Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 1 - GIÁO PHÁP - chương 3 - VẠN HỮU

10/12/201821:06(Xem: 2032)
Phần 1 - GIÁO PHÁP - chương 3 - VẠN HỮU

Phật Giáo Thánh Điển Linh Sơn

Huyền Vi

~0~

 

Phần Thứ Nhất  -  GIÁO PHÁP

CHƯƠNG BA  -  VẠN HỮU

 (THIÊN TRÊN NÓI VỀ DUYÊN KHỞI CỦA VẠN HỮU)

 

Tiết  I  - Nghiệp Cảm Duyên Khởi

 

Mục  I  -  Tâm là nguồn gốc các pháp

 

  1.  Trong 3 nghiệp, ý hành tối quan trọng.

 

            Một vị đại vương bạch với đức Phật rằng:  “Bạch Thế-Tôn, trong ba hành động, cái nào là tối quan trọng? thân hành động, khẩu hành động hay ý hành động?”.  Đức Phật bảo Đại vương rằng: “Trong ba hành động nầy, ý hành động tối trọng yếu.  Thân hành động, khẩu hành động không đáng kể”.  -  Đại vương bạch với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì cho rằng ý-niệm là quan trọng bậc nhất?”  Đức Phật bảo Đại vương: “Nói đến hành động của người, trước phải có ý-niệm, sau đó phát ra lời nói và hành động.  Hành động có thể thánh thiện hoặc tội lỗi như sát sanh, trộm cắp, tà dâm.  Lời nói không nhất định cũng không đầu mối, chính vậy khiến mọi người khi chết thân căn, thiệt căn hãy còn; nầy Đại vương!  tại sao đối với mọi người thân và miệng không quan trọng bàn đến ư?” -  Đại vương bạch Phật rằng: “Vì mọi người không ý căn, nên gây ra nhiều sự thay đổi vậy”.  Đức Phật bảo Đại vương: “Phải dùng phương tiện nầy mới biết ý căn rất là quan trọng, còn thân và miệng là phần phụ thuộc”.  Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn liền nói bài kệ sau đây:

 

                        “Tâm là gốc các pháp,

                          Tâm lớn, tâm sai khiến,

                          Niệm ác tâm khởi lên,

                          Liền hành động thi thiết;

                          Đối với kia chịu khổ,

                          Như bánh xe theo dấu…”

Trái lại:            “Tâm là gốc sự vật,

                          Tâm lớn, tâm sai sử;

                          Trong tâm nghĩ việc lành,

                          Liền hành động tốt đẹp;

                          Trả lại quả báo lành,

                          Cũng như bóng theo hình”.

 

  1. Niệm trước niệm sau không cùng gặp nhau:

 

Lòng người trong thiên hạ cũng như giữa giòng nước có cỏ cây; mỗi loại tự lưu hành không nhìn nhau để ý.  Loại trước không nhìn loại sau, loại sau cũng chả lưu ý loại trước, cỏ cây trôi nổi, mỗi loại tự nhiên như vậy.  Lòng người cũng như thế: một niệm đến (1), một niệm đi cũng như cỏ cây trước sau không nhìn nhau.

(Trích  kinh Trung Tâm, túc 8, tờ 24, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Một niệm đến, một niệm đi:  Mỗi niệm sinh diệt vậy.  Nghĩa là trong niệm trước sau niệm sau liên lạc không ý thức; ở trong thân sau, không nhớ thân trước.

 

  1. Hành động của tâm đều còn.

 

           Người biết chánh tâm, chư thiên trên các cõi trời đều thay người hoan hỷ.  Phải dùng sức mạnh hàng phục vọng tâm, quá nhu nhược bị tổn giảm, chớ theo vọng tâm thi hành.  Hành động của tâm không bao giờ mất.  Người đắc đạo cũng do tâm vây.

Tâm làm trời, tâm làm người, tâm làm quỷ thần, súc sanh, địa ngục v.v….tất cả do tâm tạo.

(Trích kinh Bát Nê Hoàn:  Parinirvàna Sùtra, quyển thượng, Trắc 10, tờ 39, bên trái)

 

  1. Tâm tạo địa ngục, tâm tạo cõi trời.

 

            Tất cả hoàn cảnh không thể vượt qua lương tâm.   Vọng tâm là oán gia thường khi dối ngườì.  Tâm tạo địa ngục, tâm tạo qủi đói, tâm tạo súc sanh, tâm tạo trời người.  Tạo tác các hình tướng đều do tâm chủ động.  Ai hàng phục được tâm ra làm đạo, năng lực kia tối thắng.  Ta chiến đấu cùng vọng tâm trải qua nhiều kiếp mới được thành Phật; qua lại trong ba cõi đều cũng do tâm chủ động….

(Trích kinh Ngũ Khổ Chương Cú, túc 8, tờ 49, bên mặt).

 

Mục  II  -  Tâm cùng nghiệp

 

  1. Do tâm nên có tất cả nghiệp quả.

 

            Tâm hay tạo tác tất cả nghiệp,

            Do tâm nên có tất cả quả,

            Như thế nhiều thứ các tâm hành,

            Hay được nhiều thứ các quả báo.

 

            Tâm là họa sư về tất cả,

            Hay ở ba cõi khởi hành động,

            Bị tâm sai sử khắp các đường,

            Mỗi chỗ thọ sinh không cùng tận.

 

            Tâm hành ràng buộc gốc giải thoát,

            Thế nên nơi tâm là thứ nhất;

            Làm lành thì hay được giải thoát,

            Mê lầm tạo ác thì bị tội.

 

            Như thế tâm ý khiến chúng sinh,

            Trôi nổi trong biển khổ tam giới,

            Ngu si ái buộc mất tự tại,

            Tâm khiến chúng sinh lưu chuyển hành,

            Không thể đến thành Niết-Bàn kia,

            Như người mù quán mất chánh lộ.


(Trích kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, quyển thứ 20, phẩm súc sinh, túc 2, tờ 9, bên trái).

 

  1. Chí, hành, mạng, ba việc tương ưng.

 

      Tâm là nguồn gốc.  Tâm chỉ làm ra hành động, hành vi tạo tác là mạng.  Hiền hay ngu tại nơi hành, sống lâu hay chết yểu là do nơi mạng.

 

      Chí, hành và mạng tương quan gắn bó nhau;  Hành vi tạo tác tốt xấu, thân tự gánh chịu.  Cha làm việc xấu, con không thể thay chịu; con hành động bất lương, cha cũng không thể cứu cho; làm lành tự mình hưởng phước, gây ác tự mình chịu họa hại.

(Trích kinh Bát-Nê-Hoàn:  Parinirvàpa Sùtra, quyển thượng, Trắc 10, tờ 39, bên trái).

 

  1. Ba nghiệp:  Tâm, Khẩu, Thân

 

            Lòng người độc hại quá nhiều,

            Miệng là cửa họa, các điều gây nên;

            Tâm nghĩ miệng nói dưới trên,

            Thân ra chịu tội đừng quên tại mình!

            Người mà thiện ác bất minh,

            Tự làm tự chịu, tử sinh nhiều đời,

            Ý muốn làm hại khắp nơi,

            Không biết xe ngã đồng thời ngã theo.

 

            Tâm là cam lộ pháp gieo,

            Khiến người đặng phước, hò reo trên trời;

            Tâm nghỉ miệng nói ra lời,

            Thân nhờ phước đức, đời đời hiển vinh,

            Có người thiện ác trọng khinh,

            Tự tạo tự đắc trong kinh chỉ đường,

            Ý nghỉ việc thiện đơn phương,

            Như Vua sẽ đặng Thiên Vương trị vì.

(Trích kinh Biện Ý Trưởng Giả Từ, Trụ 8, tờ 73, bên mặt).

 

Mục  III  -  Nghiệp báo

 

  1. Tội phước không mất.

 

            Ở trong trời đất chỉ có tội phước; người làm thiện ác, như bóng theo hình; chết rồi bỏ thân mạng, nhưng hành động kia không bao giờ mất.  Người chết thần thức ra đi, tùy theo hành động trước, dắt dẫn đi đầu sanh; cũng như bánh xe quay, không thể lìa mặt đất.

(Trích Bột Kinh Sao, túc 8, tờ 72, bên mặt).

  1. Các nghiệp báo thiện ác, theo dõi tất cả thời.

 

      Nước lửa gươm dao oán độc thảy,

      Tuy hại còn có ngày dể tẩy;

      Nếu mình tạo ra các nghiệp ác,

      Về sau khổ lụy xấp năm bảy.

 

      Nghĩa thân quyến thuộc đều chia ly,

      Chỉ nghiệp cùng nhau khó bỏ đi.

      Thiện ác thời sau đều phải trả,

      Đời đời theo dõi tất cả ghi.

 

      Hoa thơm hoa đến ở nơi nào,

      Mùi thơm bay tỏa vẫn ngạt ngào;

      Nếu làm thiện ác hai đường nghiệp,

      Theo dõi cùng nhau tránh được sao?

 

      Các loài chim nương ở cây rừng,

      Sáng đi chiều lại nổi tưng bừng;

      Tình cảnh chúng sinh cũng như thế,

      Vương vấn thời sau lụy không ngừng!

 

(Trích kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, quyển thứ 6, phẩm Địa Ngục, túc 1, tờ 24, bên mặt).

 

  1. Nghiệp quả nặng nề, lửa không thể đốt

 

            Tất cả chúng sinh, mạng sống lâu không nhất định, cũng như bọt nổi trên mặt nước.  Chúng sinh nếu có nghiệp quả nặng nề, lửa không thể đốt, độc không thể hại.

 

(Trích kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển thứ 30, phẩm Sư-Tử Hẩu, dinh 6, tờ 47, bên mặt).

 

  1. Nhục nhẩn không biết tội phước.

 

            Người đời không rõ con đường sinh tử,

            Mắt thịt không biết tội phước báo ứng.

 

(Trích kinh Tội Phước Báo Ứng, túc 6, tờ 68, bên mặt).

 

Mục  IV  -  Tự nghiệp tự thọ

 

  1. Nghiệp có ba thứ lảnh thọ:

 

Nghiệp có 3 thứ (1):  Một là hiện thọ (2), hai là sinh thọ (3), ba là hậu thọ (4).  Trong 3 thứ nghiệp nầy, mỗi thứ đều cố định cùng bất định.

 

(Trích kinh Đại Thừa Tạo Tượng Công Đức, quyển hạ, trụ 7, tờ 71, 72, bên mặt và bên trái).

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Nghiệp  :  Karma, chộ tạo tác của hành động, lời nói và ý nghĩa, rồi ý chỗ tạo tác phát khởi sức mạnh, nương nơi sức mạnh nầy dẫn khởi quả tương ưng.  Nghịệp thuộc nghĩa nhân, nghiệp-nhân có 3 thứ.

 

  1. Hiên thọ  :  Thân hiện tại chịu quả báo.

 

  1. Sinh thọ  :  Đời kế chịu quả báo.

 

  1. Hậu thọ  :  Đòi sau chịu quả báo.  Ba thứ nghiệp nhân đều cố định và bất định.  Định nghĩa lả quyết định  dẫn quả .  Bất định thì trái lại.
  2. Tự nghiệp tự thọ:

 

            Tất cả chúng sinh tạo ra các nghiệp, dù trải qua trăm nghìn kiếp cũng không bao giờ mất; nhân duyên hòa hợp trong một thời, quả báo tùy theo đó mà lãnh thọ.

 

(Trích kinh Quang Minh Đồng Tử Nhân Duyên, quyển thứ 4, túc 6, tờ 28, bên mặt).

 

  1. Mình làm mình chịu:

 

            Nghiệp quả thiện ác tỏ tường,

            Mình làm mình chịu con đường quang minh;

            Tự mình ràng buộc lấy mình,

            Như tầm tạo kén luận bình nào sai.

            Đắng cay cùng với ngọt ngào,

            Khổ lụy phiền não ra vào thường xuyên;

            Như hình với bóng gắn liền,

            Uống độc mình chịu khó phiền tới ai.

 

(Trích kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ, quyển thứ nhất, túc 5, tờ 2, bên mặt).

 

  1. Khổ vui phải chịu không có ai thay.

 

            Bỏ bê hạnh lành,

            Hoại loại đạo tâm;

            Già bệnh chết đến,

            Lành dữ khổ vui,

            Riêng mình phải chịu,

            Không có ai thay!

 

(Trích kinh Tứ Tự Xâm, túc 8, tờ 21, bên mặt).

 

  1.  Nghiệp rất nhỏ cũng chịu quả báo.

      Chúng sinh chớ khinh các việc ác nhỏ mà cho là không tội.  Mỗi người sau khi chết rồi đều có quả báo, dù tội rất nhỏ cũng phải lãnh thọ.  Cha con hết sức thân thiết, khi chia tay mỗi người đều đi một đường, dù có gặp nhau không thể thay chịu…

(Trích kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, phẩm Địa Ngục Danh Hiệu Thứ 5, nhuận 10, tờ 5, bên trái).

 

Mục  V  -  Báo ứng thiện ác

 

  1. Tội phước phải trả:

 

            Tội cùng phước cũng như tiếng với vang, như bóng theo hình.  Từ xưa đến nay chưa có ai làm lành mà không được phước, làm ác mà không chịu họa hại, chỉ đến sớm và đến muộn mà thôi.

 

(Trích kinh Chiên Đà Việt Quốc Vương, túc 7, tờ 10, bên trái).

 

  1. Tội phước có chứng.

 

            Mỗi người phải thọ trì kinh giới, tinh tấn hành đạo.  Đạo không thể không học, kinh không thể không đọc, việc lành không thể không làm.  Phật tử phải làm lành bố đức, giúp tinh thần mọi người lìa khổ, vượt qua con đường sinh tử; thấy người hiền chớ khinh mạn, thấy ai làm việc thiện chớ chê bai; không vì lỗi nhỏ, chứng nhập cho người làm tội lớn.  Những người làm trái pháp luật mất lẽ phải, tội ấy không gì lớn hơn; tội phước có chứng nghiệm, đáng sợ đáng lo!

 

(Trích kinh A-Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung, túc 6, tờ 77, bên trái).

 

  1. Bốn thứ thiện ác cùng báo ứng.

 

            Nếu người cùng khổ; lòng bất tín gia tăng, lại thêm giận tức, bỏn sẻn, tham lam, tà tưởng, ngu si, mê lầm, không tôn kính bậc giới đức, thấy các Sa môn đạo sĩ,, thấy các bậc trì giới đa văn, chê bai thiếu sự tán thán, làm chướng ngại cho người bố thí và người lãnh thọ; những người như thế, từ đời nầy đến đời khác phải đọa vào địa ngục, đời đời kiếp kiếp không thoát khỏi ngục tối tăm.

 

            Nếu người cùng khổ; lòng chánh tín ít giận tức, sẽ sanh lòng hổ thẹn, hay bố thí lìa bỏn sẻn, thấy các vị Sa Môn phạm chí, những người trì giới đa văn, khiêm tốn ma hỏi han, tùy thời khéo cung cấp; khuyên mọi người làm việc bố thí; khen ngợi người bố thí và sẽ lãnh thọ; người tự nhiên như thế, từ đời nầy đến đời khác, theo đường lành sanh lên cõi trời, từ chỗ tối tăm vào nơi sáng suốt.

 

            Có những người giàu có an vui, nhưng không chánh tín, sanh nhiều giận tức, đầy bỏn sẻn, tham lam và ác tưởng, tà tướng mê lầm không cung kính chánh pháp, thấy hàng sa môn phạm chí, chê bai không tôn trọng, ngăn người khác làm việc bố thí, và dứt hẳn những ai thọ thí; các vị như thế, từ đời nầy đến đời khác sẽ sanh vào địa ngục chịu khổ, từ chỗ sáng vào nơi tối tăm.

 

            Nếu có người giàu sang vinh hiển đầy lòng chánh tín không sân hận, không tham lam và ác tưởng, thường khởi tâm hổ thẹn, huệ thí xa trần cấu, thấy các bậc sa môn phạm chí, những bậc trì giới đa văn, trước cung kính chào hỏi, tùy nghi cung cấp mọi thứ, khuyên người phát tâm cúng dường, khen ngợi người bố thí và kẻ thọ thí; những bậc hào quí như thế, từ đời nầy đến đời khác, sanh lên cõi trời 33, từ chỗ sáng vào nơi sáng hơn.

 

(Trích kinh Tạp-A-Hàm :  Samyuktàgama Sùtra, quyển thứ 42, thời 4, tờ 41, bên trái).

 

  1. Thiện ác, khó, dễ.

 

            Làm ác nguy hại thân,

            Người ngu cho là dễ;

            Làm lành rất an thân,

            Kẻ ngu cho là khó,

            Tạo ác mình chịu tội,

            Làm lành ta hưởng phước,

            Đều phải đợi thuần thục,

            Kia không ai thay chịu.

 

(Trích kinh Pháp Cú :  Dhammapada, quyển thượng, phẩm Thân Ái, tạng 6, tờ 99, bên trái).

 

  1. Thiện ác mỗi việc tùy thân:

 

            Không sinh tức nhiên không diệt, trời đất đều hoại diệt.  Người ngu cho trời đất là thường còn, đức Phật xem đó như hư không.  Trời đất có thành hoại, nhưng đều xa lìa mỗi thân.  Chỉ có việc thiện ác là theo sát thân, cha gây tội ác, con không thể thay thế; con có lỗi lầm, cha không thể thay chịu.  Mỗi người từ sự sanh tử, thiện ác ương lụy, mỗi mỗi theo sát thân mình.

 

(Trích kinh Phật Bát Nê Hoàn :  Parinirvàna Sùtra, quyển hạ, trắc 10, tờ 16, bên trái).

 

  1. Giàu sang sống lâu do bố thí, trì giới….đưa đến:

 

            Những bậc quốc vương, trưởng giả, hào quí… đều do việc lễ thờ ngôi Tam Bảo sinh đến.  Người đại phú, của cải vô hạn, do sự bố thí sinh đến.  Người sống lâu không có đau ốm, thân thể tráng kiện, do sự giữ giới sinh đến.  Người đoan trang nghiêm chánh, nhan sắc tươi đẹp, nghi dung bậc nhất, tay chân mềm mại, nhân dáng thanh cao, mọi người nhìn thấy thảy đều hoan hỷ, nhìn mãi không nhàm chán, đều do sự nhẫn nhục sinh đến.  Người tinh tấn, không bao giờ biếng nhác, ưa làm các việc phước đức, do sự tinh tiến tu học mà đến…

 

(Trích kinh Tội Phước Báo Ứng, túc 6, tờ 66, bên trái và mặt).

 

  1. Tâm ác phá hoại hình thể:

 

Ác không tức thời,

Như sữa trâu đen;

Tội ở âm ty,

Như tro lại lửa.

Ác không tức thời

Như gươm bén kia

Không lo đời sau,

Thường chịu báo kia.

Như sắt sinh rĩ

Lại ăn thân nó;

Ác sinh nơi tâm,

Lại tự hoại hình.

 

(Trích kinh Xuất Diệu :  Avadàna Sùtra, quyển thứ 11, phẩm Hạnh, tạng 5, bên trái, tờ 89).

 

  1. 8.      Các việc lành đáng ưa kính:

 

Việc lành phải nên cung kính,

Như mẹ như cha thiên-tính phải thương;

Khéo khôn thân thể an khương,

Xa lìa những chỗ nhiễu nhương ồn ào.

Khéo khôn trời đất kính chào,

Khéo khôn tăng trưởng đi vào đường tu,

Khéo khôn quyến thuộc công phu,

Khéo khôn xa lánh ba u-đồ trường.

Lành thay dứt các ác đường,

Lành thay xa lánh mọi phường trần lao,

Dứt trừ lời nói cống cao,

Siêng tu các nghiệp thanh tao nhẹ nhàng.

 

(Trích kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ, quyển thứ ba, túc 5, tờ 5 bên trái; tờ 6 bên mặt).

 

  1. 9.      Ơn và oán của tiền thân.

 

            Thuở xưa có một người đi trên con đường thấy có một xác chết.  Vị nầy lấy gậy đánh đập vào xác chết.  Kẻ đi đường lấy làm lạ hỏi rằng : “Người nầy đã chết, vì sao đánh đập làm chi?”. Vị quỉ thần trả lời: “Đây là tiền thân của tôi, lúc tôi còn sinh tiền, không hiếu thuận với cha mẹ, không trung chính với quốc dân, chẳng kính thờ ngôi Tam Bảo, không thuận theo lời chỉ dạy của sư phụ; làm cho tôi phải mang tội đọa lạc trong ba đường ác, chịu đau khổ khôn lường.  Vì tiền thân của tôi tạo ra, nên tôi phải đánh đập nó.”

 

            Người đi đường kia, nhìn xa xa về phía trước, lại thấy có một xác chết nữa, có các Thiên thần đến, rải hoa trên xác người nầy và chấp tay xá chào.  Người đi đường hỏi nguyên do : “Xem Ngài giống như Thiên Thần, vì sao lại rải hoa tươi, xá chào thây chết?”.  Thiên Thần trả lời:  “Đây là tiền thân của tôi; khi sanh tiền hiếu thuận với cha mẹ, trung tín với quốc dân, kính thờ ngôi Tam-Bảo, vâng lời dạy của Sư-phụ; nhờ đó, thần thức tôi được sanh về cõi trời, đều nhờ ơn của tiền thân của tôi, nên tôi phải đến đây để đền ơn vậy.”

 

            Trong một ngày, người đi đường nhìn thấy hai việc tương phản như thế, khi trở về nhà hết lòng giữ gìn năm giới (1), thật hành mười điều lành (2), hiếu thuận với cha mẹ, trung tín với quốc dân, nêu gương sáng cho người đời sau : “tội phước theo người, lâu xa không bao giờ quên mất, thật phải cẩn thận”.

 

(Trích kinh Thiên Tôn Thuyết A-Dục Vương Thí Dụ, tạng 8, tờ 66, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Năm giới  :  Không sát sinh.   2,  Không trộm cấp.   3,  Không tà dâm.   4.  Không nói dối.   5.  Không uống rượn.

 

  1. Mười điều lành  :  1.  Không sát.   2.  Không trộm.   3.  Không dâm.   4.  Không nói dối.   5.  Không nói thêu dệt.   6.  Không nói đôi chiều.   7.  Không nói hung ác.   8.  Không tham lam .   9.  Không giận tức.   10.  Không si mê.

 

Mục  VI  -  Nghiệp báo cùng quỉ thần

 

  1. Người chí thành quỉ thần giúp sức:

 

            Người đem hết lòng thành làm việc phải, sẽ có quỉ thần trợ giúp, mọi việc như ý;  Người làm các điều ác, mặc dù chưa biết, nhưng cuối cùng sẽ chịu họa hại.

 

(Trích kinh Bụt Sao, túc 8, tờ 72, bên trái).

 

  1. Làm lành được phước không phải quỉ thần trao cho:

 

        Luận về người đắc đạo đều do các việc lành sanh ra, trải qua nhiều thời gian giữ giới, tự chế ngự lời nói, ý nghĩ và hành động !  Việc thiện là áo giáp lớn, không sợ đao binh; việc thiện là chiếc thuyền lớn để đưa người qua sông mê bể khổ.  Việc thiện có thể giữ được chánh tín, trong gia đạo được an hòa, hiện đời có đủ các việc tốt, phước theo dõi tự nhiên.  Người được phước báo hành sự không phải do thần trao cho.

 

(Trích kinh A-Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung – túc 6, tờ 77, bên mặt).

 

  1.  Trách thánh chê trời rất là mê lầm:

 

        Người mờ tối, không biết tự suy xét, trước hành động không công tâm, lại trách trời, oán đất; trách thánh lỗi thần.  Thật mê lầm quá sức, mất hết trí năng.

 

(Trích kinh A-Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung, túc 6, tờ 77, bên mặt).

 

  1. Thiên đường, địa ngục:

 

Thiên đường cửa trống vắng người,

Địa ngục cửa đóng người đời lại theo.

 

        Đời nầy chúng sinh tạo nhiều ác nghiệp, hằng ngày gây nhiều tội lỗi; đa số tin tưởng quỉ thần, bỏ con đường chánh, hướng về con đường tà; vì thế, nên trên con đường cửa mở rộng nhưng ít ai đến, trái lại dưới địa ngục cửa đóng chặt, nhưng chúng sinh tìm đến đầy dẫy; thật là đau xót.

 

(Trích kinh A-Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung, túc 6, tờ 77, bên trái.)

 

Tiết  II  -  Duy Tâm Duyên Khởi

 

Mục  I  -  Tam giới nhất tâm

 

  1. Ba cõi do tâm tạo tác.

 

        Ba cõi hư vọng chỉ do nhất tâm (1) tạo tác; mười hai duyên phần (2) đều nương nơi tâm.  Vì sao thế?  Bởi vì tùy mỗi việc sanh tâm ham muốn, tâm ấy tức là thức; mọi sự việc từ hành động tạo tác.  Vì vọng tâm hành động cuồng loạn gọi là vô minh.  Thức là chỗ sở y, nên gọi là danh sắc.  Danh sắc tăng trưởng, gọi là lục nhập.  Ba sự hòa hiệp cơ xúc.  Xúc động với sanh gọi là thọ.  Tham trước chỗ lãnh thọ, gọi là ái.  Ái không bỏ, gọi là thủ.  Vì kia hòa hợp, nên gọi là hữu.  Cơ chỗ phát khởi gọi là sinh.  Sinh lực thay đổi gọi là lão.  Lão hư hoãi gọi là tử (chết).

 

(Trích kinh Hoa Nghiêm :  Avatarhsaka Sùtra, phẩm thập địa thứ 6, thiên 8, tờ 22, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1.   Nhất tâm  : Ba cõi do vọng tâm sinh khởi.  Tâm có hai thứ :  hoặc là chân tâm, hoặc là vọng tâm.  Nói về duy tâm, nói về duy thức đều là giải thích nghĩa nầy mà phát khởi.

 

  1. Mười hai duyên phần  :  tức là mười hai nhân duyên, như trong chánh danh đã nói : thức, hành, vô minh, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử.

 

  1. Ba cõi do tâm tạo :

 

            Ba cõi nầy do vọng tâm mà có.  Vì sao ?  Vì theo tâm niệm kia lại tự thấy vọng tâm.  Nay ta từ tâm thấy Phật.  Tâm ta làm Phật.  Tâm ta là Phật .  Tâm ta là Như Lai.  Tâm ta là thân ta.  Tâm ta thấy Phật.  Tâm không biết tâm, tâm không thấy tâm.  Tâm có tưởng niệm, thì thành sanh tử; tâm không tưởng niệm,  tức là Niết Bàn.  Các sự vật không thật, do tư tưởng duyên khởi; chỗ suy nghĩ đã dứt, thì sự hay tưởng tượng cũng không.  Nầy Hiền Hộ, phải biết ! các vị Đại Bồ Tát, nhờ chánh định nầy chứng đại giác ngộ.

 

(Trích  kinh Đại Tập  :  Mahàsanghata Sùtra, phần Hiền Hộ, quyển thứ 2, phẩm Tư Duy, huyền 9, tờ 5, bên trái).

 

  1. Tâm, Phật và Chúng sinh : “Tam vô sai biệt”.

 

Ví như họa sư khéo,

Phân bố các màu sắc;

Hy vọng chấp sắc khác,

Bốn đại không sai biệt.

Bốn đại không (phải) thể sắc,

Thể sắc không (phải) bốn đại,

Không lìa thể bốn đại,

Nhưng riêng có thể sắc.

Tâm không phải họa sắc,

Họa sắc không phải tâm;

Lìa tâm không họa sắc,

Lìa họa sắc không tâm.

Tâm kia không thường trú,

Không lường khó nghĩ bàn,

Hiện bày tất cả sắc,

Mỗi sắc không biết nhau.

Cũng như họa sư khéo,

Không thể biết họa tâm;

Phải biết tất cả pháp,

Tánh kia cũng như thế.

Tâm như họa sư khéo,

Họa các thứ ngũ ấm,

Trong tất cả thế giới,

Không pháp nào chẳng tạo.

Như tâm Phật cũng thế,

Như Phật, chúng sinh vậy,

Tâm (1), Phật và chúng sinh,

Cả ba không sai khác.

Các  Phật đều rõ biết,

Tất cả từ tâm chuyển;

Nếu hiểu được như thế,

Người kia thấy chân Phật.

Tâm không phải là thân,

Thân cũng không (phải) là tâm,

Làm tất cả việc Phật,

Tự tại chưa từng có.

Nếu ai muốn rõ biết,

Tất cả Phật ba đời,

Phải quán như thế nầy,

                        Tâm tạo các Như Lai….

 

(Trích kinh Hoa Nghiêm :   Avatamsaka Sùtra,  quyển thứ 10, phẩm Dạ Ma Thiên Cung, thiên 7, tờ 57, bên mặt).

LƯỢC GIẢI  :

 

  1. Tâm,  Phật và  chúng sinh  :  Ba danh từ nầy không có sai khác; cho nên nói rằng “tam vô sai biệt”.  Đây là nguyên lý căn bản  của Đại Thừa Phật Giáo vậy.  Tâm là tự thân;  Phật là nhân cách, lý tưởng chúng sinh là Xã hội vậy.

 

  1. Tất cả cảnh giới đều từ vọng tưởng sanh:

 

        Phải biết như thế nầy :  tất cả sự vật đều do vọng tưởng sinh ra, nương theo vọng tâm làm gốc.  Nhưng vọng tâm nầy vì nó không có tự tướng; nhờ nương cảnh giới mà có.  Có chỗ nói vì duyên nghĩ hiểu biết (1) cảnh giới trước, nói đó là tâm.  Hơn nữa, vọng tâm nầy cùng cảnh giới trước (2), mặc dù đều nương nhau, phát khởi không trước sau; song vọng tâm nầy, hay làm chư tất cả cảnh giới.  Vì sao ?   Bởi vì nương nơi vọng tâm, không rõ nhứt tướng của pháp giới, nơi tâm có vô minh, vì y nơi nhân lực vô minh, hiện cảnh giới vọng; vì cũng nương vô minh diệt, tất cả cảnh giới diệt.

 

(Trích kinh Chiếm Sát Thiện ác Nghiệp Báo quyển hạ, huyền 10, tờ 70, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Duyên nghỉ hiểu biết  :   Duyên nghỉ nghĩa là tâm niệm nương nơi khách quan mà phát khởi.  Duyên nghỉ hiểu biết là do vọng tâm khách quan mà phát khởi tác dụng của tâm.

 

  1. Cảnh giới trước  :   tức là đối tượng ngoài tâm vậy.
  2. Nếu tâm không vọng tức là không có ba cõi :

 

            Tâm của chúng sinh thật không cảnh nào khác.  Vì sao ?  Vì chân tâm vốn thanh tịnh, vì lý không ô uế.  Do nhiễm cảnh trần, cho nên có ra ba cõi; vọng tâm khắp ba cõi là cảnh phân biệt.  Cảnh ấy hư vọng, từ tâm sinh khởi; tâm nếu không vọng, tức là không cảnh nào khác.

 

(Trích kinh Kim Cang Tam Muội :  Vajrasamàdhi Sùtra, phẩm Nhập Thật Tế, dinh 4, tờ 57, bên trái và tờ 58, bên mặt).

 

  1. Nhớ tưởng phân biệt mà có sự vật :

 

            Tất cả sự vật đều không, như huyễn hóa; do sự hòa hợp (1) mà có, không có ai đứng ra tạo tác (2).  Sự vật do nhớ tưởng phân biệt mà phát khởi, vì không có chủ tể, nên theo ý thức mà lưu xuất.

 

(Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội : Sùramgama – dhyàna Sùtra, quyển thượng, huỳnh 7, tờ 2, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI :

  1. Hòa hợp  :  nhân duyên hòa hội.

 

  1. Tạo tác :   chủ tạo ra sự vật, chẳng hạn như trời Đại Tự Tại vậy.  Trong Phật Giáo phủ nhận thuyết vô nhân, và cũng phủ nhận thuyết nhất nhân.  Bởi vì thuyết nhân duyên làm cơ sở cho nhầt tâm vậy.

 

Mục  II  -  Như Lai Tạng

 

  1. Trong phiền não có Như Lai Tạng :

 

            Nầy các thiện nam !  ta dùng Phật nhãn quan sát tất cả chúng sanh, trong các phiền não tham muốn (1), giận hờn, mê muội có “Như Lai Trí”,  “Như Lai Nhãn”,  “Như Lai Thân”, tréo chân ngồi, nghiễm nhiên bất động.  Các thiện nam ! tất cả chúng sinh mặc dù mang thân phiền não luân hồi trong các đường khổ; nhưng vẫn có Như Lai Tạng (2), thường không ô nhiễm, đức tướng đầy đủ, cũng giống như ta không khác.

 

            Lại nữa, nầy các thiện nam ! ví như những người có thiên nhãn, quán sát hoa chưa rãi, thấy trong các hoa có thân Như Lai, tréo chân ngồi, bỏ các hoa héo, liền được hiển hiện.  Như vật đó, nầy các thiện nam !  Phật thấy chúng sinh có đầy đủ Như Lai tạng rồi, muốn khai mở; vì chúng sinh thuyết giảng kinh pháp để cho chúng sinh diệt trừ phiền não, hiển hiện Phật tánh của mỗi người.

 

            Nầy các thiện nam !  các “pháp nhỉ” (3)  của Phật.  Đức Phật ra đời hay không ra đời, Như Lai tạng của tất cả chúng sinh, thường trụ không thay đổi.  Nhưng vì chúng sinh kia bị nhiều phiền não che lấp;  Như Lai ra đời, rộng lượng vì nói pháp yếu, khiến chúng sinh trừ diệt các trần lao, thanh tịnh nhứt thiết trí của mỗi người.

 

(Trích kinh Như Lai Tạng :  Tathàgatagarbha Sùtra, vũ 3, tờ 28, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Tham, giận, mê :  Trong các căn bản phiền não, ba món nầy là độc hại nhứt vậy.

 

  1. Như Lai Tạng :  Tathàgatagarbha,  chứa đựng bản thể của Như Lai, tức là Phật tính, một đại       nguyên             lý trong Đại Thừa Phật giáo vậy.

 

  1. Pháp nhỉ :  nghĩa là tính tự nhiên từ xưa đến nay, không nhờ ai khác tạo tác ra nó vậy.

 

  1. Như Lai Tạng rất sâu sắc :

 

        Các thánh đế (1) nghĩa lý rất sâu sắc, tế nhị, khó mà hiểu biết tường tận; chẳng phải cảnh giới nghĩ lường dễ dàng.  Chỗ hiểu biết của những ai có đầy đủ trí huệ, tất cả mọi việc trong thế gian, chỗ không thể tin.  Vì cớ sao ?  Vì đây chỉ nói đến Như Lai Tạng rất sâu sắc.  Như Lai Tạng là cảnh giới của Như Lai, không phải chỗ hiểu biết của tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác.  Chỗ Như Lai Tạng nói về nghĩa lý thánh đế.  Vì chỗ Như Lai Tạng rất sâu, nói nghĩa thánh đế cũng rất sâu, rất tế nhị khó hiểu biết, không phải cảnh giới nghĩ lường.  Người có trí tuệ hiểu biết, tất cả việc thế gian, những sự kiện khó tin.

 

(Trích kinh Thắng Man :   Màlyas’rì  Sùtra, chương Như Lai Tạng thứ bảy, địa 12, tờ 57, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Thánh đế :  bốn thánh đế  :  khổ,  tập,  diệt,  đạo vậy.

 

  1. Pháp thân cùng Như Lai Tạng :

 

Pháp thân của Như Lai, không bao giờ xa lìa phiền não tạng được.

 

(Trích kinh Thắng Man :   Màlys’rì Sùtra, chương pháp thân thứ 8, địa 12, tờ 57, bên trái).

 

  1. Như Lai Tạng cùng phiền não nhiểm trước :

 

            Một vị Bồ Tát bạch Thế Tôn :  “Như Lai Tạng, cũng gọi là pháp giới tạng, pháp thân tạng, xuất thế gian thượng thượng tạng, tự tánh thanh tịnh tạng.  Tự tánh thanh tịnh như lai tạng nầy vẫn bị khách trần phiền não (1), bị nhiễm thượng phiền não, cảnh giới bất tư nghì của Như Lai.  Vì sao?  Bởi vì tâm thiện trong giây phút, không bị phiền não làm nhiễm ô, tâm bất thiện trong giây phút, cũng không bị phiền não làm nhiễm ô.  Phiền não không xúc chạm tâm, tâm không xúc phạm phiền não, tạì sao không xúc chạm sự vật nhưng có thể được nhiễm tâm?  Bạch Thế Tôn !  song có phiền não, có phiền não nhiễm tâm, tự tánh thanh tịnh tâm, nhưng người bị nhiễm trước, khó có thể rõ biết….”

(Trích kinh đồng tên trước,  địa 12, tờ 58, bên mặt).

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Khách trần phiền não  :  Đứng về Như Lai Tạng thành lập trên quan niệm tâm tánh vốn thanh tịnh, vì tâm tánh vốn thanh tịnh, nên có thể thấy phiền não từ bên ngoài đến.  Vì thế, nên cũng xưng đó là khách quan.

 

  1. Như Lai Tạng không đồng với  “Ngã” của ngoại đạo.

 

            Lúc bấy giờ ngài Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :  “Thưa Thế Tôn !  Trong Tu-Đa-La (1) nói :  Như Lai tạng bản tánh thanh tịnh, thường hằng không gián đoạn, không có biến đổi, đầy đủ 32 tướng tốt;  ở trong thân của tất cả chúng sinh, bị sự ràng buộc nhơ nhớp của uẩn (2), giới, xứ, bị sự nhiễm ô, vọng phân biệt của tham lam, giận tức, mê mờ v.v….. Giống như ở trong áo nhơ có vật báu vô giá.  Ngoại đạo (3) nói :  ngã là thường trú, tạo tác, lìa nơi cầu na (4) tự tạì không diệt.

            Đức Thế Tôn đã nói nghĩa Như Lai Tạng, há không đồng với cái ngã của Đức Phật bảo : “Nầy Đại Huệ ! Ta nói Như Lai Tạng, không đồng với ngã của ngoại đạo đã nói.  Đại Huệ ! Như Lai ứng chánh Đẳng Giác, dùng tánh (5) không, thật tế, niết bàn, không sinh, vô tướng, vô nguyện v.v… nghĩa lý các câu, nói là Như Lai Tạng; vì khiến các kẻ ngu phu lìa sợ vô ngã, nói không phân biệt, không chỗ ảnh tượng, như lai tạng môn.  Các vị Đại Bồ Tát ở đời vị lai và hiện tại, không nên đối với đây rồi chấp trước cái ngã.  Nầy Đại Huệ !  ví dụ như thợ làm đồ gốm, đối với đất sét gom góp, rồi dùng sức nhân công, phương tiện dùng nước gậy, giây, khuôn v.v…làm các dụng cụ để đúc.  Như Lai cũng lại như thế; ở trong pháp không ngã xa lìa tất cả phân biệt tướng, dùng các thứ trí tuệ phương tiện thiện xảo, hoặc nói Như Lai tạng, hoặc nói là vô ngã, các loại danh từ, mỗi mỗi sai khác.  Đại Huệ !  ta nói Như Lai tạng là đễ nhiếp trước cái ngã của các chúng ngoại đạo, khiến họ lìa vọng kiến, vào ba giải thoát (6), chóng chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác…”

 

(Trích kinh Nhập Lăng Già, đoạn thứ 2 của phẩm tập nhất thiết pháp thứ hai, huỳnh 6, tờ 92, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tu Đa La  :   Sùtra dịch là kinh.

 

  1. Uẩn, Xứ. Giới  :   5 uẩn,   12  xứ,   18 giới vậy.   12 xứ là 6 căn, 6 cảnh.   Ở đây thêm 6 thức thành 18 giới.  Đây là tổng quát muôn loài.  Hoặc thành 5 uẩn, hoặc thành 12 xứ, 18 giới.

 

  1. Ngoại đạo nơi ngã  :  “ngã”  At/man, nghĩa là tinh thần thường trú bất biến, ở trong thân chúng ta.  Vô ngã của Phật giáo nói, chính đối với loại nầy quan niệm mà phát khởi.

 

  1. Cầu na  :   Guna, dịch nghĩa là đức.

 

  1. Tánh không  :   nguyên lý của tư tưởng đại thừa Phật giáo, do đây mà phá tất cả quan niệm thật có.  Đó là cái ngã của ngoại đạo cùng với tiêu chuẩn như lai tạng của phật giáo không đồng.

 

  1. Ba giải thoát  :  Không,  vô tướng,  vô nguyện,  hoặc là vô tác.  Có chỗ nói là:  “Tam không”,   “Tam trí”,   “Tam tam muội”,   :Tam giải thoát môn”,   “Tam chủng định” ;   rốt  ráo về nơi không định vậy.  Không giải thoát nghĩa là quán các pháp từ nhân duyên sinh, không có ngã, không có ngã sở.  Vô tướng giải thoát nghĩa là quán niết bàn lìa hình tướng.  Vô nguyện giải thoát nghĩa là quán Niết bàn tất cả do bên ngoài đều không phải nguyện cùng sở tác.  Nhưng giáo nghĩa đại thừa dùng bồ đề niết bàn làm không, làm vô tướng, vô nguyện, song rõ chứng nơi chân như bồ đề vậy.

 

  1. Như Lai tạng đủ không và bất không:

            Thức A lại gia (1)  gọi là như lai tạng, không đồng với ý (2) chuyển thức (3) huân tập (4), cho nên gọi là không; vì đầy đủ huân tập pháp vô lậu, gọi là bất không.  Đại Huệ !  phàm phu ngu si, không hiểu không biết, chấp trước các pháp, sát na không dừng trú, lạc vào tà kiến, nhưng họ nói như vầy :  những pháp vô lậu, sát na cũng không thường trụ, vì phá chơn như, như lai tạng kia.  Đại Huệ ! năm thức thân (5), không sinh trong lục đạo, không thọ khổ vui, không làm nhơn niết bàn.  Đại Huệ !  Như lai tạng không thọ khổ vui, không phải nhân sinh tử; các pháp khác cùng sinh cùng diệt.

 

(Trích kinh Nhập Lăng Già, phẩm sát na, huỳnh 6, tờ 64, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Thức A lại gia  :   Alayavijnăna, thức thứ 8 vậy.  Tư tưởng thức Alạigia của Ấn Độ, có chia ra hai hệ thống :  một là dùng a lại gia làm cùng một mối với như lai tạng hai là dùng a lại gia cùng Như lai tạng có sự cách biệt nghiêm mật.

 

  1. Ý  :  manas, thức thứ 7 vậy.

 

  1. Chuyển thức  :  bảy chuyển thức do a lại gia chuyển biến.  Gọi là chuyển thức.

 

  1. Huân tập  :  do chuyển thức hoạt động đối với ấn tượng của A lại gia bốn thức bị lưu lại.  Đây là hữu lậu huân tập, cùng vô lậu huân tập có sự khu biệt.

 

  1. Năm thức thân  :   Năm thức trước tức là cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.  Năm thức nầy nhờ tác dụng vô phân biệt, chỉ làm bạn với ý thức thứ sáu, không bị luân hồi ở trong chủ thể của 6 đường sinh tử.

 

  1. Như lai tạng cùng pháp chuyển y :

 

              Thế giới nầy chưa dứt trừ hết gốc phiền não, ta nói là như lai tạng.  Đến khi nào hoàn toàn thanh tịnh, gọi đó là pháp chuyển y (1).

 

(Trích kinh Vô Thượng Y, phẩm bồ đề, trụ 7, tờ 80, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Pháp chuyển y  :   nghĩa là chuyển y diệu quả mà thành niết bàn của bồ tát.  Chữ y là nương theo thức thứ 8.  Chuyển có nghĩa là chuyển xã chuyễn đặng, nương thức thứ 8, xã phiền não để đặng Bồ Đề vậy.

 

Mục  III  -   Chơn như thanh tịnh tâm

 

  1. Tâm chơn như thanh tịnh  -   Như lai tạng:

 

            Lại nữa,  mỗi người phải biết  :  vì trong tâm mỗi niệm không dừng trụ; bị thấy bị duyên tất cả cảnh giới, cũng tùy tâm mỗi niệm không dừng trụ.  Có thể nói  :  tâm sanh nên có các sự vật sanh, tâm diệt thì các cảnh giới diệt, nhưng tướng sinh diệt, chỉ có danh từ, thật không thể đặng.  Vì tâm không đi đến cảnh giới, cảnh giớì cũng lại đến nơi tâm; như hình trong gương, không đến không đi.

 

            Vì thế nên tất cả sự vật tìm tướng sanh diệt nhứt định, chắc chắn không thể được.  Có chỗ nói tất cả sự vật rốt ráo không tự thể, xưa nay thường không, thật không sanh diệt vậy.  Như thế tất cả sự vật, thật không sinh diệt, thì không có tướng sai khác tất cả cảnh giới, một màu vắng lặng.  Gọi là chân-như nhất-nghĩa-đế, tự tính tâm thanh tịnh, viên mãn thúc phược và tròn đầy; dùng tướng vô phân biệt vậy.  Tướng vô phân biệt ở khắp các cả chỗ, không chỗ nào mà chẳng có. “Vô sở bất tại” là để y trì kiến lập tất cả sự vật vậy.

 

            Lại nữa, tâm kia gọi là như lai tạng (1).  Nó đầy đủ vô lượng vô biên những nghiệp công đức thanh tịnh vô lậu không thể nghỉ bàn.

 

(Trích kinh Chiếm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo quyển hạ, huyền 10, tờ 71, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Như lai tạng :  tức là tự tánh thanh tịnh tâm, hoặc gọi Phật tánh, hoặc gọi là chân như, hoặc gọi là đệ nhất nghĩa đế.  Tự tánh thanh tịnh tâm nầy, trên có hiện tâm, do hiện tâm sanh tất cả pháp.  Hiện tâm cùng tất cả pháp, mặc dù mỗi niệm sanh diệt; song thanh tịnh tâm kia thường trụ một vị, không sinh không diệt.

 

  1. Tâm tánh thanh tịnh:

 

            Tâm tự tánh (1) thanh tịnh vậy, tâm kia bị khách trần phiền não nhiễm ô nhưng tự tánh thanh tịnh tâm không nhiễm; thế mà tự tánh thanh tịnh tâm kia, tức thể không nhiễm, chẳng nhiễm trước.

 

(Trích kinh Như Lai Trang Nghiêm Trí Huệ Quang Minh Nhập Thất Thiết Phật Cảnh Giới, quyển hạ huỳnh 4, tờ 36, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tâm tự tánh :  tâm là hiện tâm.  Tự tánh là tâm thanh tịnh.  Phiền não sanh nơi hiện tâm, nhưng tâm       thanh tịnh không nhiễm.

 

  1. Tâm tánh thường thanh tịnh:

 

            Thế nào gọi là các pháp tánh thanh tịnh ?  -  nghĩa là tất cả sự vật tướng không (1), vì xa lìa có sở đắc.  Tất cả pháp tướng vô tướng vì lìa nhớ tưởng phân biệt.  Tất cả pháp tướng vô tác, không thủ không xả, không cầu, không nguyện, rốt ráo vì xa lìa tự tánh.  Ấy gọi là tánh thường thanh tịnh.  Vì tướng thường tịnh ấy, biết tánh sinh tử, tức là niết bàn; tánh niết bàn tức là tánh tất cả pháp.  Vì thế, nên nơi tâm tánh thường thanh tịnh.  Nầy các thiện nam !  ví như hư không, nếu chịu sự ô uế, không bao giờ có.  Tâm tánh cũng như thế :  nếu có nhơ nhớp, không có lý ấy.  Lại như hư không  :  dù bị khởi bụi mây mù che khuất, không sáng không sạch, nhưng không thể nhiễm ô tánh hư không; giả sử bị nhiễm ô làm sao trở lại thanh tịnh, bởi vì hư không thật không nhiễm ô, lại thấy luôn luôn trong sạch.   Tâm phàm phu cũng như thế :  mặc dù nhớ nghỉ tà, khởi các phiền não; song tâm tướng kia, không bao giờ nhơ nhớp, ví bị nhơ nhớp không thể trở lại trong sạch, vì tâm tưởng thật không nhơ nhớp, tánh thường sáng sạch, thế nên tâm được giải thoát.

 

(Trích kinh Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn, phẩm Luận Tịch thứ 8, Vũ I, tờ 15, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tướng không, tướng vô tướng, tướng vô tác :  không vô tướng, vô tác, (tân dịch vô nguyện).  Gọi là ba không, vào ba cửa giải thoát vậy.  Không, quán muôn loài đều không.  Vô tướng, quán muôn loài các tướng sai khác.  Vô tác, nó ở trên cơ sở của hai môn trước, lìa các việc cầu mong, do đó mà xa lìa các tạo tác vậy.  Nhưng giải thích ba món không nầy, cơ thuyết về đại thừa, cơ thuyết về tiểu thừa.  Giải thích theo đại thừa, y theo không nghĩa của Bát Nhã, không có sinh tử, đối lập với niết bàn; không nhàm sinh tử, không muốn niết bàn vậy.

 

Mục  IV  -  Chơn tâm cùng thế giới

 

  1. Chân tâm viên mãn phát hiện có sai khác.

 

            Cũng như các loại đàn :  đàn cầm, đàn sắt, đàn không hầu, đàn tỳ bà, mặc dù có tiếng rất hay, nếu không có ngón tay của tài tử thì các loại đàn kia không thể phát ra những bản nhạc tuyệt diệu.  Ông cùng các chúng sinh, cũng lại như thế :  bửu giác chân tâm, mỗi người đều viên mãn; cũng như ta ấn ngón tay, hải ấn (1) phát sáng; các ông vừa cử tâm, thì trần lao (2) khởi trước.  Bởi vì không siêng năng cần cầu đạo Vô thượng giác; chỉ nghỉ cái ngã cá nhân, được một ít cho là đầy đủ.

 

(Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm  :  Sùramgama Sùtra, quyển thứ 4, thành 1, tờ 14, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Hải ấn :  Trước khi Phật nói kinh Hoa Nghiêm, Ngài vào chánh định, cũng như sóng khi yên lặng trong biển cả thì muôn hình trạng đều chiếu trên mặt biển; trong tâm Phật phiền não dứt sạch, các sự vật trong ba đời, đành rành hiển hiện.

 

  1. Trần lao  :  tên khác của phiền não vậy.

 

  1. Tâm thanh tịnh, nên thân thanh tịnh:

 

            Nầy các thiện nam !  Bồ tát nầy và chúng sinh đời mạt thế, chứng đặng các huyễn (1), diệt hết các ảnh tượng; lúc bấy giờ liền được “vô phương thanh tịnh”,  hư không vô biên, biết chỗ hiển bày.  Vì tánh viên giác tròn sáng, hiển tâm (2) thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh, thấy cảnh trần (3) thanh tịnh; vì thấy thanh tịnh, nên nhãn căn thanh tịnh (4), vì căn thanh tịnh, nên nhãn thức (5) thanh tịnh, vì thức thanh tịnh, nên văn trần thanh tịnh; vì nghe thanh tịnh, nên nhĩ căn thanh tịnh; vì căn thanh tịnh, nên nhĩ thức thanh tịnh; vì thức thanh tịnh, nên giác trần thanh tịnh; như thế cho đến tỹ, thiệt, thân , ý cũng lại như thế.

 

            Nầy các thiện nam !  Vì căn thanh tịnh, nên sắc trần (6) thanh tịnh; vì sắc trần thanh tịnh, nên thinh trần cũng thanh tịnh; hương, vị, xúc, pháp cũng lại như thế !  Các thiện nam !  vì sáu trần trong sạch, đại địa trong sạch; vì địa trong sạch, nên thủy đại trong sạch; hỏa đại, phong đại cũng lại như thề .

 

(Trích kinh Viên Giác, thiên 11, tờ 89, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Các huyễn  :  Tất cả các pháp trong ngoài, như chiêm bao huyễn hóa bóng dáng, không có tánh vĩnh viễn; duy có tâm đại viên giác mới là chân thật.

 

  1. Hiển tâm :  hiện tâm vậy.  Tâm viên giác hiện huyễn tâm, hiện tượng thức A lại gia vậy.

 

  1. Thấy cảnh trần :  Trần là cảnh tức là đối tượng vậy.

 

  1. Nhãn căn, nhĩ căn, v.v… sáu căn vậy.

 

  1. Nhãn thức, nhĩ thức v.v…sáu thức vậy.

 

  1. Sắc trần, thinh trần  v.v…. sáu cảnh vậy.  Đất, nước, lữa, gió là bốn đại vậy.  Chữ đại là yếu tố thành lập muôn loài, nên gọi là đại

 

 

  1. Một thân thanh tịnh thế giới thanh tịnh:

 

            Nầy các thiện nam !  vì tất cả thật tướng (1) tánh thanh tịnh, nên một thân thanh tịnh; vì một thân thanh tịnh, nên nhiều thân thanh tịnh.  Các thiện nam ! vì một thế giới trong sạch, nên nhiều thế giới trong sạch;  vì nhiều thế giới trong sạch, như thế cho đến cùng tận hư không, đầy khắp ba đời, tất cả bình đẳng, thanh tịnh không lay động.  Các thiện nam ! hư không như thế bình đẳng không chuyển động, phải biết giác tánh bình đẳng, không lay động; vì bốn đại không động, nên phải biết giác tánh cũng bình đẳng không động.

 

(Trích kinh Viên Giác, thiên 11, tờ 89, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1.  Thật tướng :  Tất cả do nhân duyên sinh, đều là hư vọng; hội duyên nào thật, gọi đó là thật tướng.  Thật tướng nầy bổn lai tự tánh thanh tịnh.  Gọi đó là tánh thanh tịnh.  Căn, thúc, trần đại, tất cả đều về thật tướng.  Gọi đó là một thân thanh tịnh.

 

 

Tiết  III  -  Lại Gia Duyên Khởi.

 

Mục  I  -  Alạigia thức  (Tạng thức)

 

  1. Tất cả chủng tử thức A-lại-gia

 

            Đầu tiên tất cả chủng tử tâm thức (1) thành thục, triển chuyển hòa hợp, tăng trưởng rộng lớn, nương theo hai chấp thọ (2) :  một là các căn cơ sắc và bị nương chấp thọ; hai là phân biệt tướng danh ngôn thuyết hỷ luận tập khí chấp thọ.  Trong cõi hữu sắc đủ hai chấp thọ; trong cõi vô sắc, không đủ hai thứ.

 

            Nầy Quảng Huệ !  Thức nầy cũng gọi là thức A-Đà-Na (3).  Vì sao ?  Bởi vì thức nầy đối với thân theo dõi chấp-trì, nên cũng gọi là thức A-lại-Gia (4).  Taị sao ?  Tại vì thức nầy đối với thân nhiếp thọ tích lũy, vì đồng với nghĩa an nguy; cũng gọi là tâm (5).  Vì cớ sao ? Bởi vì thức nầy sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v… chứa nhóm sinh trưởng vậy.

 

            Nầy Quảng Huệ !  Thức A-Đà-Na làm chỗ y chỉ; làm nơi kiến lập, sáu thức (6) thân chuyển.

 

Thức A-Đà-Na rất tế nhị,

Ta còn phàm ngu khó khai diễn;

Tất cả chủng tử như giòng nước (7) (dốc)

Sợ kia phân biệt chấp là ngã (8) .

 

(Trích kinh Giải Thâm Mật :  Sandhi-nirmocana-Sùtra, phẩm tâm ý thức tướng, huỳnh 8, tờ 49, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tất cả chủng tử tâm thức :  Thức thứ 8 vậy.  Thức nầy chứa đựng tất cả hạt giống.  Nên gọi là thể.

 

  1. Hai chấp thọ :  Một là 5 căn, tức là thân vậy.  Hai là vạn pháp, hạt giống bị phân biệt vậy.

 

  1. Thức  A-ĐÀ-Na  :  Adànavijnàna, dịch là chấp trì thức, nó luôn bảo trì chủng tử vậy.

 

  1. Thức A-lại-Gia :  Alaya  vijnàna, dịch là tạng thức, nhiếp thọ 5 căn, chứa đựng tất cả chủng tử.

 

  1. Tâm  :  Chất đa, dịch âm từ chữ citta.  Tâm có nghĩa là tích tập, lại cũng có nghĩa là tập khởi, chứa nhóm chủng tử mà sinh khởi mọi sự vật.

 

  1. Sáu thức thân chuyển : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý qua sự chuyển biến sinh khởi của sáu thức vậy.

 

  1. Giòng nước : sự trôi lăn của hạt giống, suốt xưa nay, nhưng tục, gặp sự chao động của năng huân, rồi sinh khởi sóng mòi của bảy chuyển thức vậy.

 

  1. Ngã :  Như Atman của ngoại đạo, lại cũng như Purusa nghĩa là thật thể vĩnh viễn vậy.

 

 

  1. Thức  A-lại-Gia biến hiện các sắc.

            Nhơn giả !  như ngọc ma-ni, thể tánh thanh tịnh; nếu để trong yến sáng mặt trời mặt trăng, theo mỗi chỗ ứng dụng, chiếu theo mỗi sự vật.  Thức A-lại-gia cũng lại như thế : Các Như Lai tạng thanh tịnh (1), cùng tập khí hòa hợp, đổi giống các sắc, khắp trong thế gian; nếu tương ưng với vô lậu, tức rưới tất cả các pháp công đức.

 

            Cũng như sữa biến đổi khác, để thành vị tô lạc; cho đến vị đề hồ.  Thức A-lại-gia cũng lại như thế : thay đổi giống như tất cả các sắc trong đời.  Cũng như người bị nhặm mắt, vì mắt bị bịnh, nên nhìn thấy như là có gai gốc.  Tất cả chúng sinh, cũng lại như thế : do tập khí bịnh trụ nơi tạng thức, mắt sinh các tợ sắc, chỗ nầy thấy sắc.  Ví như mặt trời, xa lìa có không đều là chỗ biến hiện của A-lại-gia.

 

(Trích kinh Mật Nghiêm, quyển hạ, huỳnh 8, tờ 41, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Như Lai tạng thanh tịnh :  Thức A-lại-Gia của kinh nầy cùng Như Lai tạng đồng thể ! Nghĩa là như lai tạng nầy cùng hữu lậu, tập-khí (chứng từ) tương hợp, nhưng biến hiện các pháp; cùng pháp vô lậu tương ưng, rồi hoàn thành các pháp công đức.

 

  1. Thức A-lại-gia lưu chuyển nhưng không dứt.

 

            Này nhân vương !  chúng sinh trong thế gian, tập khí che lấp tâm hồn, sanh ra các thứ hí-luận; ý cùng ý thức cũng như các thức khác, tương tục mà chuyển.  Năm pháp, ba tự tánh, hai thứ vô ngã (1), hằng cùng tương ưng.  Thí như giòng nước dốc, bị gió chao động, khởi các sóng thần, các đợt sóng khởi lên tìm nhau, lưu chuyển không bao giờ dứt.  Thức A-lại-Gia ở trong thế gian, cũng lại như thế.  Tập khí từ vô thỉ, cũng như giòng nước dốc; bị gió cảnh giới làm xao động, khởi lên các sóng thức, hằng không đoạn tuyệt.

 

            Nầy nhân vương  !  Là 8 thứ tâm, mặc dù không cố định, có nhiều thể thức khác nhau; nhưng tùy duyên dần dần sinh khởi, hoặc một thời sinh; khi mà tâm sinh, bảo thủ các cảnh giới, cũng có nhiều đốn tiệm sai khác nhau.

 

(Trích kinh đồng trước).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Năm pháp, ba tự tánh, hai thứ vô ngã :  Năm pháp là tướng, danh, phân biệt, chánh trí và như như.  Tướng danh là muôn pháp vậy.  Phân biệt, chánh trí là tác dụng của tâm hữu lậu vậy.  Như như là chân như vậy.  Ba tự tánh là phân biệt tính, y tha tính và chân thật tính, đối với ba đoạn giá trị quan của vạn hữu.  Hai thứ vô ngã là nhân vô ngã cùng pháp vô ngã, tức là ngã pháp hai không.

 

  1. Thức A-lại-Gia tánh hằng minh khiết.

 

            Nầy nhân vương !  tâm tánh vốn thanh tịnh, không thể nghỉ bàn; là kho tàng nhiệm mầu của các đức Như Lai, cũng như vàng ở trong mõ.  Ý thức từ tâm sanh, sáu cái khác cũng như thế.  Nhiều thứ như thế, ở trong thế pháp, thành ra có sự sai khác.   Nầy nhân Vương ! Thức A-lại-Gia, mặc dù cùng với năng huân và các tâm pháp, cho đến tất cả các hạt giống nhiễm tịnh vẫn đồng dừng ở; tánh hằng minh khiết, chủng tánh Như Lai, phải biết cũng lại như thế.  Định cùng bất định khác nhau, thể thường thanh tịnh, như biển thường trú, sóng cồn chuyển dời.  Thức A-lại-Gia cũng lại như thế; các quả vị tiệm tu, bực hạ bực trung và bực thượng có khác nhau; bỏ các tạp nhiễm, rồi được sáng hiện.

 

(Trích kinh Mật Nghiêm quyển thượng, huỳnh 8, tờ 31, bên trái).

 

Mục  II  -  Thức cùng muôn pháp

 

  1. Thức hay phát động muôn pháp.

 

            Đức Phật bảo Ngài Hiền Hộ  (Bhadrapàla) :  Vận chuyển của thức, dời, dứt, qua, lại, cũng như gió lớn; không sắc không hình, không thể hiển hiện; nhưng có thể tác động muôn vật, xem thấy các hình trạng khác nhau, hoặc lay động rừng rú, bẻ gảy xé rách, phát ra âm thanh lớn; hoặc bị lạnh bị nóng, xúc chạm đến thân chúng sinh, làm khổ làm vui, gió không tay chân, hình dáng, chân dung, cũng không các sắc đen, trắng, vàng, đỏ.

 

            Nầy Hiền Hộ !  Thức giới cũng như thế, không sắc, không hình, không có quang minh hiển hiện; vì nhân duyên đó, rõ bày các thứ công dụng lạ lùng sai khác.  Phải biết thọ giác pháp giới (1), cũng lại như thế : không sắc, không hình; do nhân duyên ấy mới hiển phát công dụng.  Nầy Hiền Hộ !  chúng sinh chết đây nhận chịu hiểu biết thức giới pháp giới, đều xã ly thân; thức vận dụng lãnh thọ pháp giới hiểu biết, người thọ thân khác; vì như có trận gió lớn thổi các hoa đẹp, hoa rơi ở đây, nhưng hương thơm bay đến phương trời xa; luồng gió không diệt được mùi thơm của hoa đẹp; mùi thơm, luồng gió và cùng thân căn đều không hình sắc, nhưng không phải sức gió, mùi thơm không xa đến.  Hiền Hộ ! thân chúng sinh chết, thần thức duy trì lảnh thọ sự hiểu biết trong pháp giới, nhẫn đến đời khác; do nhân duyên cha mẹ, mà thần thức gá nương; nhận lãnh hiểu biết trong pháp giới đều tùy nơi thức cũng lại như thế.  Cũng như từ sức thù thắng của hoa mà ta biết mùi, do sức thù thắng của mùi mà được cảnh thơm tho.  Lại nữa, như từ gió thân có một sức thù thắng, được sắc gió xúc chạm; nhơn sức gió thù thắng, mùi thơm được bay xa.  Như thế từ thức có thọ, từ thọ có hiểu biết, từ hiểu biết có các pháp, nên rõ biết thiện cùng bất thiện.

 

            Hiền Hộ !   Lại như họa sĩ khéo, khoa vẽ bản giấy, các chỗ bị vẽ, đúng như phép sáng sạch, tùy ý thi thiết, họa vẽ các hình.  Lúc ấy thức trí của người thợ đều không hình sắc, nhưng bị các hình dung khác lạ.  Thức trí như thế không hình, mà sinh 6 sắc (2) :  Nghĩa là nhân con mắt thấy sắc, nhãn thức không hình; nhơn lỗ tai nghe tiếng, tiếng không hình sắc; nhơn lỗ mũi biết mùi thơm, mùi thơm không hình sắc; nhơn lưỡi biết vị, vị không hình sắc; nhơn thân biết sự xúc chạm, sự xúc chạm không hình sắc; pháp vào các cảnh, thảy đều không hình; thức không hình sắc, cũng lại như thế.

 

(Trích kinh Đại Thừa Hiển Thức, quyển thượng, địa 12, tơ, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Thọ giác pháp giới :  Do thức mà có thọ, từ thọ mà có hiểu biết, từ hiểu biết có ra sự vật.  Ấy là muôn pháp duy thức.  Pháp giới (tức muôn loài) thành lập ở trên thọ giác mà biểu hiện.  Gọi đó là thọ giác pháp giới.

 

  1. 6 sắc  :  là  sắc,  thanh,  hương,  vị,  xúc,  pháp vậy.

 

  1. Sự dụng của Thức.

 

            Hiền Hộ !  Thức là nghĩa gì ?  Thức là hạt giống, hay sinh các loài tạp báo thân cũng như các mầm cây, hiểu biết tưởng niệm, đồng bao trùm với thức, biết khổ, biết vui, biết ác, biết thiện và cảnh thiện ác, nên gọi là thức.

 

            Hiền Hộ ! tự tánh của thức, khắp vào các chỗ; không bị chỗ nhiễm ô các xứ.  Sáu căn, sáu cảnh, năm phiền não ấm, thức khắp ngăn đó, không bị nhiễm kia; do đó mà rõ sự dụng của thức.

 

(Trích kinh Đại Thừa Hiền Thức, quyển thượng, địa 12, tờ 22, bên mặt).

 

  1. Tự tâm tức tất cả pháp.

 

            Các thiện nam !  các nghiệp hư vọng, tích tập gọi là tâm (1), mạt na (2) lo lường, ý thức (3) phân biệt, nhãn v..v…(4) năm thức, liễu cảnh không đồng.  Phàm phu ngu si, không thể hiểu biết; sợ già, bịnh, chết, cầu vào Niết-bàn; sanh tử cùng niết-bàn cả hai đều không thức; đối với tất cả cảnh vọng khởi phân biệt.  Lại do các giác quan đời vị lai, cảnh giới năm trần đoạn diệt; nhưng người phàm phu, dùng làm niết-bàn; các Phật Bồ Tát từ khi chứng ngộ, chuyển A-lại-Gia (5), đặng trí căn bản.

 

            Các thiện nam ! Tất cả phàm phu mê phương tiện của Phật, chấp có thật ba thừa (6);  không rõ ba cõi do tâm phát khởi; không biết tất cả Phật pháp trong tam giới (7); từ nơi tâm hiện lượng; thấy năm trần bên ngoài, chấp là thật có; cũng như trâu dê, không thể hiểu biết; trong con đường sinh tử, không do đâu xuất y.

 

            Các thiện nam !  Phật nói các sự vật, không sinh không diệt, cũng không ba đời.  Vì sao? Vì tâm mình hiện cảnh giới năm trần, vốn không có vậy; có không các sự vật vốn không sinh vậy, cũng như sừng thỏ (8) v.v….bậc Thánh tự ngộ cảnh giới như thế.

 

            Các thiện nam ! phàm phu ngu si, vọng khởi phân biệt, trong không chấp có, trong có chấp không, chấp chặc các loại hình tướng A-lại-Gia, bị sa vào trong hai loại chấp sanh diệt, không rõ tự tâm, mà khởi sự phân biệt.  Các thiện nam ! phải biết tâm mình, tức là tất cả pháp Phật và Bồ Tát; vì do biết tâm mình tức là Phật pháp, thì hay thanh tịnh (9) tất cả cõi, vào tất cả kiếp (10).  Vì thế cho nên, nầy các thiện nam !  nên dùng pháp lành để giúp đở tâm mình; phải dùng mưa pháp để thắm nhuần tâm mình; nên dùng pháp mầu để trị sạch tâm mình; phải dùng tinh tấn để kiên cố tâm mình; nên dùng nhẩn nhục để hạ thấp tâm mình; phải dùng thiền định, để thanh tịnh tâm mình; nên dùng trí tuệ để làm sáng rõ tâm mình; phải dùng Phật đức để phát khởi tâm mình; nên dùng bình đẳng để làm rộng rãi tâm mình; phải dùng thập lực, tứ vô sở úy để chiếu sáng tâm mình.

 

(Trích kinh Hoa Nghiêm :  Avasamakata Sùtra, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 6, thiên 5, tờ 22, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tâm :  thức tâm thứ 8 : citta tức là tích tập, vì là nơi chứa tất cả chủng tử.

 

  1. Mạt na (manas) :  thức thứ 7.  Tác dụng của thức mạt na là hằng thẩm tư lương.

 

  1. Ý thức :  manavijnàna, thức thứ 6.  Tác dụng kia phân biệt, các cảnh bên ngoài.

 

  1. Năm thức :  năm thức trước vậy :  năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay phân biệt với năm trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc.  Gọi đó là năm thức.

 

  1. Chuyển A-lại-Gia  : chuyển thức thứ 8 A-lại-Gia (Alayavijnàna) mà được đại viên cảnh trí.  Gọi đó là chuyển thức thành trí.  Chữ chuyển nghĩa là chuyển biến, bỏ phần tử hữu lậu trong thức, mà được phần tử vô lậu vậy.

 

  1. Ba thừa :  Thanh-văn thửa, Duyên-giác thừa và Phật thừa vậy.

 

  1. Tam giới tự tâm :  là tư tưởng căn bản của tam giới nhất tâm.  Tam giới nhất tâm là trung tâm tư tưởng của kinh Hoa Nghiêm.

 

  1. Sừng thỏ : cùng lông rùa đồng nhau, ý nói vậy nầy không có.

 

  1. Tịnh tất cả cõi : Khi ngộ tâm mình tức là Phật pháp, mười phương đều thanh tịnh, ba đời đều thông suốt.

 

  1.  :   Vào tất cả kiếp :  nghĩa là thông suốt ba đời vậy.

 

  1. Hiện thức và phân biệt sự thức.

 

            Nầy Đại Huệ !  Về thức nới rộng đầy đủ có 8, nói lược chỉ có hai :  tức là hiện thức (1) và phân biệt sự thức.  Đại Huệ !  như trong tấm gương sáng, hiện các hình sắc, hiện thức cũng như vậy.  Đại Huệ !  Hiện thức cùng phân biệt sự thức, hai thức nầy tướng không khác, lẫn nhau làm nhơn.  Đại Huệ !  Hiện thức dùng huân biến bất tư nghị (2) làm nhân; phân biệt sự thức để phân biệt cảnh giới và tập khí (3) hí luận từ vô thỉ làm nhân.

 

(Trích kinh Nhập Lăng Già, phẩm Tập Nhất Thiết Pháp, huỳnh 6, tờ 87, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Hiện thức, phân biệt sự thức :  Hiện thức là thức thứ 8 biến hiện các sự vật.  Phân biệt sự thức tức là bảy thức trước phân biệt các thứ cảnh giới.

 

  1. Huân biến bất tư nghị : huân bất tư nghị và biến bất tư nghị.  Vô minh ở như lai tạng ảnh hưởng không kịp là bất tư nghị huân.  Như lai tạng nương ảnh hưởng kia rồi hiện thành tạng thức, gọi là bất tư nghị biến.  Như lai tạng thường trụ không thay đổi, nhưng lay động gọi là bất tư nghị.

 

  1. Tập khí :  từ vô thỉ đến nay, tâm phân biệt cảnh giới hoạt động vẫn còn dấu vết chứa đựng trong ấy tức là chủng tử, vô số chủng tử chứa ở trong tạng thức vậy.

 

  1. Sự đồng và khác của thức, cùng tạng thức :

 

            Nầy Đại Huệ !  chuyển thức (1) tạng thức, nếu khác thì tạng thức không phải nhân kia; nếu không khác thì chuyển thức diệt, tạng thức cũng phải diệt; song chân tướng kia không diệt.  Đại Huệ !  chân tướng thức không diệt, nhưng nghiệp tướng (2) diệt;  nếu chân tướng (3) diệt thì tạng thức phải diệt.

 

(Trích kinh Nhập Lăng Già, phẩm Tập Nhất Thiết Pháp, huỳnh 6, tờ 87, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Chuyển thức :  Do tạng thức bị chủng tử chứa ở trong rồi các thức hiện bày, tức do thức của tạng thức chuyển biến vậy.

 

  1. Nghiệp tướng :  tướng đầu tiên trong tạng thức hiện bày các hình tượng.

 

  1. Chân tướng :  bản chất, tướng của tư thể tạng thức.

 

 Mục   III  -  Như Lai Tạng cùng tạng thức.

 

  1. Như Lai tạng có tên tạng thức:

 

            Phật bảo Ngài Đại Huệ !  tạng của Như Lai là nhơn thiện và bất thiện có thể khắp phát khởi tạo tất cả đường sống.  Thí dụ như kẻ kỷ-nhi, thay đổi hiện các đường, lìa ngã cùng ngã sở.  Vì bất giác (1) kia, ba duyên (2) hòa hiệp, phương tiện mà sống.  Ngoại đạo không hiểu biết cho là có tác giả (3), bởi vì từ vô thỉ hư ngụy do các ác tập bi huân, gọi là thức tạng; sanh ra vô minh trụ địa (4), cùng 7 thứa đồng câu, thân như sóng biển, thường nổi lên không gián đoạn, lìa vô thường quá (5), lìa nơi ngã luận.

 

            Vì thế cho nên, nầy Đại Huệ :  các vị đại Bồ Tát muốn cầu thẳng tiến cần phải thanh tịnh Như Lai tạng và tạng thức danh.  Đại Huệ ! nếu không tên thức tạng, như lai tạng thì không sinh diệt.  Đại Huệ !  Song các vị phàm thánh đều có sinh diệt.  Người tu hành phải tự biết đến quả thánh, hiện ưa vui pháp an trụ, không bỏ phương tiện (6).  Đại Huệ !  Như Lai tạng, thức tạng nầy, tất cả tâm tưởng của Thinh-Văn, Duyên-Giác đả nhận thấy; mặc dù tự tánh thanh tịnh, khách trần bị che ngăn, còn thấy bất tịnh, không phải (7) các Như Lai.  Đại Huệ !  Như Lai nhìn cảnh giới hiện tiền, cũng như xem trái a ma lặc trong bàn tay.

 

Như Lai tạng thật sâu sắc,

Nhưng cùng bảy thức đều mắc vào nhau;

Hai (8) thứ nhiếp thọ trước sau,

Bậc trí thì phải mau mau xa lìa.

Như lòng hiện cảnh gương kia,

Vô thỉ huân tập làm bia lâu đời;

Như thật quán sát kịp thời,

Mọi việc đều phải không rời có không.

Thường nhân chỉ thấy tây đông,

Xem tây không chịu ngó trông trăng vàng;

Chấp nê danh tự hoang đàng,

Không thấy chân ngã rõ ràng đường tu.

Tâm là ca sĩ công phu.

Ý như người xướng dương du cảnh trần,

Năm thức là bạn chí thân,

Vọng tưởng quán sát các phần hợp ca.

 

(Trích kinh Lăng Già : Lankavatàra sùtra, phần thứ 4, của phẩm Nhứt Thiết Phật Ngữ Tâm, huỳnh 6, tờ 25, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Vì kia không biết :  Kia tức là kỷ nhi, biến hiện nhiều đường, lìa ngã cùng ngã sở.  Ngã là chổ quan của thật thể; ngã sở là khách quan của thật thể vậy.

 

  1. Ba duyên : ngã, căn , cảnh ba việc phương tiện hòa hợp.  Trung tâm của ba duyên tức là ngã vậy.

 

  1. Tác giả :  Ngoại đạo cho rằng thế giới có đắng tạo vật.  Nghĩa là có một vị sinh ra muôn vật.

 

  1. Vô minh trụ địa  :  tức là căn bản vô minh, chỗ nương tụa của tất cả phiền não vậy.

 

  1. Vô thường quá ngã luận : Tạng thức thường hằng không gián đoạn nhưng tương tục, lìa lỗi vô thường cũng không phải như ngoại đạo đã nói cái ngã thường trụ.

 

  1. Không bỏ phương tiện :  Vì người tu hành trong quán có chỗ hiểu biết, ưa trụ vào hiện pháp nên luôn luôn tinh tấn không bỏ.

 

  1. Không phải các Như Lai :  Câu nầy hơi điên đảo.  Tức là nói như lai tạng cùng tạng thức, tuy tự tánh thanh tịnh, khách trần bị che vậy !  Thinh-văn, Duyên-Giác thấy đó cho là bất tịnh, Như Lai thì không như thế.

 

  1. Hai thứ nhiếp thọ :  năng thủ, sở thủ, tức là chủ quan và khách quan vậy.

 

  1. Như lai tạng cùng thức A-lại-Gia không sai khác.

 

Phật nói Như Lai tạng

Dùng làm A-lại-Gia;

Ác huệ không thể biết,

Tạng tức A-lại-Gia.

Như  lai thanh tịnh tạng,

Thế gian A-lại-Gia;

Như vàng cùng chiếc nhẳn,

Triển chuyển không sai khác.

 

 

THIÊN DƯỚI NÓI VỀ THẬT TƯỚNG CỦA VẠN HỮU

Tiết  I  -  Chánh Quán Vạn Hữu

 

Mục  I  -  Pháp không hữu vi

 

  1. Sự sai khác của sáu giới :

 

           Một hôm vua Tịnh Phạn vừa gặp lại đức Như Lai vì sự quá thương mến và ngưỡng mộ, nên tâm ý hết sức tinh cần.  Lúc bấy giơ đức Thế Tôn biết tâm ý của phụ vương đang tha thiết ngưỡng mộ.  Ngài tâu với phụ vương rằng :  “Đại Vương !  Tôi đang thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa là rất nhiệm mầu, một tướng thanh tịnh, trọn đầy phạm hạnh.  Hôm nay là giờ chính phải nói sự phân biệt sáu giới (1) và sai khác phần vị pháp môn.  Xin Đại Vương lắng nghe và suy nghỉ kỷ”.  Khi ấy vua Tịnh Phạn liền bạch Phật rằng :  :Quí hóa thay Thế Tôn ! chí thành muốn nghe, xin vì tôi mà giảng thuyết ! tôi xin ghi nhớ tin thọ”.

 

           Đức Phật nói :  “Tâu Đại Vương !  sáu ranh giới như thế, sáu chỗ đụng chạm (2), mười tám ý (3) chỗ tìm cầu về bổ rô sa (4) làm duyên mà đặng sanh.  Thế nào gọi là 6 ranh giới, như là :  địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.  Thế nào gọi là 6 chỗ đụng chạm ? --  Nghĩa là chỗ mắt tiếp xúc rồi thấy sắc, hoặc chỗ tai tiếp xúc được nghe tiếng kia, hoặc chỗ mũi tiếp xúc có thể ngửi mùi thơm, hoặc chỗ lưỡi tiếp xúc được nếm mùi vị kia, hoặc chỗ thân tiếp xúc đích thực biết được sự xúc chạm kia, hoặc chỗ ý tiếp xúc thì biết được pháp trần (5).  Thế nào gọi là mười tám chỗ ý tìm cầu ?  Nghĩa là mắt thấy sắc rồi, hoặc sanh ưa thích, hoặc sinh lo buồn, hoặc trụ nơi Xả (6).  Sáu căn như thế, mỗi căn duyên cảnh bên ngoài ưa, chán, bỏ ba việc.  Ấy gọi là mười tám chỗ ý tìm cầu….”.

 

(Trích kinh Phụ Tử Hiệp Tập, quyển thứ 16, phẩm lục Giới Sai Biệt, địa 10, tờ 54, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Sáu giới :  địa, thủy, hỏa, phong, không, thức, gọi đó là sáu giới.  Hoặc sáu cảnh đối tượng của tất cả trong ngoài vậy.

 

  1. Sáu chỗ đụng chạm  :  sáu căn của mắt,  tai,  mũi,  lưỡi,  thân.  Ý dồng tiếp xúc ngoại giới.

 

  1. Mười tám ý :  trạng thái ý thức của sáu căn tiếp xúc sáu giới mà phát khởi, thấy nói rõ ở đoạn sau.  Mỗi thứ có khổ, vui,  xả ba thứ cảm giác, hiệp lại thành 18.

 

  1. Bổ rô sa  :  purusa dịch là trượng phu.  Kinh điển gọi là “nhân”, hoặc gọi là “ngã”.  Thường gọi là linh hồn.

 

  1. Pháp :  đối tượng của ý thức, tất cả, tức là tất cả bị thâu nhiếp trong ý thức.  Bởi vì trong ý thức bao trùm tất cả vũ trụ vậy.

 

  1. Xả :  Hai mối không khổ không vui, hoặc gọi là bất khổ bất lạc.  Thích-duyệt là thuận ý.  Tức là vui.  Ưu não là nghịch ý.  Tức là khổ.  Không khổ, không lạc tức là Xả.

 

  1. Pháp hữu vi như mộng huyễn

 

Các pháp thế gian thuộc hữu vi (1)

Như đương ngon giấc mộng (2) đông thùy;

Như đồ giả dối không bền chắc,

Như bọt tiêu tan mất cấp kỳ.

Như bóng bên mình không lai có,

Như sương trên cỏ nắng còn chi;

Như luồng điện nhoáng không tồn tại,

Nhận thấy như vầy mới thật tri.

 

(Trích kinh Kim Cang Bát Nhã :  Vajracchedikàpràj-napàramitàsùtra, Nguyệt 9, tờ 22, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Hữu vi  :  Chữ vi nghĩa là tạo tác.  Pháp hữu vi do nhân duyên mà tạo tác, nhưng có sinh diệt biến hóa vậy.  Trong trời đất tất cả hiện tượng hữu hình, vô hình đều là pháp hữu vi vậy.

 

  1. Như mộng v.v.. Trong tất cả trời đất đều có sanh diệt, không thường trụ; đây là bao quát chỉ cho rốt ráo ý “không”, nên dụ như chiêm bao, như huyễn hóa v.v…..

 

  1. Có và không.

 

            Luận về có (1) tức luận không, cũng như hai (2) chiếc gỗ, cọ sát nhau đúng mức sinh ra lửa, lửa trở lại đốt cây, lửa và cây đều không tắt, hai việc trở thành không.

 

(Trích kinh Lục Độ Tập, chương Bố Thí Độ, trụ 5, tờ 62, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Có  :  nghĩa là ở trên nhơn duyên hòa hợp, tồn tại trong một thời gian vậy.

 

  1. Hai chiếc gỗ :  Ví như sự tương hợp của nhân cùng duyên, nhân duyên tương tập, một thời hiện tượng phát lửa; trải qua thời gian cùng biến hóa tương đương, nhưng chung qui trở về không vậy.

 

  1. Đối với 12 nhân duyên mà được chân trí:

 

           Thế nào gọi là duyên trí ?  Vô minh (1) duyên hành, vô minh không nghĩ rằng :  ta khởi ra hành.  Hành duyên thức, hành không nghĩ:  ta khởi ra thức.  Thức duyên danh sắc, thức không nghĩ rằng :  ta khởi ra danh sắc.  Danh sắc duyên lục nhập, danh sắc không bao giờ nghĩ :  ta phát khởi lục nhập.  Lục nhập duyên xúc, lục nhập không nghĩ rằng : ta khởi ra xúc.  Xúc duyên thọ, xúc không nghĩ rằng : ta khởi ra thọ.  Thọ duyên ái, thọ không bao giờ nghĩ : ta khởi ra ái.  Ái duyên thủ, ái không nghĩ : ta khởi ra thủ.  Thủ duyên hữu, thủ không khởi ra niệm rằng : ta khởi ra hữu.  Hữu duyên sanh, hữu không nghĩ rằng:  ta khởi ra sanh.  Sanh duyên lão tử, sanh không nghĩ rằng : ta khởi ra lão tử.  Lão tử duyên bi khổ não, lão tử không bao giờ nghỉ rằng :  ta khởi ra ưu bi khổ não.

 

           Nếu Bồ Tát hay quán 12 nhân duyên, không bị đọa lạc các kiến chấp, hoặc đoạn kiến (2), hoặc thường kiến, Bồ Tát nghĩ như vầy:  Sự vật tùy thuộc các duyên; xét tìm các duyên thì không thể được; tức là ở trong 12 nhân duyên mà được chân trí.

 

           Thế nào gọi là chân trí?  Biết pháp 12 duyên sinh, đồng với vô sanh (3).  Vô sanh đồng với không, vô tướng, vô tác.  Không, vô tướng, vô tác, đồng các pháp duyên sinh.  Chỗ diệu dụng của Như Lai, bình đẳng tất cả pháp, pháp ấy đồng với pháp 12 duyên sinh.  Pháp 12 duyên sinh, không có pháp sinh; do đó, nên nói phải thấy 12 duyên sinh không sinh, 12 duyên trí không sinh, tức là 12 duyên trí sinh.

 

           Minh (4) cùng vô minh không hai; người biết như thế thì biết pháp duyên sinh.  Hành cùng chẳng phải hành không hai; người biết như thế thì biết pháp duyên sinh.  Thức cùng phi thức không hai; người biết như thế thì biết được pháp duyên sinh.  Danh sắc cùng phi-danh sắc không hai; người biết như thế thì biết được pháp duyên.  Lục nhập cùng phi lục nhập  không hai, người biết như thế thì biết pháp duyên sinh.  Xúc cùng phi xúc không hai, người biết như thế thì biết pháp duyên sinh.  Thọ cùng phi thọ không hai; người hiểu biết như thế thì biết được pháp duyên sinh.  Ái cùng phi ái không hai; người hiểu biết như thế thì biết pháp duyên sinh.  Thủ cùng phi thủ không hai, người hiểu biết như thế thì biết pháp duyên sinh.  Hữu cùng phi hữu không hai, người hiểu biết như thế thì biết pháp duyên sinh.  Sanh cùng phi sanh không hai; người hiểu biết như thế thì biết được pháp duyên sinh.  Lão tử cùng phi lão tử không hai; người biết được như thế thì biết được pháp duyên sinh.

 

           Người từ duyên sinh, không có chỗ ấy.  Người từ duyên sinh thì là vô ngã, thì là không vậy.  Người từ duyên sinh thì là vô lai khứ; người từ duyên sinh thì không chân thật; người từ duyên sinh thì không nhất tướng; người từ duyên sinh thì không sở hành; ai mà hiểu biết như thế gọi là trí duyên sinh.  Người mà thấy được pháp duyên sinh, không thấy vô minh, không thấy hành, không thấy thức, không thấy danh sắc, không thấy lục nhập, không thấy xúc, không thấy thọ, không thấy ái, không thấy thủ, không thấy hữu, không thấy sanh, không thấy lão tử.  Nếu người thấy pháp như thế, ấy gọi là pháp duyên sinh.  Ấy gọi là thấy pháp.

 

(Trích kinh Tự Tại Vươn g Bồ Tát; quyển thượng, huyển 9, tờ 49, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Vô minh v.v…Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử hợp lại thành pháp 12 nhân duyên sinh.  Hoặc nói rằng pháp 12 duyên khởi, suy cứu chỗ phát khởi sanh, già chết nương nhau, ở trong vô minh, hành để tìm căn nguyên kia vậy.  “Vô minh không nghỉ rằng”, mười hai pháp đều có lời nói tương tợ như thế, nhưng triển chuyển duyên sinh, bởi vì nhân duyên hòa hợp, mình có tất cả pháp vậy.

 

  1. Đoạn kiến. thường kiến  :  vì vô ngã, nên không sa vào thường kiến, vì nhân duyên nên không sa vào đoạn kiến.

 

  1. Vô sanh  :  Do không mà sinh ra có gọi là sanh, từ có mà trở về không gọi là diệt.  Do nhân duyên mà vô minh biến chuyển hành, hành chuyển thức, biến chuyển tự tại, nhưng vĩnh viễn là vô sanh, là không, là vô tướng, là vô tác.

 

  1. Minh cùng vô minh không hai v.v… Minh cùng vô minh là một.  Y theo pháp duyên sinh mà quán sát thì không hai; do duyên mà minh, chỉ là vô minh, thể kia không hai vậy.

 

  1. Pháp đệ nhất tối không, pháp nhân duyên giả hiệu:

 

           Lúc bấy giờ, đức Phật ngự tại nước Xá Vệ, cây của Thái Tử Kỳ Đà, vườn của đại thần Cấp Cô Độc.  Khi ấy đức Thế-Tôn bảo các Tỳ-kheo : “ta nay phải nói pháp đệ nhất tối không (1), các vị khéo suy nghĩ !”.  Các Tỳ-kheo thưa rằng : “Vâng, bạch đức Thế-Tôn!” Lúc ấy các Tỳ-kheo theo Phật thọ giáo.  Đức Thế-Tôn dạy rằng : “Thế nào gọi là pháp đệ nhất tối không ?  Nếu khi con mắt khởi thì khởi, cũng không thấy chỗ đến, khi diệt thì diệt, cũng không thấy chỗ diệt, trừ pháp giả hiệu (2),  pháp nhân duyên.

 

           Thế nào gọi là nhân duyên giả hiệu ? Có chỗ nói đây (3) có thì kia có, đây sanh thì kia sanh.  Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên (4) cánh lạc, cánh lạc duyên thống (5), thống duyên ái, ái duyên thọ (6), thọ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên tử, tử duyên sầu khổ ưu não, không thể tính kể.  Khổ ấm như thế, thành nhân duyên nầy.  Đây không (7) thì kia không, đây diệt thì kia diệt.  Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì cánh lạc diệt, cánh lạc diệt thì thống diệt, thống diệt thì ái diệt, ái diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì tử diệt, tử diệt thì sầu ưu khổ não thảy đều diệt, dứt hết pháp giả hiệu.  Còn các pháp tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế :  khi khởi thì khởi, cũng không biết chỗ đến, khi diệt thì diệt cũng, không biết chỗ diệt, trừ pháp giả hiệu kia…………….

 

           Cũng như sự ma xát cọ cây lấy lửa, vì sự ma xát đụng chạm quá sức, sau đó lửa mới sanh; lửa cũng không từ cây mà ra, cũng không lìa cây mà có.  Nếu lại có người chặt cây tìm lửa cũng không thể được.  Đều do nhân duyên hòa hợp, rồi sau mới có lửa.  Sáu tình (8) nầy phát khởi ra bịnh cũng lại như thế.  Đều do nhân duyên tổ hợp, ở trong đó khởi bịnh.  Sáu nhập nầy khi phát khởi, cũng không thấy đến; khi diệt thì diệt, cũng không thấy diệt.  Trừ ngoài pháp giả hiệu kia, vì do cha mẹ giao hợp mà có.”

 

(Trích kinh Tăng Nhất A-Hàm :  Ekottaràgama Sùtra, quyển thứ 36, phẩm Trọng, hạo 2, tờ 49, bên mặt và trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Pháp đệ nhất tối không :  các sự vật do nhân duyên sinh ra, không có chi la thật thể, nên gọi là pháp không.

 

  1. Pháp giả hiệu :  Pháp giả là đối với chân pháp mà nói.  Phật giáo quán sát muôn sự vật là không, mà phủ nhận tất cả chân pháp.  Do nhân duyên hòa hợp mà có muôn pháp; gọi đó là giả pháp, nên lìa thường kiến.

 

  1. Đây có thì có, đây sinh thì sanh  :  Đây có thì kia có, là quan hệ về bề ngang; đây sanh thì kia sanh, là quan hệ về bề dọc.  Kia đây lẫn nhau làm nhân duyên, không ngoài hai thứ quan hệ ngang dọc nầy vậy.
  2. Cánh lạc  ;  dịch khác của chữ xúc vậy.

 

  1. Thống  :  dịch khác của chữ thọ vậy.

 

  1. Thọ  :  dịch khác của chữ thủ.

 

  1. Đây không thì không, đây diệt thì diệt  :  Đối văn trước : đây có thì có, đây sinh thì sinh mà nói.  Ở trước nói là muôn sự vật tồn tại sinh khởi; ở đây thì nói muôn sự vật hoan diệt trở về không.  Trước là quán thuận của 12 nhân duyên.  Đây là quán nghịch của 12 nhân duyên.  Trước là do đường tắt của mê mà đến.  Đây là do con đường tắt của sự giác ngộ mà đến vậy.

 

  1. Sáu tình  :  Mắt,  tai,  mũi,  lưỡi,  thân,  và ý.

 

 

  1. Nhân duyên kiến lập nghĩa không

 

           Nầy các thiện nam  !  Vì nhân duyên gì kiến lập nghĩa không ?  Bởi vì muôn diệt phiền não, từ vọng tâm sanh, mà nói là không.

 

           Các thiện nam  !  nếu người nào chấp lý không là rốt ráo, tánh không cũng không; chấp không thành bịnh, cũng phải dẹp trừ.  Vì sao ?  Bởi vì nếu người nào chấp nghĩa không là rốt ráo, các sự vật đều không, không nhân không quả thì đâu có khác gì lối chấp của phái Gìa Gia Đà (1) !

 

(Trích kinh Tâm Địa Quán, phẩm phát tâm Bồ Đề thứ 8, vũ 2, tờ 78, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Lộ Già Gia Đà  :  Lokayata dịch là Thuận Thế Ngoại Giao.  Là một phái đề xướng thật hành cực đoan Duy Vật Luận.

 

  1. Không-kiến chẳng trừ phải quán chân thật :

 

“….Nầy Ca Diếp  !   người quán chân thật, chẳng dùng không vậy, khiến các pháp không; nhưng pháp tánh tự không.  Chẳng dùng vô tướng, nên khiến pháp không tướng, nhưng pháp tự không tướng.  Chẳng dùng vô nguyện, khiến pháp không nguyện; nhưng pháp tự không nguyện.  Chẳng dùng vô khởi, vô sanh, vô ngã, vô thủ, vô tánh vậy, khiến pháp không khởi, không thủ, không tánh, nhưng pháp tự không khởi, không thủ, không tánh.  Ai quán như thế, gọi là thật quán.  Lại nữa, nầy Ca Diếp !  vì không phải vô nhân, nên gọi là không, nhưng không tự không.  Tiền tế (1) không, hậu tế không, trung tế cũng không, phải nương nơi không, chớ nương nơi người; nếu dùng cái không, lại nương nơi không; lúc ấy Phật pháp, phải bị thối đọa.

 

           Như thế, nầy Ca Diếp !  thà khởi ngã kiến (2), chứa như tu di; không nên dùng không kiến, khởi tăng thượng mạn.  Vì sao thế ?   vì tất cả các chấp, dùng không được giải thoát; nếu khởi không kiến, thì không thể trừ.  Ca Diếp !  Như vị bác sĩ trao thuốc, khiến bịnh nhiễu động; thuốc ấy ở trong, không ra ngoài.  Ý ông nghĩ sao ?  bịnh nhân như thế, há có sai không ?”  “Chẳng như vậy, bạch Thế Tôn !  thuốc ấy không ra, bịnh kia càng tăng thêm”.  “Như thế đó, nầy Ca Diếp !  Tất cả các kiến chấp, chỉ không hay diệt; nếu khởi không kiến, thì không thể trừ.

 

(Trích kinh Đại Bửu Tích :   Mahàratnakùta Sùtra, hội Phổ Minh Bồ Tát, địa 6, tờ 57, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tiền tế, trung tế, hậu tế  :  cũng như nói quá khứ, hiện tại, vị lai tức là ba đời vậy.

 

  1. Ngã kiến, không kiến :  kiến nghĩa là hiểu biết, kiến giải v.v…. tư tưởng nhận thức vậy.  Ngã kiến là dùng ngã (tức linh hồn) là tư tưởng không kiến của nguyên lý thứ nhất, dùng không là tư tưởng của nguyên lý thứ nhất vậy.

 

Mục  II  -  Vạn Pháp Vô Ngã

 

  1. Thế nào gọi là Sa Môn ?

 

Tất cả nguồn gốc các pháp,

Do nhân duyên không vô chủ (1)

Dứt vọng tâm thông nguồn gốc,

Cho nên gọi là Sa Môn.

 

(Trích kinh Trung Bổn Khởi, quyển thượng, thời 10, tờ 53, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Vô chủ :  đồng với chữ vô ngã, các pháp vô thường, vô ngã, không, y theo nhân duyên mà có sinh diệt vậy.

 

 

  1. Tâm tướng không thể được.

 

           Tâm đi như gió, không thể bắt được.  Tâm như nước chảy, sanh diệt không trụ.  Tâm như đèn sáng, các duyên có vậy.  Tâm ấy như chớp, mỗi niệm diệt trừ.  Tâm như hư không, khách trần nhiễm ô.  Tâm như vượn khỉ, tham lam lục dục.  Tâm như họa sư, hay khởi các thứ nghiệp nhân duyên.  Tâm không nhất định, theo đuổi các thứ phiền não.  Tâm thường độc hành, không hai không bạn, không có hai tâm đồng khởi một thời.  Tâm như oán gia, hay cùng tất cả các khổ não vậy.  Tâm như voi cuồng, đạp ngã các nhà đất, hay phá hoại tất cả các căn lành.  Tâm như cá nuốt câu, trong khổ sinh tưởng an vui.  Tâm ấy như chiêm bao, trong không có ngã sanh lòng tưởng là ngã.  Tâm cũng như con lầu xanh, ở trong đồ bất tịnh mà tưởng là tịnh vậy.  Tâm cũng như ác tặc, hay cùng các thứ khảo tra đau khổ.  Tâm như ác quỷ, tìm người sai khiến.  Tâm thường cao thấp, tham  lam, giận tức bị phá hoại.  Tâm như trộm cướp, cướp tất cả căn lành.  Tâm thường tham sắc, như châu chấu nhảy vào lửa.  Tâm thường tham tiếng, như quân đội đi theo tiếng trống chiến thắng.  Tâm thường tham mùi như loài heo ưa thích nằm trong đồ bất tịnh.  Tâm thường tham xúc, cũng như con lằn đắm trước mùi hôi.  Ca Diếp !  cầu tâm tướng ấy, không thể được.

 

(Trích kinh Đại Bửu Tích, hội Phổ Minh Bồ Tát, địa 6, tờ 59, bên mặt).

 

  1. Như Lai không nói nhất định có chúng sinh.

 

           Như Lai không nói nhất định có chúng sinh, cũng không nói quyết định không chúng sinh.  Như Lai chỉ nói tất cả các sự vật, do nhân duyên sanh, từ nhân duyên diệt.  Thế nào gọi là sự vật do nhân duyên sanh diệt ?  Tức là nhân kia có nên có đây, kia sanh rồi đây sanh, kia không nên đây không, kia diệt rồi đây diệt.  Nếu tất cả pháp từ nhân duyên sanh ra, tại sao quyết định nói có phú già la (1) ?  Vì nhân duyên ấy, Như Lai không nói nhất định có chúng sinh.

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Phú Già La  :  Pudgala, xưa dịch là chúng sinh, lại dịch là ngườì, bản mới dịch là sát thủ thú.

 

  1. Thân mình có không:

 

           Thuở xưa có một người, chịu sai khiến đi xa, đêm về, một mình ngũ trọ trong nhà trống.  Nữa đêm có một con quỷ, mang thây người chết đến để trước mặt.  Sau đó có một con quỉ khác đuổi vào giận mắng quỉ trước rằng : “Đây là thây chết của tao cho, tại sao mầy mang đến đây ?” Hai con quỉ mổi bên nắm một tay tranh cải om sòm !  Con quỉ trước nói : “Có người nầy, nên hỏi, thây chết nầy ai mang đến đây ?” Người ấy suy nghĩ :  hai con quỉ nầy có một sức mạnh kinh khủng nếu nói thật cũng phải chết; nếu nói láo cũng bị chết.  Cả hai đều không khỏi chết, giờ đây cứ nói thật là hơn.  Ông ta nói : “Anh quỉ trước nãy mang đến”.  Con quỉ sau lửa giận tức bốc lên, xé tay liệng trên mặt đất.  Con quỉ trước liền lấy tay của thây chết ráp vào.  Rồi đến hai chân, đầu, vai ráp lại các bộ phận.  Lúc ấy hai con quỉ cùng ăn phần vụn, các thứ thay đổi thân người rồi chùi miệng mà đi.

 

Người kia suy nghĩ :  cha mẹ sanh ra thân ta, nhìn thấy hai con quỉ thay đổi rồi ăn thịt hết; nay thân nầy của ta đều là thịt thuộc thân người khác.  Ta nay quyết định có thân ư ?  hay là không thân ?  nếu là có đều là thân người khác; nếu không sao có thân thể nầy.  Vì suy nghĩ thái quá; tâm người kia trở nên mê muộn, chẳng khác nào người cuồng loạn.  Sáng hôm sao tìm đường đi mà tâm thần bất định.  Người đó đến nước khác, thấy có chùa tháp và chúng tăng, không thể hỏi vấn đề chi khác mà chỉ hỏi thân mình có hay không ?  Các tỳ-kheo hỏi : “Ông là người nào ?” Người kia đáp : “Cũng không từ biết là người hay không phải người”.  Liền vì chúng tăng, ông kể rõ việc trên.

 

           Các vị tỳ-kheo nghĩ rằng : người nầy tự biết vô ngã, chắc là dễ độ, liền nói rằng : “Thân ông từ xưa đến nay, hằng tự vô ngã, chẳng phải mới hôm nay vậy.  Chỉ do 4 đại hòa hợp rồi cố chấp cho là thân ta”.  Các tỳ-kheo liền độ cho ông ta tu hành làm đạo, đoạn các phiền não, liền chứng được con đường La Hớn (1).  Đây là hay chấp vô ngã hư dối, đắc đạo không xa.

 

(Trích kinh Soạn Tạp Thí Dụ, quyển Thượng, thự 6, tờ 9, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. La-Hớn  :   Lược nói chữ A-la-Hán, dịch là Ứng cúng, có nghĩa là hợp tư cách cho người cúng dường vậy.

 

  1. Không rõ  Duy Thức vọng chấp ngã kiến.

 

           Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Bồ Tát Như Thật Kiến rằng :  “Nhân giả !  Ở trong núi tuyết, có một con ác thú.  Tên là Năng Hai, biến dối trăm nghìn cách để bắt các loài cầm thú, giết mà ăn thịt.  Nếu thấy loài hưu nai có con, nó giả tiếng kêu buồn thảm tương tợ.  Nếu nhìn loài lộc, liền hiện có sừng giống nhau để đến làm bạn thân cận mật thiết; Các loài kia không sợ hải, nên bị giết và bị ăn thịt.  Thấy trâu, ngựa, v.v… các loài thú lớn đều hòa đồng các hình kia để buông lung làm việc sát hại !

 

           Nầy hành giả !  Tất cả ngoại đạo, đối với A-lại-Gia bị sanh là ngã kiến (1), cũng lại như con ác thú kia, biến hóa các hình trạng.  Chấp trước người của ta, bị chấp ngã tướng mỗi mỗi sai khác, cho đến vật rất nhỏ, cũng như vi trần (2).

 

           Các ngoại đạo v.v….. không rõ Duy Thức; sanh ra ngã kiến, không biết pháp trí, rồi cưỡng phân biệt, chấp trước có không, hoặc một hoặc nhiều, luận về ngã cùng ngã sở (3).  Cũng như loài ác thú kia, phần nhiều bị giết hại.  Đây cũng như thế :  khiến các chúng sanh, ở trong đường sinh tử, kinh hải ruổi chạy qua lại …..

 

(Trích kinh Đại Thừa Mật Nghiêm; quyển ba, phẩm Tự Thức Cảnh Giới, huỳnh 8, tờ 40, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Ngã kiến :  Do thức thứ 7 chuyển biến chủng tử trong thức A-lại-Gia, chủ quan dùng làm khách quan, rồi khởi ra “ngã kiến”, phân biết tự và tha.

 

  1. Vi trần  :   ngoại đạo dùng thể của “ngã”  cũng như tư tưởng vi trần.

 

  1. Ngã, ngã sở  :  Ngã là chủ quan của thật thể;  ngã sở là các vật tùy thuộc nơi ngã, tức là tất cả ranh giới thuộc khách quan vậy.

 

  1. Thân Như Lai cũng do nhân duyên sinh :

              Nầy các thiện nam !   Thân của các đức Như Lai, cũng lại như thế, không có pháp nhất định.  Không từ 10 phương đến, cũng không phải không nhân mà có; vì do hạnh nguyện trước phước báo mới sinh, các duyên hòa hợp thì có, các duyên tan rã thì không.  Các thiện nam !  ví như tiếng hay của cây đàn tranh, đến không từ đâu đến, đi cũng không đi về đâu; tùy thuộc các nhân duyên, có dây, có bảng(1), có phiếm, có tay của nhạc sĩ khảy nó.  Các duyên hợp lại thì có tiếng, tiếng ấy không từ dây đàn, bảng của đàn, phiếm đàn hay ngón tay của nhạc sĩ phát ra, mà là do các duyên hợp lại mới có tiếng đàn, nhưng cũng không phải tự nhiên; các duyên tan thì nó dứt, mà không phải từ một chỗ nào đến.  Các thiện nam !  Các thân Như Lai, cũng lại như thế; thuộc các nhân duyên, do vô lượng phước thành tựu.  Không phải từ phước đức của một nhơn, một duyên sinh ra, cũng chẳng  phải không nhân duyên mà có; do nhiều nhân duyên hợp lại thì có, các duyên tan thì diệt, không chỗ đi và đến.

              Các thiện nam !  phải nên quán sát tướng lai khứ của Như Lai như thế, cũng nên quán tướng các pháp như thế.  Các thiện nam !  nếu các ông quán các Như Lai như thế và tất cả sự vật, không lai không khứ, không sinh, không diệt, quyết đến quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ được rõ thông phương tiện trí tuệ đến bờ bên kia.

 

(Trích kinh Bát Nhã Ba La Mật (tiểu phẩm), phẩm Đàm Vô Kiệt thứ 28, nguyệt 6, tờ 86, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Bảng  :  khoảng trống các dây, chỗ hai mặt tương cách.

 

Mục   III  -  Chánh Quán Bát Nhã

 

  1. Bồ Tát chánh quán các pháp:

 

           Thế nào gọi là đại Bồ Tát chánh quán các pháp ?  Các thiện nam !  nếu Bồ Tát khởi quán sát như vầy   :  tất cả sự vật cũng như huyễn hóa, vì mê lầm phàm phu.  Tất cả các pháp như chiêm bao không thật.  Tất cả sự vật cũng như mặt trăng dưới nước, không phải sự thật.  Tất cả các pháp cũng như tiếng vang, chẳng phải chúng sinh.  Tất cả sự vật cũng như bóng dáng, cố chấp vọng tiếng.  Tất cả các pháp cũng như tiếng vang, sanh diệt hư hoại.  Mọi sự vật sanh diệt tụ tán, do các duyên giả hợp mà thành.  Tất cả các pháp vốn không sanh, không dời đổi và đồng thể chân như.  Tất cả các pháp vốn không sanh, không diệt.  Tất cả các pháp vô tác vì không có tác giả.  Tất cả các pháp như hư không, vì không thể nhiễm ô.  Tất cả các pháp quyết định tịch diệt, vì tự tánh không nhiễm.  Tất cả các pháp vô cấu, vì xa lìa tất cả các cấu.  Tất cả các pháp tánh tịch diệt, vì lìa phiền não.  Tất cả các pháp phi sắc, vì không thể thấy.  Tất cả các pháp lìa cảnh giới tâm, vì không thể tánh. Tất cả các pháp không trụ, vì diệt các độc.  Tất cả các pháp không thể cấu, vì diệt ái tắng, tâm bình đẳng.  Tất cả các pháp không trụ trước, vì lìa cảnh giới phiền não vậy.  Tất cả các pháp như rắn độc, vì nó lìa thiện xảo phương tiện.  Tất cả các pháp như cây chuối, vì không bền chắc vậy.  Tất cả các pháp như bọt nước, vì thể tánh quá yếu đuối.

 

Các thiện nam  !  Bồ Tát quán sát như thế, gọi là chánh quán các pháp vậy.

 

(Trích kinh Đại Thừa Thập Pháp, địa 8, tờ 74, bên mặt).

 

  1. Ánh sáng Bát Nhã soi, tất cả đều là Phật Pháp.

 

           Tu Bồ Đề nói :  “Văn Thù Sư Lợi !  Kiết sử (1) trong Phật pháp có gì sai khác không ?” -  Văn Thù Sư Lợi trả lời : “Đại Đức Tu Bồ Đề !  Như núi Tu Di lớn, yến sáng chiếu soi các chỗ, đều đồng một sắc, như là sắc vàng.  Như vậy, Tu Bồ Đề !  Yến sáng bát nhã soi vào tất cả các kiết sử, đều đồng một sắc.  Tức là mầu sắc Phật pháp.   Vì thế, nên nầy Tu-Bồ-Đề !  kiết sử Phật pháp dùng, huệ bát nhã quán sát, bình đẳng không sai khác.  Vì thế, nên Đại Đúc Tu Bồ Đề !  tất cả các pháp, đều là Phật pháp”.

 

(Trích kinh Đại Phương Quảng Bửu Hiệp, quyển thượng, vũ 10, tờ 43, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Kiết sử  :  tên khác của phiền não.   Kiết :  trói buộc tâm thân vậy.  Sử là sai khiến thân tâm ấy vậy.

 

  1. Thật quán sanh trí huệ, trí sanh hoàn diệt thật quán.

 

           Ca Diếp !  ví như hai cây cọ sát với nhau, liền có lửa phát sinh, rồi trở lại đốt cây ấy.  Cũng như vậy nầy Ca Diếp ! Vì chân thật quán, nên sanh thánh trí tuệ; thánh trí sinh rồi, trở lại (1) đốt thật quán.

 

(Trích kinh Đại Bửu Tích, hội Phổ Minh Bồ Tát, địa 6, tờ 58, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Lại đốt thật quán :  Thánh trí sinh rồi, lại đốt thật quán, ý nói không chấp trước thật quán.  Như Thánh trí thì không trụ cực địa không chỗ đăng vậy.
  2. Không có một pháp nào mà không phải Phật pháp:

 

           Tất cả các pháp dù có thuận nghịch.   Hết thảy chúng sinh, nhìn thấy không thuận;  Bồ Tát đều thấy các pháp thuận chánh, quán sát các sự vật, không có một sự vật nào mà không phải là Phật pháp.

 

(Trích kinh Văn Thù Sư Lợi, phổ Siêu Tam Muội, phẩm Tam Tạng, vũ 8, tờ 61, bên mặt).

 

Tiết  II  -   Thật tướng vạn hữu

 

Mục  I  -  Thật tánh không hai

 

  1. Nhân  duyên  có  hai  pháp,  thật  tánh thì không  hai:

 

           Nếu nói vô minh nhân duyên sanh các hành, những người phàm phu nghe rồi phân biệt sinh ra hai pháp tưởng.  Minh cùng vô minh; người trí rõ thông tánh kia không hai.  Tánh không hai, tức là thật tánh.  Nếu nói thập thiện, thập ác, có thể gây ra, có thể không gây ra, đường lành đường ác, bạch pháp, hắc pháp; phàm phu nói hai, người trí rõ biết tánh kia không hai.  Tánh không hai đó, tức là thật tánh.

 

(Trích kinh Đại Bát Niết Bàn :  Mahàparinirvàna, phẩm Như Lai tánh thứ 8, dinh 5, tờ 40, bên mặt).

 

  1. Hai là có sở đắc, không hai vô sở đắc:

 

           Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:  “Thế Tôn !  thế nào gọi là sở đắc, thế nào gọi là vô sở đắc ?” -  Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề : “các pháp nào có hai là có sở đắc; pháp nào không có hai là không sở đắc”. -  “Bạch Thế-Tôn ! những gì là hai hữu sở đắc, những gì là không hai hữu sở đắc?” - Phật bảo : “Con mắt và sắc là hai, cho đến ý và pháp là hai, nhẳn đến Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác cùng Phật là hai.  Ấy gọi là hai”.

 

_ “Bạch Thế Tôn !  Từ trong hữu sở đắc có vô sở đắc không ?  Từ trong vô sở đắc có vô sở đắc không ?  Đức Phật dạy : “Không từ trong hữu sở đắc có vô sở đắc; cũng không từ trong vô sở đắc có vô sở đắc.  Nầy Tu Bồ Đề !  hữu sở đắc cùng vô hữu sở đắc đều bình đẳng.  Ấy gọi là vô sở đắc .  Cũng như vậy, nầy Tu Bồ Đề !  Các vị Đại Bồ Tát, đối với trong các pháp hữu sở đắc, vô sở đắc bình đẳng cần phải học.  Tu Bồ Đề !  Đại Bồ Tát, phải học trí tuệ đến bờ bên kia như thế.  Ấy gọi là vô sở đắc, không có lầm lỗi.

 

(Trích kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, (đại phẩm), phẩm Tam Huệ thứ 70, nguyệt 4, tờ 43, bên trái và phải).

  1. Pháp tánh thanh tịnh không thể nghỉ bàn:

 

           Thắng Thiên Vương bạch Phật rằng :  “Thế-Tôn !  thế nào gọi là pháp tánh không thể nghỉ bàn ?”.  Phật nói : “Đại Vương !  ở trong ngũ ấm, thập nhị nhập và thập bát giới của các chúng sinh, từ vô thỉ tương tục, không bị nhiễm ô, thể pháp tánh thanh tịnh, tất cả tâm thức, không thể duyên khởi; các giác quán khác không thể phân biệt, tà niệm tư duy, cũng không thể duyên; pháp lìa tà niệm, vô minh không phát khởi; vì thế, nên không từ 12 duyên sinh, gọi là vô tướng, thì không tác pháp, không sinh, không diệt, không mé, không cùng, tự tướng của nó thường trụ.  Nầy Đại Vương ! các Đại Bồ Tát tu hành trí huệ đến bờ bên kia, hay biết pháp tánh thanh tịnh.  Như thế, không nhiễm, không trước, xa lìa cấu quế, từ các phiền não, vượt lên giải thoát.  Tánh nầy tức là các cội gốc Phật pháp, công đức trí huệ, nhân đó mà phát sinh; thể tánh sáng sạch, không thể nghỉ lường.

 

           Đại Vương  !  ta nay đem thí dụ ra nói, ông nên lắng nghe!” -  Đại Vương bạch rằng : “Thế-Tôn! Vâng ! chúng tôi xin nghe và suy nghỉ kỹ”.  Đức Phật bảo Thắng Thiên Vương rằng : “Ví như có ngọc như ý bửu châu vô giá, trang sức đẹp đẽ, sáng sạch đáng quý, thể nó tròn sáng rất long lanh, không có một chút cấu trược; rơi nơi bùn lầy đã trải qua nhiều thời gian; có người tìm đặng, lấy mà gìn giữ, không cho rơi mất.  Pháp tánh cũng như thế :  mặc dù còn ở nơi phiền não, không bao giờ bị nhiễm ô, sau được hiển hiện…..”

 

(Trích kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, phẩm Pháp Tánh, nguyệt 8, tờ 70, bên mặt).

 

Mục  II  -   Thật tướng chân như

 

  1. Các pháp thật tướng:

 

           Thật tướng các pháp; có chỗ nói các pháp ấy là như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực. như thị tác, như thị nhân, nhự thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu kính v.v……

 

(Trích kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phương Tiện thứ nhất, dinh 1, tờ 10, bên trái).

 

  1. Thật tướng các pháp:

 

            Tất cả pháp bình đẳng, không có sai khác.  Ấy là nghĩa thật tướng các pháp.

 

(Trích kinh Tứ Ích  Phạm Thiên, Sở Vấn, phẩm Luận Tịch thứ 8, vũ 1, tờ 16, bên mặt).

 

  1. Chân Như:

 

Ba cõi chỉ là tâm, phân biệt hai (1) tự tánh, chuyển (2) y lìa nhơn pháp, ấy gọi là chân như.

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Hai tự tánh  :  Phân biệt tánh và y tha khởi tánh vậy.

 

  1. Chuyển y  :  chuyển là biến chuyển, y là sở y.  Dùng tâm làm sở y, huân tập trong tâm chuyển biến, hiển hiện thật tánh của tâm.  Gọi là chơn như.  Chân như là tánh thật của tâm vậy.

Đây hiệp với tánh phân biệt ở trước và tánh y tha khởi.  Gọi đó là ba tự tánh.

 

  1. Tánh chân như :

 

           Đức Phật nói :  Các thiện nam !  Sở dĩ gọi là chân như (1), vì là không hư vọng, không sai khác.  Ngài Chỉ Cái Bồ Tát bạch Phật rằng : “Thưa Thế Tôn !  Sao gọi là chân như ?”  -- Phật đáp : “Các thiện nam !  pháp nầy tự mình chứng biết, không bám trụ vào văn tự để thi thiết.  Vì sao ? Pháp nầy vượt qua tất cả văn tự ngôn thuyết và hí luận.  Lìa các sự vào ra, không có tính lường, chẳng phải tính chỗ thi hành, không tướng lìa tướng, không phải chỗ của kẻ ngu phu ra làm, xa lìa tất cả các cảnh giới ma nhẫn đến tất cả cảnh giới phiền não, chẳng phải dùng thức ra thi hành, trụ không chỗ trụ, tự tánh hoàn toàn tịch tịnh, vượt quá chỗ ra vào của các thánh trí.  Do nhân duyên ấy, chính trong mỗi người chứng biết, không nhơ, không nhiễm, không tịnh thực là vi diệu, tối thượng không ai sánh bằng, thường hằng không biến động, tánh không hoại diệt.  Nếu các đức Như Lai, xuất hiện trong thế gian, nếu không xuất thế, pháp giới cũng như thế tự tánh thường trụ.  Các thiện nam ! Vì sự lợi ích chúng sinh, nên các vị Bồ Tát dõng mãnh tu hành, vô lượng thật hành hạnh khổ để chứng được pháp tánh nầy; đặng pháp tánh rồi, an trí chúng hữu tình, trụ vào pháp như thế.  Các thiện nam !  Như thế gọi là chân như, cũng kêu là thật tế, hay là nhất thiết trí.  Cũng gọi là nhất thiết chúng trí hoặc là cảnh giới bất tư nghị, cũng kêu là thế giới bất nhị….

 

(Trích kinh Bửu Võ, quyển thứ 6, vũ 6, tờ 22, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Chân như :  pháp giới, thật tế, bất tư nghị giới, đều là tên khác của pháp tính chân như.  Hoặc gọi là nhất thiết trí, hoặc kêu là nhất thiết chủng trí vì không thể phân biệt, cho đến ở nơi cảnh địa vô phân biệt trí mà là chủ khách đoạn trừ ấy vậy.

 

 

  1. Chân như là không, chẳng sinh chẳng diệt.

 

           Nói chữ Bồ Đề (bodhi) gọi là tịch tịnh; chữ tịch tịnh là thế nào ? tức là tất cả pháp chân như.  Hỏi : “Các thiện nam ! nói là chơn như; chân như đối với pháp nào mà nói ?”  -- Đáp : “Các thiện nam ! nói chữ chân như, chân như gọi là không; không kia chẳng sinh chẳng diệt”.  Hỏi : “Nếu như thế tất cả pháp không.  Thế thì tất cả pháp không sinh không diệt ?”.  Ngài Vô Sở Phát Bồ Tát đáp : “Vâng ! đúng vậy.  Các thiện nam ! như các ông đã nói, tất cả pháp không sinh không diệt”.  Hỏi : “Nếu như thế, tại sao Như Lai nói pháp hữu vi đều có sinh diệt ?  Phật nói pháp hữu vi đều có sinh diệt, nghĩa ấy thế nào ?”.  Vô Sở Phát Bồ Tát trả lời : “Các thiện nam !  Bởi vì một số phàm phu mờ tối chấp trước pháp sinh diệt; chư Phật Như Lai dùng tâm đại từ bi, vì ủng hộ các tấm lòng còn sợ hải, thuận theo thế tục để mà nói các pháp có sinh diệt như vậy, nhưng đứng về chân như thì tất cả các pháp không sinh không diệt.  Vì thế, nên nầy các thiện nam !  Đại Bồ Tát phải biết chư Phật, phải biết pháp của các đức Phật, phải biết các chúng sinh, phải biết mọi sự vật, phải biết thân mình, phải biết pháp thân”.

(Trích kinh Pháp Tập, quyển thứ 3, vũ 7, tờ 54, bên mặt).

 

Mục  III  -- Nội chứng chân như

 

  1. Con đường nội chứng chân như

 

           Ngài Chỉ Cái Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thưa Thế-Tôn ! tại sao ở trong giáo pháp nầy hiện chứng, tức là tự mình chứng ngộ bên trong ?” -- Phật nói : “Các thiện nam ! nên dùng trí tuệ xuất thế gian tự mình chứng ngộ bên trong”.  -  Chỉ Cái Bồ Tát bạch Phật rằng : “Thưa Thế-Tôn !  nên dùng “văn (1) sở thành huệ, tự sở thành huệ”, như thế mà chứng pháp ấy là nội chứng ư?”-- Phật nói : “Chẳng như vậy, cuối cùng không những dùng “văn sở thành huệ, tư sở thành huệ” làm nội chứng vậy.  Các thiện nam !  Do nhân duyên ấy, ta sẽ vì các ông nói lời thí dụ.

 

           Ví như có một người đi đường xa nóng bức khát nước, qua cánh đồng mênh mông, từ phương đông đi qua phương tây.  Lại có một người khác từ phương tây đi qua phương đông; người kia bị nóng bức, khát nước quá sức, nói với người sang phương đông rằng : “Tôi nay, vì nóng bị khát nước bức bách; xin ông vui lòng chỉ đường cho tôi, chỗ nào có suối nước, ao nước, hồ nước trong trẽo mát mẽ không ?  nếu tôi được uống nước mát thì sự khát nước sẽ được chấm dứt”.  Người từ phương đông nói với người từ phương tây đến như thế nầy : “Tôi biết đường sá, biết chỗ có nước, tôi đã trải qua đó thường uống; từ đây đi thẳng phía đông không xa lắm, có hai con đường tẻ; nên bỏ con đường quẹo trái, sang con đường quẹo mặt; thấy có núi xanh, ở đó có suối nước trong veo, thanh tịnh, uống xong là trừ hết bịnh khát; ông mau đến đó để khỏi lo nạn khát nước”!!!

 

           Các thiện nam !  ý ông nghĩ thế nào ?  người khát nước kia, chỉ nghe tên nước, chỉ nghỉ trạng thái nước, liền được trừ hết nạn khát nước không ?”  Ngài Chỉ Cái Bồ Tát bạch Phật rằng : “Thưa Thế-Tôn ! người bị khát nước phải uống nước trong mát thật sự, mới trừ được cơn khát nước”.  Các thiện nam ! Đúng như vậy đó, chẳng phải nghe nghĩ, liền chứng được pháp chân như “tự nội sở chứng”.  Các thiện nam !  nơi đồng rộng là thí dụ cho sự sinh tử.  Nơi người khát nước là thí dụ cho tất cả chúng hữu tình ở trong cảnh giới, bị phiền não ép ngặt.  Người chỉ đường là thí dụ cho chư Phật, Bồ Tát và thiện hữu tri thức vậy.  Mình phải đi đến và tự uống nước tức là thí dụ cho con đường nhất thiết trí, khéo léo hay biết, tự mình chứng ngộ pháp tánh thù thắng vậy.

 

(Trích kinh Bửu Võ, quyển thứ 6, vũ 6, tờ 22, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Văn sở thành huệ, từ sở thành huệ  :  Ở đây thêm tu sở thành huệ của tự nội sở chứng thành pháp tam huệ.  Phối hợp cùng tam thừa thì văn huệ là Thinh Văn, tư huệ la Duyên Giác và tu huệ là Bồ Tát.  Nếu một thể phối hợp, chỉ dùng văn huệ, tư huệ mà không thêm tu huệ thì không thể chứng đặng quả định kỳ của Bồ Tát.

 

  1. Duy tâm thật quán cùng chân như thật quán:

 

           Nếu muốn y nơi nhất thật (1) cảnh giới thật hành tín giải, phải nên học tập hai thứ quán, những gì là hai ?  Một là duy tâm thức quán; hai là chân như thật quán.  Người học Duy tâm thức quán.  Có chỗ nơi ở tất cả thời, tất cả chỗ, theo hành động, lời nói, ý nghĩ tạo ra các tội lỗi, đều phải quán sát, biết chỉ là tâm.

           Quán sát tất cả pháp do tâm tưởng sinh.  Nếu khiến lìa tâm, thì không một pháp một tướng nào mà có thể tự thấy có sai khác vậy.  Phải nên như thế ghi giữ trong tâm, biết rằng chỉ do vọng niệm cảnh giới không thật, đừng để thôi bỏ.  Ấy gọi là tu học duy tâm thức quán.  Nếu tâm không ghi nhớ, không biết tâm mình suy nghĩ, tức là nói có cảnh giới trước, không gọi là duy tâm thức quán

           Duy tâm thức quán như thế, gọi là cửa trí tuệ tối thượng.  Có chỗ nói hay khiến tâm kia sáng mạnh, nuôi lớn tín giải chóng vào nghĩa không, đặng phát tâm vô thượng đại bồ đề vậy.

           Nếu ai học tập về chân như thật quán : suy nghĩ tâm tính không sanh, không diệt, không trụ thấy nghe hiểu biết, hằng xa lìa tất cả vọng tưởng phân biệt, dần dần có thể vượt qua không (2) xứ, thức xứ, vô thiểu xứ và các tướng cảnh giới định phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đặng tương tợ không (3) tam muội, khi đặng tương tợ không tam muội, tướng vô phân biệt của thức tưởng thọ hành, không hiện ở trước mặt, từ đây tu học làm vị thiện tri thức có lòng đại từ bi, gìn giữ nuôi lớn; vì thế cho nên lìa các chướng ngại, siêng tu không bỏ phế, triển chuyển hay vào tâm tịch chánh định.  Đặng chánh định nầy rồi, liền vào được nhất (4) hạnh tam muội; khi vào nhất hạnh tam muội nầy rồi, thấy vô số Phật phát hạnh nguyện rộng sâu, tâm luôn luôn trụ nơi kiên tín vị.

           Lại nữa, người tu học tín giải như trên có hai hạng, những gì là hai ?  Một là lợi căn; hai là độn căn.  Về hạng lợi căn trước đã biết rõ tất cả các cảnh giới bên ngoài do tâm tạo tác, dối trá không thật, như mộng như huyển v.v… quyết định không có nghi ngờ, ấm (5) cái che phủ nhẹ nhàng vi tế, chỉ còn tán loạn một ít trong tâm.  Những người như thế, phải lo học tập chân như thật quán.  Còn hạng người độn căn, trước chưa hay biết tất cả các cảnh giới bên ngoài, đều chỉ là tâm, vì hư vọng không thật, nhiễm trước tình dày, ngăn che thường phát khởi, khó điều phục nội tâm, phải nên trước học duy tâm thức quán.

 

(Trích kinh Chiếm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quyên hạ, huyền 10, tờ 71, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

  1. Nhất thật cảnh giới :  nhất là nghĩa của bình đẳng, thật tướng của bình đẳng, gọi là nhất thật.  NHất thật cảnh giới tức là tự tánh thanh tịnh tâm, là bản chất của tâm chúng ta.

 

  1. Không xứ, thức xứ v.v… định tứ không vậy.  Quán sát tất cả sự vật về nơi nhất nguyên của không, rồi sau tự biết có thức, sau đó thông suốt “vô thiểu” (hoặc nói vô sở hữu), cuối cùng vào nơi địa vức phi tưởng, phi phi tưởng.  Đây sánh cùng ‘không tam muội’ của Phật giáo gần giống nhau.

 

  1. Không tam muội :  không, vô tướng, vô nguyện (hoặc nói là vô tác).  Gọi đó là ‘tam tam muội’, là cửa ngõ của giải thoát vậy.

 

  1. Nhất hạnh tam muội  :  tâm định nói tam muội của nhất hạnh.  Đây có hai loại lý và sự :  nhất hạnh tam muội của lý là tâm định nơi lý chân như.  Nhất hạnh tam muội của sự tức là nhất tam niệm Phật.

 

  1. Ấm cái  :  ấm là pháp hữu vi, nghĩa là chân lý bị ấm che phủ.  Cái là tên khác của phiền não, nghĩa là nó ngăn che tâm của hành giả vậy.

 

 

Tiết  III  -   Vạn hữu nhứt như cùng sai biệt:

 

Mục   I   -   Nhứt như pháp giới.

 

  1. Các  pháp nhứt như:

 

           Khi bấy giờ Ngài Đàm (1) Vô Kiệt Bồ Tát nói với Ngài (2) Đà Ba Luân Bồ Tát rằng : “Các thiện nam !  các đức Phật đến không từ chỗ nào, đi cũng không từ nơi nào.  Vì sao ?  Bởi vì các pháp như như bất động.  Các pháp như tức là Như Lai (3).  Các thiện nam !  không sanh, không lai, không khứ, không sanh tức là Như Lai.  Thật tế không lai không khứ, thật tế tức là Như Lai.  Không, không lai không khứ, không tức là Như Lai.  Đoạn không lai không khứ, đoạn tức là Như Lai.  Ly không lai không khứ, ly tức là Như Lai.  Diệt không lai không khứ, diệt tức là Như Lai.  Tánh hư không, không lai không khứ, tánh hư không tức là Như Lai.  Các thiện nam ! lìa các pháp ấy, không có Như Lai.  Các pháp ấy tự như, các Như Lai tự như, đều là nhất như, không hai không khác.  Các thiện nam ! như thế chỉ có một, không hai, không ba, lìa các số lượng, không có sở hữu.”

 

(Trích kinh Bát Nhã Ba La Mật (tiểu phẩm), phẩm Đàm Vô Kiệt thứ 28, nguyệt 6, tờ 85, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Đàm Vô Kiệt  :    Dharmadgata, dịch là Pháp Đõng.

 

  1. Tát Đà Ba Luân  :   Sadàpralapa, dịch là Thượng Đế.

 

  1. Như Lai  :  có chỗ nói là lai, bản thể kia thật không lai khứ, không sinh không diệt, giả xưng đó là Như Lai.

 

  1. Nhất thật cảnh giới:

 

           Ngài Địa (1) Tạng Đại Bồ Tát nói : “Các thiện nam !  nếu có chúng sinh, ai muốn hướng về Đại Thừa, trước phải biết nghiệp căn bản sở hành đầu tiên.  Chỗ tối sơ hành nghiệp căn bản, có chỗ nói là y chỉ một cảnh giới thật, dùng thật hành tín giải, vì nhơn sức tín giải tăng trưởng, mau chóng đặng vào chủng tử Bồ Tát.  Nói về nhất thật cảnh giới là sao ?  Nghĩa là tâm thể chúng sinh, từ xưa đến nay, không sanh không diệt tự tánh thanh tịnh, không chướng mà cũng không ngại, cũng như hư không vì lìa xa sự phân biệt, bình đẳng giáp khắp, không chỗ nào mà chẳng đến, tròn đầy mười phương, rốt ráo một chân tướng, không hai mà cũng không khác, chẳng biến, chẳng đổi, không tăng, không giảm, không nhiễm tịch tịnh vì tướng chân như.

           Vì sao ?   vì tất cả có tâm khởi sự phân biệt, cũng như huyễn hóa, không có định thật. Có chỗ nói thức thọ tưởng hành nhớ nghĩ, duyên tự giác tri v.v….các loại tâm số (2), chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng không phải tạp sắc, không có dài ngắn, vuông tròn, lớn nhỏ, cho đến cùng hết nơi mười phương, tất cả hư không thế giới, tìm hình trạng của tâm, không chỗ nào có thể tìm được, chỉ vì chúng sanh vô minh si ám, nhiều lớp nhân duyên huân tập, hiện cảnh giới vọng, khiến sinh vọng niệm chấp trước…..

 

(Trích kinh Chiếm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quyển hạ, huyền 10, tờ 70, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Địa Tạng  :  Ksitigarbha, mỗi ngày sớm chiều, vào nơi thiền định quán sát chúng sinh trong thế giới, rộng làm hạnh Bồ Tát giáo hóa, không lay động như quả đất, sâu kín cũng như chứa để đồ bí yếu, nên gọi là Địa Tạng.

 

  1. Tâm số  :  bản mới dịch là tâm sở.  Tức là quan niệm tâm sở phát khởi vậy.

 

  1. Như thật pháp giới :

 

           Đức Phật bảo Thắng Thiên Vương rằng: “Đại Vương ! các Đại Bồ Tát vì có trí huệ gần gũi thiện tri thức, siêng năng tu hạnh tinh tấn, xa lìa các hoặc chướng, thân tâm được thanh tịnh, cung kính tôn trọng, ưa luyện tập các hạnh không, xa lìa những kiến chấp, thật hành đạo như thật, hay thông suốt khắp pháp (1) giới.

 

           Đại Vương !  các Đại Bồ Tát, vì có trí bát nhã gần các vị thiện tri thức, hoan hỷ cung kính, cũng như tưởng đức Phật; vì thân cận, nên không còn biếng nhác, diệt trừ tất cả các pháp bất thiện, sinh trưởng các căn lành, đả diệt phiền não xa lìa các pháp chướng ngại, liền được thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh; vì do thanh tịnh liền sanh tâm kính trọng;  do tâm kính trọng, tu tập hạnh không; vì tu tập hạnh không, xa lìa các chấp trước, nhờ bỏ các cố chấp, thật hành theo chánh đạo; vì thật hành chánh đạo nên nhận rõ pháp giới”.

 

           Thắng Thiên Vương bạch Phật  : “Kính bạch Thế-Tôn !  những gì là pháp giới ?”   -- Đức Phật bảo Thắng Thiên Vương rằng : “Đại Vương !  pháp giới tức là như thật”. – “Bạch Thế-Tôn ! Thế nào gọi là như thật ?” – “Đại Vương !  như thật tức là không đổi khác”. – “Bạch Thế-Tôn ! thế nào gọi là không (đổi) khác”. – “Đại Vương ! như là như như”. -  “Bạch Thế-Tôn ! thế nào gọi là như như ?” – “Đại Vương ! Việc ấy phải dùng trí hiểu biết, không thể nói năng mà thấu suất được.  Vì sao ? Vì vượt trên văn tự, lìa cảnh giới ngôn ngữ, khẩu thiệt.  Không có các sự hý luận, không bỉ, không thử, lìa tướng và vô tướng, xa lìa các nghĩ lường, vượt cảnh giác quán, không tưởng không tướng, qua hai cảnh giới, vượt các phàm phu, xa rời cảnh giới phàm, bỏ lánh các việc ma, hay lìa hoặc chướng, không nên theo vọng mà hiểu biết, trụ chỗ vô xứ, tịch tịnh thánh trí, sau (2) không trí huệ phân biệt các cảnh giới, không ngã cùng ngã sở, cầu không thể không được, không thủ, không xã, không nhiễm, không uế, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh thường còn không thay đổi hay không có Phật ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ.

 

(Trích kinh Thắng Thiên Vươn g Bát Nhã, quyễn thứ hai, phẩm Pháp Giới, nguyệt 8, tờ 64, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Pháp giới :  hoặc nói rằng nhất tâm pháp giới, chân như thật tướng, cảnh giới của vô phân biệt trí vậy.

 

  1. Hậu vô phân biệt trí :  trong kinh đã nói trí huệ xuất thế đến bờ bên kia, tức là chứng hậu vô phân biệt trí.

 

 

  1. Pháp giới hiện hữu trong mỗi tế vi bụi trần

 

Ở trong liên hoa tạng (1) nầy,

Có cả biển thế giới;

Trong mỗi một vi trần,

Thấy tất cả pháp giới.

 

(Trích kinh Hoa Nghiêm  :  Avasamkata  Sùtra, phẩm Lô Xa Na thứ 3, thiên 7, tờ 15, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Liên hoa tạng thế giới  :  Đây là thế giới lý tưởng hóa của kinh Hoa Nghiêm đã nói.  Tức là báo thân Phật cõi tịnh của hoa sen báu đã hoàn thành.

 

 

  1. Nước Phật hiện hữu trong từng vi-tế chân lông

 

Cõi nước(1) trong vi-tế chân lông,

Tất cả số cõi nước rất nhỏ,

Phật ngồi đạo tràng thuyết trong đó,

Bồ Tát chúng tôi cùng vây quanh,

Mỗi lỗ chân lông có cõi nước,

Phật đều ngồi trong đạo tràng đó,

An ổn tối thắng tòa liên hoa,

Khắp hiện thần thông cùng pháp giới,

Vi-tế chân lông đều có Phật,

Tất cả cõi nước số rất nhỏ,

Đều ở trong hội chúng Bồ Tát,

Đều là tuyên dương hạnh Phổ Hiền(2),

Như Lai an ngồi ở một cõi,

Trong tất cả cỏi đều hiện bày,

Mỗi phương mây lành nhiều Bồ Tát,

                       Đều đồng đến nhóm ở chỗ kia

 

(Trích kinh Hoa Nghiêm  :  Avasamkata Sùtra, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 3, thiên 5, tờ 9, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Sát  :  cõi nước  :  Ksetra dịch là quốc xứ.

 

  1. Phổ Hiền Hạnh  :  trong kinh Hoa Nghiêm đem Ngài Văn Thù tiêu biểu trí huệ; ngài Phổ Hiền tiêu biểu cho nguyện hạnh.  Phổ Hiền hạnh cũng gọi là Phổ Hiền tam muội trong kinh Đại Thừa thường thấy đó.

 

  1. Tối thắng đệ nhất nghĩa là trụ xứ của Bồ Tát :

                 Thiện Tài đồng tử bạch rằng : “Thánh giả !  nói là quốc độ có nghĩa là gì vậy ?” – Văn (1) Thù Sư Lợi đáp :  “Nghĩa là tất cả trụ xứ của Bồ Tát”. - Thiện Tài nói : “Thế nào là trụ xứ của tất cả Bồ Tát ?” – Văn Thù Sư Lợi đáp rằng : “Các thiện nam ! nghĩa tối thắng thứ nhất là trụ xứ của Bồ Tát.  Vì sao ?  Các thiện nam ! nghĩa tối thắng thứ nhất, không sinh không diệt, không mất, không hoại, không đến, không đi.  Lời nói như thế đã không phải ngôn cảnh (2), nói năng không kịp, không thể ghi khác, phải quấy hí luận (3), nghỉ lường hiểu biết, vốn không có ngôn thuyết, thể tánh tịch tịnh, chỉ có các bậc thánh tự mình nội chứng.  Các thiện nam ! Do đây nghĩa đệ nhất tối thắng, các Phật Như Lai xuất hiện trong thế gian, nếu Phật ra đời hay không ra đời, không bao giờ hoại mất.”

 

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 38, thiên 6, tờ 68, bên hữu).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Văn-Thù-Sư-Lợi  :  Manju’sri.

 

  1. Ngôn cảnh  :  phạm vi của ngôn ngữ vậy.

 

  1. Hý Luận :  lời nói, ý nghĩ mà không bao giờ thật hành vậy.

 

 

  1. Pháp giới không khác:

 

                       Ví như trong thiên hạ, muôn sông bốn giòng (1) đều tự có tên, cuối cùng đều trở về biển cả, hiện thành một vị.  Vì sao thế ? vì không có khác vậy.  Như thế Thiên Tử, không hiểu rõ pháp giới; liền nhận thấy không gì khác cả.

 

(Trích kinh Tu Chơn Thiên Tử, quyển thứ 4, phẩm Đạo Loại thứ 10, trụ 2, tờ 72, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Bốn giòng : Núi Tu Di có 4 giòng vậy.  Vì ở giữa núi Tu Di, không có đất nóng, phía đông chạy về sông Hằng; phía Nam chạy về sông Tan Đầu; phía Tây chạy về sông Phược Sô và phía Bắc chạy về sông Tư Đa.

 

 

  1. Vào nhất hạnh tam muội biết được pháp giới tướng :

 

Lại có “nhất hạnh tam muội”.  Nếu có thiện nam cùng thiện nữ nào thật hành tam muội nầy sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

                       Văn Thù-Sư Lợi bạch đức Thế-Tôn : “Thế nào gọi là nhất hạnh tam muội ?” Đức Phật nói : “Pháp giới nhất tướng ràng buộc nương tựa pháp giới, gọi là nhất hạnh tam muội.  Nếu các thiện nam cùng thiện nữ muốn vào nhất hạnh tam muội, truớc phải nghe “trí huệ đến bờ bên kia”, y theo lời nói mà thật hành, sau đó có thể vào được nhất hạnh tam muội, như duyên pháp giới, không thối chí, không hoại diệt, không nghĩ bàn, không ngăn ngại, không tướng trạng.

 

Thiện nam cùng thiện nữ ! muốn vào nhất hạnh tam muội phải ở trạng thái thanh tịnh, dẹp bỏ các ý loạn động, không chấp trước tướng mạo, nhất tâm niệm Phật, chuyên trì danh hiệu; theo phương số của Phật; thân đoan trang hướng về chánh giáo; có thể đối với đức Phật, mỗi niệm tương tục.  Ở trong niệm ấy có thể thấy các đức Phật đời quá khứ, hiện tại và vị lai.  Vì sao ? – Vì công đức niệm một đức Phật được vô lượng vô biên, cũng như công đức niệm vô lượng chư Phật không hai; Phật pháp không thể nghỉ bàn, bình đẳng không sai khác.  Mỗi vị hướng về nhất như, hoàn thành bậc tối Chánh Giác đều đủ công đức vô lượng, biện tài vô lượng.  Người như thế vào được ‘nhất hạnh tam muội’ biết hết hằng sa chư Phật trong các thế giới, không có tướng sai khác….”.

 

(Trích kinh Đại Bửu Tích : Mahàratnakùta Sùtra, quyển thứ 116, hội Văn Thù Sư Lợi thuyết Bát Nhã, địa 6, tờ 75, bên trái).

 

 

Mục  II  -   Nhứt pháp giới cùng sai biệt tướng

 

  1. Pháp giới có nhiều loại chúng sanh :

 

Nầy Xá Lợi Phất !  (1)  Ví như quả đất đã mọc ra nhiều loại thực vật, nhiều loại cây có nhiều tên và nhiều hình tướng khác nhau, dù đồng một đất cát.  Cũng như vậy, nầy Xá Lợi Phất ! trong pháp giới có nhiều loại chúng sinh, đặt ra nhiều danh từ sai khác, nhưng không phá hoại pháp giới; mà pháp giới cũng không lay chuyển, có thể biết pháp giới cũng không tăng giảm.

 

(Trích kinh Đại Tập Thí Dụ Vương :  Mahàsamghàta-Sùtra, quyển thượng, huyền 9, tờ 69, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Xá Lợi Phất  :  Sàriputra dịch là Thân tử lại dịch là Thu Lộ.  Trong hàng đệ tử lớn của Phật, ngài trí huệ đệ nhất.

 

  1. Mê vọng bản tính viên minh, nên chúng sinh điên đảo:

 

                       A-Nan !  Thế nào gọi là chúng sinh điên đảo ?  A-Nan ! do tâm tánh sáng suốt, vì tánh tròn sáng; nhơn sáng phát tánh, tánh vọng cố chấp sanh; từ rốt ráo không, thành rốt ráo có.  Đây có sở hữu, chẳng phải nhơn sở nhơn, trụ tướng sở trụ, rõ không căn bản.  Từ vô trụ nầy, kiến lập thế giới và các chúng sanh, mê gốc tròn sáng, ấy sinh ra hư vọng, tánh vọng không tự thể, không có chỗ nương tựa.  Đem (cái) muốn trở lại chơn muốn (thành) chơn, đã không phải tánh chơn chân như.  Không phải chơn đi tìm trở lại, in thành không phải tướng, không phải sanh, không phải trụ, không phải tâm, không phải pháp, triển chuyển phát sinh, sanh lực phát minh, huân thành giống nghiệp.  Đồng nghiệp tương cảm, nhân có cảm nghiệp, cũng diệt cùng sinh.  Do đó, nên có chúng sinh điên đảo.

 

(Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm  :  Sùramgamasùtra, quyển thứ 7, thành 1, tờ 29, bên mặt).

 

Mục  III   -   Thế đế cùng đệ nhất nghĩa đế:

 

  1. Thế đế, đệ nhất nghĩa đế:

 

                       Thế đế nghĩa là có hạng (1) tề danh số, vì người khác nói, hẹp hòi không rộng rãi.  Ấy gọi là thế đế.  Đệ nhất nghĩa đế là pháp tương ưng rất sâu sắc nhưng chơn không, không có hạng tề, không chỗ đoạn tuyệt, chẳng phải nhân duyên khác, bình đẳng một tướng trạng, không có cao thấp, không có tướng loạn tướng tịnh.  Tất cả muôn sự vật đồng một tướng chân như.  Ấy gọi là đệ nhất nghĩa đế.

 

(Trích kinh Pháp Tập, quyển thứ ba, vũ 7, tờ 50, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Hạng tề  :  trong kia đây có giới hạn, có phân biệt, rồi mỗi sự vật tự có danh số vậy.

 

  1. Đệ nhất nghĩa đế có thế đế :

 

                       Lúc bấy giờ Vua Ba Tư Nặc (1) nói :  “trong đệ nhất nghĩa đế (2) có thế đế không ? Nếu nói không thì trí không thể hai; nếu nói có thì trí không thể một; nghĩa của một, hai, việc ấy như thế nào ?”  -  Đức Phật bảo Đại Vương : “Đối với bảy đức Phật đời quá khứ, đại vương đã nghe nghĩa một, nghĩa hai chưa ? Ông nay không nghe, tôi nay không nói, không nghe không nói tức là nghĩa một, nghĩa hai vậy.  Lắng nghe cho kỹ, khéo suy nghĩ, y như pháp mà tu hành.  Các bài kệ của bảy đức Phật như sau :

 

“Nghĩa đệ nhất vô tướng,

Tạo tác không tự, tha;

Nhân duyên vốn tự có,

Không tự, tha tạo tác.

Pháp tánh vốn không tánh,

Nghĩa thứ nhất không như;

Các có vốn có pháp,

Ba giả (3) nhóm giả có.

Không không đế thật không,

Tịch diệt không thứ nhất,

Các pháp nhân duyên có,

Có không nghĩa như vậy.

Có không vốn tự hai,

Ví như trâu hai sừng,

Soi hiểu thấy không hai,

Hai đế thường không tức.

Hiểu tâm, thấy không hai,

Tìm hai không thể được;

Không nói hai đế một,

Không hai đâu thể được.

Với hiểu thường tự nhất,

Với đế thướng tự hai;

Thông suốt đây không hai,

Thật vào nghĩa thứ nhất.

Thế đế huyễn hóa khởi,

Ví như hoa giữa không,

Như bóng ba tay (4) không,

Do nhân duyên cuồng có.

Huyễn hóa thấy huyễn hóa,

Chúng sinh gọi huyễn đế;

Huyễn sư thấy pháp huyễn,

Sự thật thì đều không;

Gọi là chư Phật quán,

Bồ Tát cũng quán thế”.

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Vua Ba Tư Nặc  : Prasenajit, dịch là vua Thắng Quang, trị vì nước Câu Tát La làm chúa tể thành Xá Vệ.

 

  1. Đệ nhất nghĩa đế,  thế đế  :  gọi chung là hai đế, tức là chân đế và tục đế.

 

  1. Ba giả  :  Chữ giá là đối với thật mà nói, muôn vật đều nương theo giá mà tồn tại, không có thật thể.  Trong kinh Bát Nhã có chia ra ba giả :  danh tự giả, lãnh thọ giả và sự vật giả.  Ba đế nương theo ba giả mà thành lập.

 

  1. Bóng ba tay  :  Bóng người có hai tay, tay thứ ba là dụ cho cái bóng không có.

 

 

 

  1. Thế đế như tức là đệ nhất nghĩa đế như

 

           Đức Phật nói  :  “Đại Bồ Tát theo thế đế để khai thị chúng sinh hoặc có hoặc không, chẳng phải dùng đệ nhất nghĩa đế”.  -  “Bạch Thế-Tôn ! Thế đế cùng đệ nhất nghĩa đế có khác không ?” -   “Nầy Tu Bồ Đề ! Thế đế cùng đệ nhất nghĩa đế, không khác vậy.  Vì sao thế đế như tức là đệ nhất nghĩa đế như, vì chúng sinh không biết không thấy chân lý, đại Bồ Tát dùng thế đế chỉ bày chúng sinh, hoặc có hoặc không…..”.

 

(Trích kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật  :   Mahàprajna-paramitasùtra, phẩm Đại Thọ thứ 71, nguyệt tứ, tờ 47,bên mặt).

 

  1. Thế đế cùng đệ nhất nghĩa đế là một hay là hai?

 

           Lúc bấy giờ đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng : “Thế-Tôn đã nói thế đế cùng đệ nhất nghĩa đế, nghĩa kia như thế nào ? Bạch Thế Tôn !  trong đệ nhất nghĩa đế có thế đế không ?  Trong thế đế có đệ nhất nghĩa đế không ?  Nếu có tức là một đế, nếu không, chẳng lẽ Như Lai nói hư vọng chăng ?”  - “Nầy các thiện nam !  Thế đế tức là đệ nhất nghĩa đế”.  -  “Bạch Thế-Tôn ! như vậy phân chia không có hai (1) đế”.  -  Phật nói : “Các thiện nam ! có sự khéo léo phương tiện, thuận theo chúng sinh, nói ra có hai đế.  Nầy các thiện nam !  nếu theo ngôn thuyết, thì có hai thứ :  một là thế pháp hai là xuất thế pháp.  Các thiện nam ! Đúng chỗ hiểu biết của người xuất thế, gọi là đệ nhất nghĩa đế.  Hiểu biết theo người thế gian gọi là thế đế”.

 

(Trích kinh Đại Bát Niết Bàn  :  Mahàparinirvàna Sùtra, quyển thứ 13, phẩm Thánh Hạnh, Dinh  5, tờ 66, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Hai đế một đế :  Thể của hai đế là một là hai, đây là đại vấn đề của xưa nay.Theo lý thì thật không hai.  Trên bình diện ngôn giáo, nên nói có hai.  Lý thật là thật thể.  Ngôn giáo là dùng phương tiện thi thiết ấy vậy.

 

Mục  IV    -   Ba đế, một đế của muôn loài

 

  1. Tất cả pháp ba đế :

 

           Đức Phật nói :  “Phật tử ! như là ‘hữu đế (1), vô đế và trung đạo đệ nhất nghĩa.  Đế là tất cả trí mẫu của tất cả chư Phật, Bồ Tát.  Cho đến tất cả pháp cũng là trí mẫu của chư Phật, Bồ Tát.  Vì sao ?  Vì chư Phật cùng Bồ Tát đều từ pháp ấy sinh ra….

 

           Phật tử !  Hai đế :   thế đế có nên nói là chẳng không; không đế không, nên nói là chẳng có.  Hai đế thường nhỉ (2) cho nên chẳng một (3), thánh chiếu không cho nên chẳng hai.  Có Phật hay không Phật pháp giới không thay đổi, cho nên nói chẳng không.  Đệ nhất không hai cho nên nói chẳng có.  Có Phật hay không Phật, pháp giới hai tướng, nên nói chẳng một, các pháp thường thanh tịnh, nên nói chẳng hai.  Các đức Phật trở lại làm phàm phu, cho nên chẳng không, vì không không cho nên chẳng có.  Vì không thật, nên chẳng một, bổn tế (4) không sanh nên chẳng hai.  Vì không hoại giả danh các pháp tướng, nên chẳng không, các pháp tức không phải các pháp, nên chẳng có.  Pháp cùng phi pháp cho nên chẳng hai, phi phi pháp nên chẳng một.

 

           Phật tử  !  hai nghĩa đế  :  không một cũng không hai, không thường cũng không đoạn, không lai cũng không khứ, không sinh cũng không diệt. Nhưng hai tướng tức là thánh trí không hai, vì không hai nên là trí mẫu của chư Phật Bồ Tát.

 

(Trích kinh  Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, quyễn hạ, Lệ 1).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Hữu đế  v.v…. Đây nêu ba đế, nhưng ở đoạn văn sau chỉ nói hai đế; ở trong hai đế tự có trung đạo đệ nhất nghĩa vậy.

 

  1. Thường nhỉ  :  nghĩa xưa nay là như vậy.

 

  1. Chẳng một, chẳng hai v.v… Đây là 8 chẳng, chính là luận lý trung đạo của hai đế vậy.

 

  1. Bổn tế  :  bản thể của sự cùng cực vậy.

 

 

  1. Ba đế một đế :

 

           Lại có ba đế.  Những gì là ba ?  Tục đế, đệ nhứt nghĩa đế và tướng đế (1).  Thế nào gọi là tục đế ?   Cũng như trong thế gian đã dùng ngôn ngữ văn tự, các sự vật giả danh v.v…Thế nào gọi là đệ nhất nghiã đế ? Cho đến không có để tâm trong hành động, huống chi phải có ngôn ngữ văn tự.  Thế nào gọi là tướng đế ?  Quan sát tất cả tướng, đồng một tướng; một tướng tức là không tướng.  Bồ Tát thuận theo tục đế mả không nhàm chán, quán đệ nhất nghĩa đế nhưng không chấp mình chứng.

 

Lại nữa có nhứt đế.  Những gì là nhứt ? Đối với tất cả sự vật, không có chỗ nương dính; vì hóa độ chúng sanh, hiện có chỗ trụ trước .  Ấy gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện….

 

(Trích kinh Đại Tập : Mahàsamghàtasùtra, quyển thứ 28, phẩm Vô Tận Ý Bồ Tát, huyền 2, tờ 58, bên mặt).

LƯƠC GIẢI :

 

(1) Tướng đế :  trong 3 đế, thêm tướng đế, ít thấy trong các kinh Luận khác.  Tướng đế là thế nào ?  nghĩa là quán tất cả tướng, đồng cùng một tướng; một tướng tức là vô tướng, bao trùm chân đế vậy.

Hết Phần Một của Chương Ba

Pd Phuong An

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567