- Những người đàn bà sống ở dương thế không biết kính trọng cha mẹ, không tiếc ngũ cốc, không tin thần Phật, không kính trọng chồng. Sau khi chết phải vào đây uống máu dợ Đây là ao máu dơ.

Lại đi tới nữa không xa, thấy có một cái cân lớn đang móc ngang lưng một người. Hỏi ra mới biết người này khi sanh tiền chuyên dùng cân già cân non, hại người lợi mình, nên phải chịu quả báo này. Lại đi nữa gặp chỗ xay nghiền, chảo nấu dầu, chỗ ngàn dao muôn kiếm, chỗ lột da rút gân đủ thứ đủ loại. Đó là những chỗ dành cho người tội lúc sinh tiền giết người phóng hỏa, trộm cắp, tà dâm… Trương Sĩ Phương đi một hồi lâu đến chỗ cầu vàng và cầu bạc. Một ông già mặt mũi hiền từ, có Kim Đồng, Ngân Đồng cầm quạt đứng hầu. Mội người trong tay đều có cầm bàn toán, trong bàn toán có chỗ cắm quạt. Trương Sĩ Phương hỏi:

- Người này sao được thanh nhàn như thế?

- Người ấy trên dương thế hay bình sách, giảng cổ luận kim nói đạo đức, dạy nhân ái. Khắp độ kẻ mê muội, khuyên người làm lành. Sau khi chết được Kim Đồng, Ngân Đồng đưa qua cầu vàng cầu bạc siêu sanh về nhà quyền quý. Phàm ở dương thế đắp đường sửa cầu, phóng sanh, trai tăng thí gạo, mùa đông thí nước gừng, mùa hè thí trà mát, tế khổn phò nguy, kính trời đất, lễ thần minh, thờ tổ tiên, hiếu cha mẹ. Những người này sau khi chết được qua cầu vàng cầu bạc.

Trương Sĩ Phương gật đầu nghĩ: "Hèn chi người ta nói: Thiện ác rốt rồi đều phải trả, chỉ có đến mau với chậm thôi". Trương Sĩ Phương đi khắp các địa ngục, lại dẫn đến gặp một vị Diêm Vương. Diêm Vương truyền:

- Đem Trương Sĩ Phương quăng vào vạc dầu chiên nó.

Quỷ tốt dạ rân, trước mắt thấy một chảo dầu lớn đang sôi sùng sục, khói bốc mịt mù, Trương Sĩ Phương bị nhấc bổng lên sắp quăng vào chảo, sợ quá thét lên một tiếng giật mình tỉnh lại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3011)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20303)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3875)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8404)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7969)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9472)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4736)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4076)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]