Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

132. Đưa Thánh Tăng bắt yêu Bạch Thủy Hồ

20/10/201815:20(Xem: 6869)
132. Đưa Thánh Tăng bắt yêu Bạch Thủy Hồ

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 132:
Đưa Thánh Tăng bắt yêu Bạch Thủy Hồ

Giả Tế Công lọt vào Thiệu Hưng Phủ


Tế Điên cáo từ quan huyện Tiêu Sơn, cùng Vương Hùng, Lý Báo theo đường lớn đến thẳng Bạch Thủy Hồ, cứ đói ăn khát uống, đêm nghỉ ngày đi. Một hôm, vừa đến cửa Đông phủ Thiệu Hưng, thì thấy trên đường người ta đổ xô tấp nập, chen chân không lọt. Vương Hùng, Lý Báo mới hỏi những người đi đường:

- Việc gì mà tụ tập đông thế?

- Tế Công trưởng lão bắt yêu ở Bạch Thủy Hồ.

- Cái gì? Chúng tôi chưa tới mà làm sao biết Tế Công đi bắt yêu?

Mọi người đều bàn tán xôn xao, có người nói:

- Tôi vì coi việc bắt yêu mà buôn bán dẹp hết.

Đang nói tới đó thì đầu kia mọi người la lên:

- Đại nhân cùng Tế Công trưởng lão đã tới! Sẽ đến nghỉ tại miếu Mã Vương dùng làm công quán tạm, uống trà ăn cơm xong, giây lát sẽ lên đài bắt yêu. 

Vương Hùng nhìn theo hướng mọi người nói, thấy đi đầu là roi bài côn kích, thanh la lộng quạt, theo sau là hai cỗ ngựa, bên trái là ngựa hồng, bên phải là ngựa bạch. Vị đại Hòa thượng cỡi trên lưng ngựa hồng đang nhảy xuống đất. Vị này mình cao hơn trượng, đầu lớn, tam đình mở rộng, cổ ngắn lại to, mặt đỏ hồng, khoác hoàng bào, trên cổ đeo xâu chuỗi 108 hột, sau lưng giắt giới đao, vớ trắng tăng hài vàng, đúng là dáng vẻ của bậc La Hán. Cưỡi trên ngựa bạch là quan tri phủ Cố Quốc Chương đầu đội mũ đen có giắt lông chim, mình mặc đại hồng mãn bào, lưng thắt ngọc đái. Có người đến cạnh, nói:

- Xem vị Tế Công trưởng lão kìa, thiệt là bậc La Hán có khác!

Có người nói:

- Vị này chắc không phảo Tế Điên Tăng đâu! Tế Điên Tăng là ông thầy điên, tóc trên đầu dài chừng hai tấc, mặt dính đất tèm lem, tăng y rách nát, tay vắn sứt bâu, lưng buộc dây nhung, khật khà khật khưỡng, hai chân trần mang đôi dép cỏ, rách rưới hết cỡ, say rượu bét nhè, mới phải là Tế Điên Tăng.

Nói rồi lấy tay chỉ Tế Điên, nói:

- Giống như vị đại sư phó này, mà có thể ông ta còn hơn nữa!

Tế Điên hỏi:

- Tệ hơn ta! Vậy chú có biết Tế Điên không?

Người kia buột miệng nói càn:

- Có chớ! Tôi quen biết Tế Điên đã lâu. Hồi mùa hè năm ngoái, tôi có ở mấy tháng tại Lâm An.

- Chớ không phải mùa hè năm ngoái chú đương buôn bán ở Dương Châu à? Làm sao chú lại có mặt ở Lâm An được?

Người kia nghe nói, ngạc nhiên hỏi:

- Tôi buôn bán ở Dương Châu làm sao ông biết được?

- Vậy mà ta biết chớ!

Đúng lúc đó, Vương Hùng, Lý Báo tới nói:

- Bạch Thánh Tăng! Ngài xem ở đây lại có một Tế Điên nữa kìa! Nếu Ngài muốn tỏ ra là Tế Điên thiệt, thì bọn tôi trình bức thư này lên; nếu Ngài muốn làm Tế Điên giả thì nên đừng dự vào làm chi!

- Ta cũng không biết mình là thiệt hay giả, còn hai ông thấy sao cũng được.

Đương nói tới đó thì ngựa đã đi ngang trước mặt. Tế Điên hét lên một tiếng:

- Hay cho con chó của Vương Bác Hầu này! Mi sẽ biết tay ta.

Vừa hét vừa nhảy xổ lại nắm hàm thiếc ngựa của Tế Điên giả cỡi níu lại. Vị Tế Điên giả này xuất hiện, cũng có một lý do (Ngoài cửa Đông có một đường sông tên là Một Lạo Hà, nhưng trong "Tế Công Toàn Truyện" lại viết là Bạch, và kêu là Bạch Thủy Hồ. Tác giả của sách này cũng không dám tự ý đưa ra ý kiến riêng để cải chánh, nên vẫn để là Bạch Thủy Hồ). Quan Tri phủ Thiệu Hưng Cố Quốc Chương đáo nhậm tại địa phương này không bao lâu thì nước trong hồ này bổng nhiên bốc mùi thơm, các trẻ con ở quanh hồ đi đến đó nghe mùi thơm của nước hồ bốc lên bèn nhảy xuống hồ cả. Về sau, các thôn trang quanh hồ mới lập hương án, làm một buổi tế lễ ở bên hồ, chỉ thấy từ trong hồ xông lên hai luồng khí âm dương, nghe thấy tiếng nói mà không thấy tiếng người, rằng: "Mỗi ngày phải ăn thịt một đứa bé trai và một đứa bé gái. Nếu không đem nộp thì tất cả trẻ nít của phủ Thiệu Hưng đều bị ăn sạch".

Hơn 600 thôn trang đều cùng họp bàn, nhà ai có trẻ nít đều phải viết tên họ trên giấy rồi vo lại bỏ vào trong đấu. Mỗi ngày bốc thăm, bốc trúng tên con nhà ai thì trẻ con nhà đó phải nộp cho yêu tinh ăn thịt. Việc này bẩm lên quan, quan huyện cho viết bố cáo khắp nơi: Ai có thể bắt được yêu tinh, xin thưởng 100 lượng bạc.

Một hôm, bỗng nhiên trước cửa nha môn của tri phủ có tiếng niệm "A Di Đà Phật". Đó là một vị đại hòa thượng, mặt đỏ, mình cao khoảng một trượng, mặc áo vàng, tự xưng: "Bần đạo là Tế Điên Hòa thượng ở chùa Linh Ẩn, đương ngồi thiền trong chùa, bỗng nhiên tâm cơ máy động, bèn toán biết Bạch Thủy Hồ có yêu tinh hại người nên bần đạo cố ý cỡi mây đến đây để hàng yêu bắt quái cứu giúp dân chúng. Các người hãy vào bẩm với quan Thái thú rằng có bần đạo đến nhé!". Các quan nhơn trở vào bẩm báo. Quan tri phủ lập tức bước ra nghinh tiếp, nói:

- Thánh Tăng giá lâm, mà đệ tử không hay để tiếp rước!

Nói rồi quỳ xuống hành lễ. Vị hòa thượng đó lật đật khoát tay, nói:

- Không cần phải hành lễ. Xin đi trước dẫn đường.

Vào đến thư phòng ngồi xuống, quan Tri phủ hỏi:

- Thánh Tăng từ chùa Linh Ẩn tới đây khởi hành từ lúc nào? Đi bao lâu mới tới?

Tế Điên giả nói:

- Bần tăng sáng sớm hôm nay cỡi mây mà đến, đặc biệt hàng trừ yêu quái.

- Thánh Tăng bắt yêu, vậy dùng những vật chi?

- Đại khái là không cần chi, nên dựng một pháp đài cao ở trên bờ hồ.

Quan Tri phủ một mặt sai người dựng pháp đài, một mặt hỏi hòa thượng ăn chay hay ăn mặn?

- Chay mặn gì cũng được!

Quan Tri phủ sai làm một công quán tạm ở miếu Mã Vương ngoài cửa Đông, rồi mời hòa thượng đến công quán dùng cơm. Dùng cơm xong thì pháp đài cũng dựng xong, lúc ấy quan Tri phủ cùng hòa thượng mới đến Bạch Thủy Hồ. Hòa thượng mới lên pháp đài thắp hương đảo cáo thầm các vị tiên linh quá vãng:

- Đệ tử vốn là người luyện khí ở Phi Long Sơn, nhơn vì ở Bạch Thủy Hồ có yêu tinh hại người, con không phải đến đây để hưng yêu tác quái, mà là bắt trừ yêu tinh để cứu giúp lê dân địa phương. Mong các vị thần linh bảo hộ cho.

Đảo cáo xong, họa ba đạo bùa dán lên giới đao, đốt đạo bùa linh ánh sáng lớn bằng cái bát. Hòa thượng trong miệng đọc:

- Đốt đạo bùa này ném xuống hồ, bắt yêu tinh phải hiện ra.

Hô xong ném đạo bùa xuống hồ, tức thì dưới hồ nước réo sôi ùng ục nghe như có tiếng bò rống, rồi nước rẽ làm hai, từ dưới hồ vọt lên hai luồng khí âm dương xông thẳng đến chỗ hòa thượng chụp xuống. Vị hòa thượng này không chậm trễ há miệng phun ra một luồng khí đen chọi lại với hai luồng khí âm dương nọ. Luồng khí đen này to bằng hột đào, còn luồng khí âm dương kia to chừng bằng chén uống trà. Luồng khí âm dương từ dưới hồ xông lên lần lần đè luồng khí đen thấp xuống.

Nguyên, con yêu tinh dưới Bạch Thủy Hồ có 8 - 9.000 năm tu luyện; còn Tế Điên giả ấy chỉ có công phu khoảng 5.000 năm nên địch không lại. Mọi người đừng xem cũng không biết, chỉ thấy vị Hòa thượng mồ hôi tươm ra có hột rớt từng giọt trên pháp đài. Mặt trời đã ngã về Tây, bỗng nhiên mây tụ Ở hướng Tây bắc, sấm chớp đì đùng, luồng khí âm dương đó liền thâu lại. Vị Hòa thượng trên pháp đài mệt nhọc đến nỗi thân ướt đẫm mồ hôi, nói với quan Tri phủ:

- Thưa lão gia, hôm nay bần tăng không mang theo pháp bửu, để trở về lấy, ngày mai sẽ bắt yêu.

Quan Tri phủ hỏi:

- Thánh tăng trở về chùa Linh Ẩn xa 1.800 dặm mà đi về có kịp không?

- Bần tăng biết cỡi mây mà!

Nói xong câu đó, như một làn khói đen, Hòa thượng biến mất. Mọi người đều khen:

- Đó mới thật là thần tiên.

Quan Tri phủ trở về nha môn. Hôm sau quả nhiên Hòa thượng đó lại tới. Ông ta nguyên không phải là đối thủ của yêu tinh ở Bạch Thủy Hồ, bèn trở về núi, muốn thỉnh một lão đạo có đạo hạnh, nào ngờ vị ấy không chịu đi giúp, ông ta nổi giận, hôm nay đến thí mạng với con yêu tinh Bạch Thủy Hồ. Khi gặp, quan Tri phủ cho rằng ông ta đã lấy bửu bối về, bèn xếp đạt chuẩn bị ăn cơm ở công quán tạm ngoài miếu Mã Vương. Hôm nay chưa đến giờ bắt yêu mà người xem đông nghẹt, chen chân không lọt. Quan Tri phủ cùng Tế Điên giả cỡi ngựa đến miếu Mã Vương. Đang đi, bỗng Tế Điên thiệt, hét lên một tiếng, chạy đến nắm hàm ngựa của Tế Điên giả lại.

Tế Điên thiệt nói:

- Hay cho tên này, mi dám đến đây bắt yêu hử?

Tế Điên giả nhìn lại, thì ra là một ông Hòa thượng kiếc điên điên khùng khùng. Ông ta đâu biết rằng La Hán gia đã bịt kín tam quang: Phật quang, Kim quang, và Linh quang rồi. Tế Điên giả nhìn thấy trước mặt mình là một kẻ phàm phu tục tử, lật đật hỏi:

- Vị pháp huynh đệ Ở đâu? Xin mời!

Tế Điên thiệt nói:

- Ông dám xưng huynh đệ với ta ư?

- Ta kính ông làm đàn anh, ông có chịu không?

- Ta chỉ sợ Ông không chịu thôi! Ông đi đâu đó?

- Ta đi bắt yêu. 

- Thôi ông đi đi.

Nói rồi, Tế Điên thiệt thả hàm ngựa ra, Tế Điên giả cùng quan Tri phủ cỡi ngựa đến miếu Mã Vương. Vương Hùng, Lý Báo nhìn thấy Hòa thượng làm việc đầu voi đuôi chuột, những việc đã qua hình như là thiệt, cũng có lúc không đầu không đuôi. Vương Hùng, Lý Báo mới hỏi:

- Bạch Thánh Tăng! Lá thơ chúng tôi cầm đây có nên đưa hay không?

- Hai ông thấy làm sao được thì làm!

Vương Hùng, Lý Báo nghĩ thầm: "Nếu mình không đưa thơ, lại sợ lão gia nói: Bất cứ là Tế Điên thiệt hay Tế Điên giả, ta bảo đưa thơ sao ngươi không đưa? Nếu mình đưa thơ, lại sợ lão gia nói: Đã thấy có một Tế Điên rồi, sao hai người còn đưa thơ làm chỉ Thật rắc rối quá!". Nghĩ tới nghĩ lui, bèn quyết định đưa thợ Hai người mới cùng Tế Điên đi đến miếu Mã Vương. Vương Hùng, Lý Báo vào bên trong văn phòng, qua một hồi chen lấn rất cực nhọc. Vị coi bản án của phủ Thiệu Hưng họ Trương, gọi là Trương Văn Nguyên, trước đây từng giữ việc coi bản án ở huyện Tiêu Sơn nên có quen biết với Vương Hùng và Lý Báo. Gặp mặt hai người, Trương Văn Nguyên hỏi:

- Hai vị Ban đầu từ đâu đến đây? Có mạnh khỏe không?

Vương Hùng nói:

- Chúng tôi vâng lệnh quan huyện đến đưa cho quan Thái thú một phong thơ tiến cử một vị Tế Công trưởng lão bắt yêu ở Bạch Thủy Hồ.

Trương Văn Nguyên ngạc nhiên nói:

- Chúng tôi có một vị Tế Công trưởng lão rồi, làm sao lại có một vị Tế Công nữa? Vị ấy ở đâu?

- Ở ngoài cửa kia kìa!

Trương Văn Nguyên cùng ra cửa xem, thấy Hòa thượng một bệt dưới đất, dựa vách ngủ khò. Vương Hùng lấy tay chỉ Hòa thượng nói:

- Đây, Hòa thượng này đây!

Trương Văn Nguyên nhìn lại, tằng hắng một tiếng, nói:

- Theo tôi thấy thì hai vị không cần phải đưa thơ nữa! Vị Tế Công của chúng tôi ở đây mới thiệt là dáng vẻ La Hán; còn ông Hòa thượng này không khác ăn xin chút nào!

- Chúng tôi vâng lệnh lão gia đưa thơ, chẳng lẽ không đưa? Anh làm ơn bẩm lại giùm.

Trương Văn Nguyên không cách nào hơn, bèn vào trong bẩm lại. Quan tri phủ Cố Quốc Chương đang nói chuyện với Tế Điên giả, Trương Văn Nguyên đưa thơ vào. Quan Tri phủ xem thơ xong mỉm cười, nói:

- Bạch Thánh Tăng! Ngài xem trên thế gian này thiệt có bọn vô tri hết chỗ nói, dám mạo xưng tên họ của lão nhân gia chớ!

Tế Điên giả nghe nói, hỏi:

- Việc đó như thế nào?

- Hiện có bạn tôi là Tri huyện Tiêu Sơn lại tiến cử một vị Tế Điên Hòa thượng nữa. Thiệt đáng tức cười quá!

Tế Điên giả nghe nói, trong bụng nghĩ thầm: "Có thể là Tế Điên thiệt đã đến rồi!". Quan Tri phủ nói:

- Hãy mời vào xem thử!

Lập tức Trương Văn Nguyên bước ra tìm, thì không thấy Hòa thượng ở đấy nữa. Đang đi kiếm các nơi, bỗng nghe tiếng người nấu bếp ở nhà trù la:

Cái ông Hòa thượng kiếc này, tới đây ăn trộm đồ ăn hả? Cái này để dành cho Tế Công trưởng lão đó!

Trương Văn Nguyên nghe nói, chạy vào nhà bếp xem, thấy ông Hòa thượng kiếc đang uống trộm rượu, tay bốc thức ăn nhai nhồm nhoài. Trương Văn Nguyên nói:

Này Hòa thượng! Thái thú chúng tôi mời ông đó!

Tế Điên nghe nói, đáp lại một tiếng rồi bước lên nhà trên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3011)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20303)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3875)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8404)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7969)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9472)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4736)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4076)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]