Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2B- Ðạo Ðức và Xã Hội

12/01/201111:49(Xem: 9539)
2B- Ðạo Ðức và Xã Hội

 

VƯỢTKHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
ÐứcÐạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
ViệtDịch: Tâm Hà Lê Công Ða

 

PHẦN THỨ HAI

TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ

ÐẠO ÐỨC VÀ XÃ HỘI

Mộtsố nguyên tắc đạo lý cần thiết cho nhà chính trị như thế nào thì cũng cần thiếtcho nhà tu hành tôn giáo như thế.
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma.

Hômnay xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề đạo đức trong đời sống xã hội;tức là cái gì cấu thành điều thiện, cái gì được xem như một hành vi lươngthiện. Trước tiên ta cần phân biệt ra hai thế giá đạo đức mà theo tôi, cái thứnhất có quan hệ mật thiết với tôn giáo, tâm linh còn cái kia thì không. Một vàitiêu chuẩn luân lý trong đó có công bình và lương thiện được coi như gắn bó vớiđời sống tâm linh, tuy nhiên một cách tổng quát, tôi hoàn toàn tin tưởng vàogiá trị chân thực của một số nguyên tắc đạo lý được áp đặt nhằm tạo nên phúclợi cho chính chúng ta cũng như cho tha nhân.

Khita nói rằng một hành động là vô luân hay sai trái cũng có nghĩa là nó gây ranhững tác hại đối với kẻ khác. Chúng ta cũng cần phải biết phân biệt giữa hậuquả tức thời, trước mắt của một hành động và những hậu quả cơ bản, lâudài của nó. Một hành động có thể được xem như mang lại lợi ích trong thời điểmnày nhưng về lâu về dài có thể biến thành những hệ quả tiêu cực. Cũng thế, cónhững hành động thoạt tiên gây ra những khó khăn, nhưng trải qua một thời giandài lại mang đến những kết quả hoàn toàn tích cực. Cho nên trong bất cứ trườnghợp nào, vấn đề chính là hãy nhìn vào hệ quả cơ bản của nó.

Thếcho nên trên quan điểm này chúng ta sẽ nói về đạo đức hay luân lý -ngay cảđốichiếu với cuộc sống súc vật; nói một cách khác, làm thế nào mà chúng mang lạiphúc lợi cho đồng loại. Có những loại thú vật sống thành từng bầy đoàn đã biểulộ những dấu hiệu của lòng vị tha, dĩ nhiên là có phần hạn chế, tuy nhiêntất cả đâu có gì khác nhau nếu ta nhìn trên khía cạnh vị tha là sự quan tâm đếnnhững kẻ chung quanh mình. Trong số những hành động của thú vật mà ta có thểquan sát được -chúng không cần biết đến luật pháp, tôn giáo hay hiến pháp- tacó thể phân biệt ra được cái nào tốt , cái nào xấu. Nếu có một thứ luân lý giữathú vật, chúng cũng không cần phải quan tâm rằng chúng có tín ngưỡng haykhông, lại càng có thêm lý do để chúng hiện hữu giữa con người.
Một hành động trên nguyên tắc được xem là tích cực hay tiêu cực, lợi lạchay tác hại đều tùy thuộc vào ý hướng thúc đẩy ở đàng sau. Một hành động thoạtxem như thô lỗ hay cưỡng chế có thể coi là đúng đắn nếu được thúc đẩy bởi độngcơ vô cùng sâu sắc, đáng tán dương cũng như nó mang lại phúc lợi cho kẻkhác. Ngược lại, đôi khi có những ý hướng , mục tiêu vô cùng gian trá qủy quyệtlại được che dấu bằng hành động bề ngoài thoạt trông có vẻ rất cao thượng. Ðốivới tôi, một hành động được coi là thiện nếu được thúc đẩy bởi lòng vị tha, bởiý hướng khát khao muốn làm điều tốt cho kẻ khác, trong khi đó một hành động đượcgọi là ác nếu được thúc đẩy bởi ác tâm, ý hướng muốn gây tác hại cho tha nhân.Trong chiều hướng này ta có thể thiết định được một chuỗi nguyên tắc đạo lý màkhông cần phải dựa vào các khái niệm tôn giáo hay tín ngưỡng. Hơn thế nữa, súcvật thường rất nhạy cảm trước thái độ của chúng ta: ví dụ như ta tiến đến mộtcon chó với những ý xấu được che dấu, nó sẽ nhận ra và cảm được chuyện đó.Ngược lại nếu ta đến với y trong một tâm trạng cởi mở, yêu thương, trìu mến, nócũng cảm thấy được và bởi vì nó biết rằng ta không lừa dối nó, nó sẽ rấthạnh phúc để được thấy ta. Thế nên, trong mối tương quan, ngay cả súc vật cũngyêu chuộng sự thành thật và đau đớn trước những dối trá.

Tôitin chắc rằng trong thâm tâm của mỗi người đều có khuynh hướng tự nhiên là yêu chuộngsự ngay thẳng thành thật và nhân ái, bởi vì mỗi chúng sanh đều khát khao hạnhphúc và ý hướng muốn thoát khỏi khổ đau. Và hơn thế nữa, mỗi cá nhân đều cóquyền được đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc và chấm dứt khổ đau. Ðây là mộtquyền lợi bình đẳng của con người. Tôi thường hay phát biểu nhận định căn bảnnày như sau: Ý nghĩa, mục tiêu của đời sống con người là vươn tới thịnh vượngvà hạnh phúc. Có thể có người không đồng ý với quan điểm đó, tuy nhiên đối vớitôi có rất nhiều lý do để tin tưởng rằng điều này là đúng.
Quả thực, chúng ta hoàn toàn không biết chắc những gì sẽ xảy ra trongtương lai, con người vẫn sống với niềm hy vọng rằng mọi chuyện đều sẽ xảy ratốt đẹp cho họ; họ nhìn về tương lai với sự mong chờ như thế. Một ngày nào đókhi một người đánh mất đi niềm hy vọng, nếu không tự vẫn, họ cũng sẽ rơivào trạng thái hoàn toàn tuyệt vọng và cuộc sống của họ sẽ tàn lụi. Không thểnào hoàn tất được đời mình khi chúng ta sống trong tâm trạng hoàn toàn chánnản. Tuy nhiên nếu chúng ta luôn giữ cho niềm hy vọng ở tương lai không bao giờthui chột, chúng ta sẽ có khả năng vượt qua mọi nỗi khó khăn để sống. Vì lẽ đó,tôi luôn nghĩ rằng mục đích của đời sống con người là tìm kiếm hạnh phúc.

Tôitin chắc rằng hạnh phúc tinh thần luôn quan trọng hơn khoái lạc thể xác. Cái gìđã làm cho tinh thần ta hạnh phúc hay đau khổ? Tất cả đều dựa trên những mốiliên hệ của ta với tha nhân. Nếu mọi người chung quanh quan tâm ưu ái đến ta,đối xử tốt với ta cũng như cho ta biết những thiện ý của họ, tâm hồn ta như đượcbồi dưỡng và cảm thấy hân hoan vui vẻ. Ngược lại, nếu tha nhân đối xử với tamột cách tệ bạc, ác độc, chúng ta sẽ vô cùng đau đớn. Trong sự săn sóc nuôngchiều và thương mến của kẻ khác tâm hồn ta cảm thấy thoải mái và tự động dẫnđến sự thư giản thể xác. Tâm hồn ta càng hạnh phúc bao nhiêu, thể xác ta cũngsẽ hưởng phúc lợi lớn lao như thế. Thế cho nên tôi luôn tin rằng nhân ái,thương yêu và trìu mến là những thái độ tình cảm rất quý giá, quan trọng trongđời sống con người.

Córất nhiều nghề nghiệp khác nhau trong môi trường sinh hoạt của nhân loại -vídụnhư những người hoạt động trong lãnh vực giáo dục, luật pháp, thương mại,chính trị- đều có thể được đánh giá là hữu ích cho nhân sinh căn cứ vào thái độvà ý hướng được biểu lộ qua những thành tựu của họ. Không cần biết ta sinh hoạttrong ngành nghề nào, nếu ta có ý hướng cống biến đời mình cho lợi ích của kẻkhác, cung cách cư xử của ta sẽ có cơ may trở nên hữu ích; trong khi đó cónhững lãnh vực hoạt động thường được đánh giá là tốt, như tu hành chẳng hạn,trong thực tế lại có thể gây nên những điều tệ hại hơn là tốt lành, nếu động cơđược thúc đẩy không phải là nỗi khát khao được giúp đỡ đồng loại. Cho nên ngaycả sự can thiệp quân sự giới hạn mà động cơ thúc đẩy cực kỳ xác thực và vị tha,về lâu về dài có thể được minh chứng là có tính cách xây dựng.

Chúngta đang sống trong một xã hội tân tiến, ngay trung tâm của những thành tựu vượtbực của nền khoa học kỹ thuật và những tiến bộ vật chất đáng kể, ta đang cónguy cơ đánh mất những giá trị của con người. Bởi vì đời sống của chúng ta đangbị máy móc hóa và thiếu quân bình, tại sở làm cũng như gia đình, bất cứ chuyệngì cũng máy móc (dĩ nhiên là thiếu nhân tính), những phẩm chất của con người đãvà đang mất đi phần nào tính cách quan trọng. Quan niệm cho rằng giàu có tựnhiên sẽ mang đến thỏa mãn và hạnh phúc nay đang trở nên phổ biến. Tuy nhiênnếu chúng ta đem so sánh niềm hạnh phúc của một con người đang sống trong cảnhnghèo hèn nhưng giữa một khung cảnh đầy tình người, tràn ngập thương yêu và nhânái với một người khác tuy cực kỳ giàu có nhưng phải sống trong một bầu khí khókhăn bực bội, bị vây bủa bởi những khuôn mặt thù nghịch, thiếu thân thiện, mộtđiều hiển nhiên ai cũng thấy rằng người thứ nhất là kẻ có hạnh phúc hơn.

Chodù nhìn trên bình diện tính tình, tâm trạng, hoặc lối sống, người ta thấy rằngtrẻ con được nuôi dưỡng trong một bầu khí gia đình hoà thuận, có giáo dụcthường thành công hơn trong cuộc đời hơn là những đứa trẻ trưởng thành trongmột môi trường khó khăn, khắc nghiệt thiếu vắng tình thương yêu, trìu mến.

Thânxác chúng ta không phải là một sản phẩm của máy móc; cho nên nó hoạt động vàphát triển khác biệt. Những tiện nghi vật chất bao quanh chúng ta có thể lànhững nguyên nhân và điều kiện tạo nên những thoải mái thể xác, tuy nhiên vìthân xác ta không phải là một bộ máy, tất cả những điều đó vẫn chưa đủ. Nhữngyếu tố mang lại hạnh phúc phải được vun trồng từ bên trong của mỗi chúng ta.Thật là một lầm lẫn lớn lao nếu tin rằng chỉ cần những điều kiện vật chất là đủđể mang lại hạnh phúc; những nguyên nhân thực sự thật ra phải được pháttriển từ nội tâm.

Ðólà lý do tại sao tôi luôn tin rằng bản chất đích thực, phẩm chất nguyên thủycủa con người bao gồm lòng thương yêu, và trìu mến. Thế nên khi chúng tabày tỏ lòng thương yêu, vị tha của mình, chúng ta không thể làm gì khác hơnngoại trừ cảm thấy thỏa mãn bởi vì chúng ta đang hành động phù hợp với thiênlương của mình. Nếu chúng ta làm điều trái ngược, tức là chúng ta đã phản lạibản tánh căn bản của mình và điều này sẽ làm cho ta bị tổn thương. Cho dù bảntánh căn bản của chúng ta là tốt đẹp, trong thực tế sự giận dữ, ganh tị, độc ácvẫn là những mặt trái trong nhân cách con người. Kinh qua lịch sử nhân loạingười ta thấy không thiếu gì những vụ gây hấn và những kẻ thích thú khi làmnhững điều tàn ác được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này đãkhiến nhiều người cho rằng bản tánh của con người là xấu ác và bạo động -mộtquan điểm không phải hoàn toàn là không có cơ sở. Ai cũng biết rằng, nếumột người cứ phải sống trong giận dữ hai mươi bốn giờ trong ngày thì chắc làkhó có thểø sống lâu, trong khi đó một người mà tinh thần luôn luôn đầy ắpthương yêu sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, êm đềm lâu dài. Mặc dù tham dục vàđộc ác là một phần của tâm hồn con người, tôi vẫn luôn tin rằng những lực chủđộng trong ta vẫn là tình thương yêu và nhân ái.

Ðiềuquan trọng trước tiên là chúng ta phải hiểu ý nghĩa của hai tiếng thương yêu.Thương yêu là nỗi khát khao trông thấy hạnh phúc được mang lại cho những ai bịtước đoạt. Ta trải lòng từ ra với những kẻ đang khổ đau, và mong cầu cho họ xalìa mọi khổ nạn. Chúng ta thường có thói quen trìu mến yêu thương những ai thâncận với ta nhất, kế đến là bạn bè, chứ chẳng hề quan tâm đến kẻ lạ, và đối vớinhững kẻ làm hại ta thì chẳng bao giờ. Ðiều này cho thấy khi tình yêu thươngchỉ hướng đến những người gần gũi nhất với ta, nó đã bị nhuộm màu sâu đậm bởichấp trước và tham ái và đó không phải là tình yêu thương trọn vẹn. Tình thươngyêu đích thực phải được san sẻ đồng đều đến mọi người, không hạn định vào nhữngngười thân, bởi vì nó được xây dựng trên căn bản nhận thức rằng tất cả mọingười, giống như chúng ta, đều mong cầu tìm kiếm hạnh phúc và chạy trốn khổđau. Hơn thế nữa, nó còn phải dành cho mọi con người quyền được tìm kiếm hạnhphúc và giải phóng khỏi đau khổ. Như thế, tình thương yêu đích thực mang tínhchất vô tư, nó bao gồm tất cả mọi người không phân biệt, ngay cả đối với kẻ thùta.

Ðốivới từ bi, ta không nên lầm lẫn nó với lòng thương hại vốn bị đồng hoá với sựkhinh rẻ và cho mình cái ấn tượng rằng mình đang ở một vị thế cao hơn nhữngngười đang đau khổ. Lòng từ bi thật sự hàm chứa nguyện vọng chấm dứt mọikhổ đau cho tha nhân và một ý thức trách nhiệm đối với những người đang đaukhổ. Ý thức trách nhiệm này có nghĩa là chúng ta muốn dấn thân vào việc tìmkiếm những phương thức nhằm xoa dịu những ai đang gặp phải khó khăn. Tìnhyêu thương thật sự đối với tha nhân sẽ được chuyển hóa thành lòng can đảm vàsức mạnh. Một khi can đảm lớn mạnh, sự sợ hãi tan biến; đó là lý do tại saolòng nhân ái và tình huynh đệ được coi như là cỗi nguồn của sức mạnh nội tâm.Càng phát triển lòng thương yêu đối với tha nhân bao nhiêu, chúng ta càng cảmthấy tự tin vào mình bấy nhiêu; càng can đảm bao nhiêu chúng ta sẽ càng cảmthấy thư giản và an lạc bấy nhiêu.

Ðốinghịch với thương yêu là ác tâm, nguồn gốc của mọi tội lỗi. Trên căn bản này,chúng ta định nghĩa thế nào là kẻ thù? Một cách tổng quát, chúng ta xem kẻ thùlà những ai có ý làm tổn hại ta, những người thân, tài sản của ta; tức là nhữngkẻ chống phá hoặc hăm dọa trực tiếp đến những nhân tố tạo nên sự mãn nguyện vàhạnh phúc của ta . Khi kẻ thù nhắm đánh vào tài sản, bạn bè hoặc quyến thuộccủa ta, họ có vẻ như đang tấn công vào chính cỗi nguồn tạo nên hạnh phúc củata. Tuy nhiên rất khó mà khẳng định rằng bạn bè và tài sản của ta là nguồn gốcthật sự của hạnh phúc, bởi vì rốt lại yếu tố chủ động vẫn là sự an bình nộitâm; chính sự bình an tâm hồn này làm cho chúng ta thư giản và hạnh phúc, nếumất nó chúng ta sẽ cảm thấy cuộc sống trở nên vô cùng khốn khổ.

Kẻthù bên ngoài không có đủ khả năng để tiêu diệt hạnh phúc của chúng ta. Thực rasự giận dữ, hận thù, ác tâm -nếu chúng ta nhận ra chúng- mới chính là mầm mốnghuỷ diệt sự an bình nội tâm và do đó làm tiêu tan niềm hạnh phúc của chúng ta.Chúng mới chính là kẻ thù đích thực. Những ai đạt được một mức độ an bình nộitâm cao sẽ vẫn giữ được tâm trạng thư giãn, an lạc cho dù phải đối đầu vớinhững tình huống cực kỳ khó khăn, khi mà hạnh phúc đang ở trong nguy cơ bịtriệt phá toàn diện. Tuy nhiêm một người mà tâm hồn luôn bị xâu xé bởi nhữngngọn lửa độc hại của ác tâm, hận thù, ganh tỵ sẽ chẳng thu hoạch được gì chođời mình ngoại trừ khốn khổ cho dù họ được ở trong những tình huống tốt đẹpnhất.

Nhưthế, ta thấy rằng kẻ thù đích thực của hạnh phúc hiện hữu ở trong lòng mỗi conngười; ta đừng chạy đi tìm kiếm một kẻ thù thực sự nào ở bên ngoài. Chìa khóacủa hạnh phúc chân thật nằm ở trong tay chúng ta. Nếu hiểu được như thế ta sẽkhám phá ra những giá trị thiết yếu của lòng nhân ái, tình huynh đệ và vị tha.Càng nhìn rõ được những phúc lợi mà những giá trị này mang lại bao nhiêu, ta sẽcàng tìm mọi cách để loại bỏ các giá trị đối nghịch với chúng; và như vậy ta đãcó thể chuyển hoá được nội tâm mình.

Ðểtrở lại chủ điểm của vấn đề thảo luận, tôi có thể nói rằng một hành động mangphúc lợi được phát khởi từ lòng vị tha, sẽ luôn là một hành động công chính,tốt lành. Ðiều này mang lại cho tôi niềm tin tưởng rằng tất cả các tôn giáochính của nhân loại, với tất cả thiện tâm của mình, đều chia xẻ chung mộtmục tiêu là củng cố các giá trị nhân bản, được triển khai bằng các phương tiệnkhác nhau tùy theo triết lý và đường lối tu tập riêng của mình. Thế cho nênngay chính từ cốt lõi của các tôn giáo độc thần như Cơ đốc, Do thái giáo, hayHồi giáo đều được đặt căn bản trên đức tin vào một Ðấng Sáng Tạo. Từ đó ngườita học cách yêu Thượng Ðế đồng thời cùng với tình yêu tha nhân, tuy nhiên tôitin chắc rằng mục tiêu chung của những truyền thống tâm linh này đều là học tậpcách yêu thương đồng loại. Ðiều này có thể được giải thích là, bởi vì Thượng Ðếđã dạy ta như thế; thế cho nên càng tin kính Thượng Ðế bao nhiêu, ta càngphải vâng theo những lời giáo huấn đó, đặc biệt là trên lãnh vực liên quan đếntình huynh đệ giữa con người. Mục tiêu tối hậu của tôn giáo vì thế chính làkhuyến khích con người yêu thương lẫn nhau.
Cơ Ðốc giáo không hề chống lại ý niệm tái sanh luân hồi, tức là khái niệm vềnhững đời sống tiếp nối nhau. Tôi đã có cơ hội đàm đạo vấn đề này với một ngườibạn Cơ Ðốc và trình bày với ông ta rằng không có gì khác biệt giữa ý niệm táisanh luân hồi và thần học Cơ Ðốc. Ông ta đã trã lời rằng những vấn nạn gây nênbởi niềm tin vào tái sanh luân hồi ở chỗ là nó tạo nên một khoảng cách nhấtđịnh giữa tín đồ và Thượng Ðế, thế nhưng nếu con người tin tưởng và chấp nhậnrằng đời sống của mình là do Thượng Ðế tạo dựng và sự hiện hữu đó là duy nhất,đồng thời người ta cũng cần có một yếu tố mới trong mối liên hệ sâu xa và khẩnthiết lớn lao giữa Thượng Ðế và con người. Tôi nhận thấy rằng những ýtưởng của ông ta phản ánh một luận cứ nhất định và lý giải đó rất có cơ sở.Trong giáo lý Cơ Ðốc, điều này giải thích sự cần thiết của tình yêu thươnghuynh đệ giữa con người và lòng tha thứ hỷ xả.

Bâygiờ chúng ta hãy nhìn vào các tôn giáo không đặt niềm tin vào một đấng ThượngÐế sáng tạo như Phật giáo hay đạo Jain, quan niệm rằng mỗi cá nhân tự làm chủvận mệnh của mình: mỗi người tự mình tạo ra các nguyên nhân dẫn đến hạnh phúc.Trách nhiệm là ở chúng ta mà không ai khác. Nếu chúng ta gây nên những tác hạicho kẻ khác, chúng ta sẽ gánh chịu đau khổ; nếu chúng ta phụng sự tha nhân,chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc. Dựa trên căn bản của luật nhân quả mà các tínđồ của các truyền thống tôn giáo này giải thích sự cần thiết của sự xử thế vớilòng nhân ái.

Nhưvậy mối quan hệ đúng đắn giữa đạo đức và tôn giáo là gì? Những người đang dấnbước trên con đường tâm linh xem đạo đức là nền tảng căn bản mà họ vươn tới,thế nên họ tránh không muốn gây khổ đau cho người khác mà ngược lại, đối xử vớimọi người bằng lòng nhân ái. Tùy theo tín ngưỡng của mỗi người, họ diễn giải ýniệm đạo đức một cách khác nhau, chẳng hạn như xem đó là thánh ý của Chúa haylà hồng ân của Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Căn cứ vào niềm tin tôn giáo củamình, chúng ta cho rằng nếu tuân thủ theo một số nguyên tắc đạo đức nào đó tasẽ được đi lên thiên đàng hay thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.

Tuynhiên, từ cội rễ của những niềm tin này, tôi tin chắc rằng có một chuổi nguyêntắc đạo lý phổ quát mà trong thực tế đã không cần phải dựa vào bất cứ tôn giáotín ngưỡng nào mà vẫn có thể được vun đắp, phát triển trong nội dung giáo lýcủa bất cứ truyền thống nào mà ta đã lựa chọn. Nếu chúng ta chấp nhận và thựchiện nền luân lý phổ quát này, vốn đã được mọi người công nhận, củng cố và cải thiệnnó thông qua niềm tin tôn giáo, việc tu tập tâm linh cũng như những sinh hoạtthế gian của chúng ta sẽ hòa nhịp với nguyên tắc đạo đức này. Ngược lại, nếuchúng ta hành trì tu tập tôn giáo một cách tinh chuyên thế nhưng chẳng bao giờchịu sống một đời sống phạm hạnh đạo đức, sự tu tập đó cũng chẳng mang lại điềugì tốt đẹp. Thế cho nên đối với tôi, hình như các tôn giáo lớn đã đồng ý vớinhau về tính cách quan trọng của một nền đạo lý căn bản.

Vấnđề đặt ra là sự đa dạng của các truyền thống tâm linh có thực sự cần thiết haykhông nếu tất cả các tôn giáo đều giống nhau ở điểm căn bản. Tại sao lạicó quá nhiều các triết thuyết và quan điểm tôn giáo khác biệt trong khi chỉ cầnmột tôn giáo duy nhất là đủ? Tôi thường hay so sánh sự đa dạng của tôngiáo như các loại thực phẩm khác biệt cần thiết cho thân thể chúng ta. Conngười có những khẩu vị khác nhau, người thì thích mùi vị này kẻ thì thích mónăn kia, có người thích ăn cơm Tây, kẻ thích cơm Tàu hoặc các thực đơn khác. Mọingười đều muốn ăn uống theo một khẩu vị đặc biệt nào đó của riêng mình.Ðó là lý do tại sao các nhà hàng thường cung ứng một thực đơn phong phú tha hồcho khách lựa chọn, còn nếu họ chỉ phục vụ một món duy nhất ngày này qua ngàykhác thì chắc là họ sẽ dẹp tiệm sớm!

Tôinghĩ rằng cùng một nguyên tắc như thế được áp dụng cho việc bồi dưỡng tâm linh.Nhằm đáp ứng với những nhu cầu khác biệt của con người, cũng như thỏa mãn tâmtính, khát vọng, khuynh hướng của mỗi cá nhân mà đủ mọi triết thuyết, tôn giáo,truyền thống tâm linh được ra đời. Bởi lẽ nhu cầu của con người quá phong phúđa dạng, quả là điều cực kỳ khó khăn cho một tôn giáo có thể cung ứngnổi. Thế nên nhiều đường lối tu hành chừng nào thì lại càng tốt chừngnấy!

Cùngmột lúc ta có thể khẳng định rằng các đức tin khác biệt có thể sống hoà điệucùng nhau, bởi vì ngay từ căn bản, nguyên tắc đạo lý phổ quát là nền tảng quantrọng chung của mọi tôn giáo. Nó đủ để đáp ứng cho tất cả tín đồ của cáctruyền thống khác biệt có thể thông cảm hiểu biết nhau hơn và giúp cho họáp dụng một cách tốt đẹp những điều mà họ học hỏi được từ các tôn giáo khác,nhằm cải thiện phương thức tu tập cá biệt của mình. Bằng cách này, người ta cónhiều khả năng hơn để đánh giá các truyền thống khác và từ đó sẽ dẫn đếnsự tương kính nhau hơn.

Hồicòn sống ở Tây Tạng, tôi đã không hề có một cuộc tiếp xúc thật sự nào với đạibiểu của các tôn giáo khác, dù rằng Thánh kinh cũng đã được dịch ra tiếng TâyTạng, tận trong tâm khảm của tôi, tôi luôn tin chắc rằng Phật giáo là tôn giáohoàn hão nhất và tự nhủ, quả là điều tuyệt diệu vô cùng nếu tất cả mọi ngườiđều cải đạo qua Phật giáo. Thế rồi, lần hồi từng tí một, tôi đã có dịp du hànhtrên khắp thế giới, gặp gỡ đại diện của các đức tin khác, những người có kinhnghiệm thấu đáo trong truyền thống tu tập riêng biệt của họ, đó là những ngườiđã cống hiến trọn cuộc đời của mình cho suy niệm hay giúp đỡ tha nhân. Thôngqua những tiếp xúc cá nhân và trao đổi với họ tôi nhận thức được tầm quan trọnglớn lao của các tôn giáo khác với tất cả niềm kính trọng sâu xa. Dĩ nhiên Phậtgiáo vẫn là con đường tuyệt diệu nhất đối với tôi bởi vì nó tương hợp vớibản chất của tôi. Thế nhưng điều này không có nghĩa làtôi tin rằng Phật giáo làmột tôn giáo tốt nhất cho tất cả mọi người. Phương thức tiếp cận mà tôi vừatrình bày sẽ giúp mở rộng cánh cửa tâm hồn và mang lại những ân sũng cho bất cứai thực hành nó.

Mộtlần nữa, tôi nghĩ rằng nếu các tôn giáo biết học cách sống chung với nhau tronghoà điệu và tương kính thì quả là điều hạnh phúc cho tất cả mọi người. Khi bạnnhìn vào những trường hợp đau buồn như đã xảy ra tại Bosnia, nơi mà nhândanh tín ngưỡng, người ta đã xâu xé giết hại lẫn nhau, gây ra vô số thảm cảnhcho biết bao lương dân vô tội không thể nói hết được, bạn chỉ còn biết đau xótsâu xa cho những tình huống như thế.

Ðểkết luận, chúng ta hãy cùng suy nghĩ đến một vài câu hỏi có thể thoángqua tâm trí ta. Chẳng hạn như ta tin chắc rằng bản chất cơ bản của con người làthiện lương, cũng như phát triển tình thương yêu đối với tha nhân sẽ đủ để manglại hoà bình; thế nhưng khi nhìn vào lịch sử thế giới, chúng ta chẳng thấy điềugì ngoại trừ những vấn nạn do con người gây ra vẫn tiếp diễn từ hàng ngànnăm qua. Như vậy làm thế nào để chúng ta có thể tin vào khả năng mang lại mộttình yêu thương phổ quát? Cũng vậy, chúng ta có còn hy vọng vào sự hoà điệutương kính giữa các tôn giáo, khi mà chúng ta thấy cùng chia xẻ chung đức tin,con người vẫn chém giết lẫn nhau suốt qua chiều dài lịch sừ?

Theothiển ý của tôi chúng ta vẫn có quyền hy vọng bởi vì tình huống đã thay đổi khálớn lao trong thời đại ngày nay. Trong quá khứ, chúng ta có thể đề cập đến giátrị của lòng vị tha cũng như một số ý thức trách nhiệm liên hệ đến tha nhân,thế nhưng chúng ta đã không nhất thiết hiểu biết sự lợi ích của các thái độnày. Thế giới hiện đại đã phát triển đến mức độ mà hai thái độ này nay đã trởnên cần thiết, nếu không nói là không thể thiếu được. Những giá trị sâu sắc vàcổ điển này nay đã trở thành chủ yếu. Hơn thế nữa, với sự nhanh chóng và tầmmức quan trọng của lãnh vực trao đổi và truyền thông giữa con người và các quốcgia, chúng ta dễ dàng được thông báo về những gì đang xảy ra ở tận những nơi xaxôi, và như thế cảm thấy trở nên gần gũi hơn với những con người đang sống xacách ta muôn trùng diệu vợi. Ðiều này tạo nên sự đoàn kết lớn lao hơn giữa conngười với nhau. Thế nên tôi tin chắc rằng nếu chúng ta nỗ lực đúng mức hơn,chúng ta sẽ tạo dựng nên một thế giới hoà điệu. Ðó là tất cả những gì tôi muốntrình bày cùng qúy vị hôm nay.

ThưaNgài, từ bi có những hạn chế nào không? Những gì là hạn chế của lòng khoandung? Có gì khác nhau giữa chấp nhận và tùng phục?

Tôicó thể khẳng định rằng lòng từ bi không bao giờ có giới hạn vàchúng ta cũngkhông có lý do gì để phải áp đặt những giới hạn lên từ bi. Tôi nghĩ rằng vấn đềcâu hỏi muốn nêu lên là chúng ta có nên phản ứng và từng bước chống trả lạinhững kẻ đã tấn công ta hay không. Tôi cho là chúng ta có thể phản ứng, nhưngđồng thời cũng nên rải tâm từ bi đến những kẻ đang gây hấn, xâm lược ta. Trongtâm trạng như thế, những bước tiến hành sẽ trở nên hiệu quả hơn. Nếu lòng từ bibiến mất và tâm hồn ta đầy dẫy hận thù và giận dữ, ta sẽ bị chìm ngập tronghoang mang bối rối. Trong thực tế, bất cứ những biện pháp nào được thực hiện doảnh hưởng bởi những cảm tính như thế sẽ có nguy cơ bị chệch hướng và trởnên vô hiệu. Hận thù phải được phân biệt với cơn giận tự nhiên; hận thù luônluôn là điều đáng lên án và không bao giờ mang lại lợi ích cho ta; ngược lạigiận dữ trong một vài tình huống có thể trở nên hữu ích, và nếu như được thúc đẩybởi tâm từ bi, nó có thể có khả năng làm cho ta phản ứng nhặm lẹ; trong trườnghợp này nó có tính xây dựng.

ThưaNgài có gì khác nhau giữa tuân phục và nhẫn nhục?

Lòngnhẫn nhục thật sự có nghĩa là chúng ta không phản ứng lại những việc sai tráimàkẻ ác gây ra cho ta mặc dù ta có đầy đủ phương tiện để phản ứng, chẳng hạnnhư việc phục thù và hành động lấy mắt trả mắt khi ta có cơ hội. Ngược lại,tuân phục không dính dấp gì đến nhẫn nhục, đây là trường hợp ta không có khả năngphản ứng lại kẻ đang gây tác hại cho ta, cho dù ta có thể rất giận dữ.

ThưaNgài, có những vị Phật được xuất hiện dưới dạng phụ nữ?

Dĩnhiên! Hãy nhìn vào trường hợp của Arya Tara, người phụ nữ đầu tiên đã đạt đếntrạng thái giác ngộ, một hạnh nguyện tự phát hướng đến Phật quả cho phúc lợicủa toàn thể chúng sanh, và đó là một bậc nữ lưu. Khi đạt đến giác ngộ, Ngài đãphát nguyện như thế này: “Có rất nhiều người đã đạt được Phật quả mang thân namgiới tuy nhiên rất ít người đạt được qủa vị này trong tấm thân nữ giới, tôi nayđã chứng qủa bồ đề, xin nguyện tiếp tục tinh tiến trên con đường giác ngộ trongthân phụ nữ và thành Phật dưới dạng nữ giới!” Chúng ta có thể kết luận rằngTara có thể là vị nữ lưu đầu tiên trong Phật giáo!

Trongkinh Viên Giác (Paramitayana - Vehicles of Perfection), cũng như ba phẩmđầu tiên của Tantras luôn luôn nói rằng quả vị Phật được thành tựu trong dạngnam giới. Tuy nhiên trong phẩm thứ tư của Tantras, đã không có sự phân biệtgiữa nam giới và nữ giới; sự giác ngộ có thể thành tựu một cách dễ dàng đối vớingười nữ cũng như nam.

Suốtngày chúng ta cạnh tranh không ngừng với tha nhân để dành phần lợi lộc cho cánhân mình, rồi buổi tối khi về nhà, chúng ta tự coi mình là người tốt và chiaxẻ chúng với anh chị em thân nhân của ta. Làm thế nào chúng ta có thể sống mộtcách mâu thuẫn như thế?

Nóinhư thế phải chăng là chúng ta đã không hề có bạn bè thân hữu trong suốt cảngày? Ðây là một trạng huống khó khăn mà ta thường gặp trong một vàikhung cảnh xã hội -khi ta bị bắt buộc phải sống thường xuyên trong một bầu khíbị ngự trị bởi tinh thần cạnh tranh. Dĩ nhiên cạnh tranh bao gồm cả hai mặttích cực và tiêu cực. Chẳng hạn như ta có thể nói rằng tu tập Phật giáo là mộthình thái cạnh tranh xây dựng: tâm ta luôn luôn ở trong trạng thái tranh chấpvới những yếu tố tiêu cực sẵn sàng xâm chiếm và như thế nó đã phải chiến đấubằng đủ mọi vũ khí giải độc. Trong thương trường cũng như trong đời sống xã hộinói chung, cũng cần phải có chỗ đứng cho sự cạnh tranh hữu ích và chánh đáng,được thúc đẩy bởi ý hướng tốt và nêu ra được tấm gương tốt cho mọi người. Hơnthế nữa, chúng ta biết rằng hình thức tiêu cực của tinh thần cạnh tranh thườngđược thúc đẩy bởi ý hướng xấu, như cạnh tranh bẩn thỉu hoặc do thùhằn. Ngoài ra phải kể đến sự cạnh tranh mang tinh thần vô tư, đặc biệt làtrong thương trường, mà những nỗ lực không ngoài mục đích mang đến lợi nhuận vàkiếm sống. Tất cả, theo tôi đều tùy thuộc vào thái độ tinh thần thúc đẩy nhữnghoạt động này.

Trongmột xã hội mà sự cạnh tranh là một hiện hữu đương nhiên, những phản ứng của conngười thường khác biệt tùy theo bản tánh và cách nhìn vấn đề của họ. Nếu chúngta cư xử một cách lương thiện, tử tế mà vẫn bị kẻ khác phá hoại bởi những ngườilợi dụng bản tánh tốt đẹp của ta để cạnh tranh bất chính, tôi nghĩ rằng chúngta có thể sẽ phải phản ứng, nhưng sẽ không dùng các thủ thuật bá đạo; bởivì trong những tình huống như vậy nếu không biểu lộ tinh thần cạnh tranh, ta sẽlàm ngăn trở sự tiến bộ.

TheoNgài những gì là yếu tố chính mà bậc phụ huynh cần nên bao gồm vào nền học vấncủa con trẻ?

Chodù phẩm chất trí tuệ mà nền giáo dục mang lại cho ta là gì đi nữa nó cũng phảiđược hoà điệu với những nguyên lý căn bản của con người, thế nên nền giáo dụcđó cần bao gồm những yếu tố của tình thương yêu và từ bi, bởi vì không có gìbảo đảm rằng chỉ kiến thức không thôi là thực sự hữu ích cho con người. Tôithấy rằng trong số những kẻ gây nên những vấn nạn lớn lao cho xã hội đã khôngthiếu gì những người có học thức cao và giàu kiến thức, tuy nhiên họ thiếu cănbản đạo đức, tức là hướng đến việc phát triển từ bi, trí huệ và thị kiến rõràng. Bởi lẽ đó, một điều hiển nhiên là không phải chúng ta chỉ đảm bảo cho contrẻ có một nền học vấn cao, mà đồng thời còn phải tạo dựng nên một môi trườngthuận tiện cho việc vun trồng các phẩm chất tốt đẹp như tình yêu tha nhân chẳnghạn.

Làmthế nào để dạy trẻ lòng từ bi? Không phải chỉ bằng lời nói suông mà là bằnghành động, ta phải nêu ra những tấm gương tốt và sống theo như thế để cho trẻcon có thể học bằng cách quan sát, bắt chước theo cha mẹ chúng; đó là lý do tạisao môi trường gia đình rất quan trọng trong giáo dục.

Ngườita từng nói rằng cười là món quà đặc biệt được ban cho con người. Theo ý Ngài,con người đã cười quá nhiều hay chưa đủ?

Tôiđã được biết rằng một số loài khỉ cũng có khả năng cười dỡn; tôi không rõlắm. Nhưng nói chung, hình như cười là một bản tính đặc biệt của nhânloại. Chắc chắn cũng có một số người ít khi mĩm cười! Tuy nhiên tôi không nghĩrằng người ta lại có thể cười cợt quá mức. Ai mà biết? Có một vấn nạn là nhữngngười cười quá độ thì rất hiếm, trong khi những người không chịu mĩm cười thìlại quá nhiều!

ThưaNgài, tại sao lại có chuyện hạnh phúc của người này có được là do ở sự mất máthạnh phúc của kẻ khác?

Gốcrễ của vấn đề này là do ta thiếu tầm nhìn xa thấy rộng hoặc là những ngườikhông theo một hành trình tâm linh nào cụ thể. Khi ta tìm kiếm hạnh phúc choriêng mình bằng cách tước đoạt hạnh phúc của kẻ khác, tự thâm tâm ta sẽ chẳngbao giờ cảm thấy vui sướng và về lâu về dài ta sẽ trở nên cô độc, không cònliên hệ được với tha nhân.

Xãhội mà chúng ta sống đang vươn tới đỉnh cao của sự phát triển khoa học, kỹthuật. Thế nhưng chúng tôi vẫn có ấn tượng rằng tình cảm của chúng ta cũng nhưvòng vây của bạo lực do tham ái gây ra trải qua hàng ngàn năm đã chẳng biến đổichút nào. Theo ý Ngài, làm thế nào thế giới có thể giải quyết vấn nạn này màkhông gây khổ đau cho những kẻ yếu hèn xấu số?

Liênquan đến phần thứ nhất của câu hỏi, về vấn nạn của bạo lực, tôi cho rằng có rấtnhiều yếu tố can dự vào: hai nguyên nhân quan trọng nhất là sự gia tăng nhân sốvà bên cạnh đó là việc thủ đắc vũ khí quá dễ dàng. Ðể giải quyết vấn nạn này,chúng ta cần phải cân nhắc khi hoạch định các chính sách về hạn chế sinh sản vàvề giải trừ quân bị. Vấn đề hiện nay không phải là làm cho đầu óc con người bịtràn ngập bởi những nguồn thông tin không ngừng gia tăng, mà là bằng phươngtiện đó tạo cơ hội đồng đều cho họ được hấp thụ các chất liệu bổ dưỡng tinhthần, để cho mỗi người có thể tự thay đổi tâm tánh và cải thiện thái độ cư xửcủa họ đối với tha nhân. Trong trường hợp này, ngành truyền thông đóng một vaitrò khá quan trọng; tuy nhiên tôi không khỏi phiền lòng khi thấy họ chỉ chú mụcvào các chuyện tiêu cực. Tôi nghĩ rằng để có thể có được một ấn tượng công bằngvà quân bình hơn đối với sự việc, bộ phận truyền thông cần nên quan tâm đồngđều đến những vụ việc phản ánh được phẩm chất tốt đẹp và những thành tựu củacon người, nếu không chúng ta rốt cùng sẽ tin rằng bản tánh của con người làxấu ác, thích gây hấn, và như vậy chúng ta sẽ sống trong thất vọng.

Phầnthứ hai của câu hỏi đối phó với vấn nạn bạo lực liên hệ đến tâm thủ đắc của conngười. Thưa Ngài, nhân danh những người nghèo khổ yếu kém nhất trên thếgian này, ta làm thế nào để giải quyết vấn nạn này mà không phải sử dụng đếncác biện pháp triệt để? Làm thế nào để những kẻ giàu có biết phát triển lòngkính trọng đối với kẻ khác?

Tôinghĩ rằng mọi tôn giáo đều tối thiểu khuyến khích chứ không hề chối bỏ sựphát triển cuả tinh thần tri túc. Bằng cách cho thấy được những lợi lạc củathái độ sống này người ta có thể giải thích làm thế nào để chúng ta có thể mãnnguyện với những gì ta có, dù ít ỏi nhất. Gần đây tôi có dịp thăm viếng tu việnGrande Chartreuse và vô cùng sửng sốt khi biết được những tu sĩ ở đây sống hoàntoàn cắt đứt với những liên hệ của thế giới bên ngoài, không cả tin tức báo chíhay đài phát thanh, và tôi đã rất ngạc nhiên đầy thán phục trước phẩm chấttuyệt vời và cuộc sống rất giản đơn của họ.

Nhưvậy làm thế nào để một người không dính dấp gì đến cuộc sống tu hành tôn giáocó thể học được cách sống thoả mãn với những sở hữu tối thiểu? Trên mộtkhía cạnh khác, phải chăng những người giàu có nhất đang là kẻ nô lệ cho tàisản, đồng tiền của họ? Những người triệu phú đâu có nghĩa là sẽ được thụhưởng một tuổi thọ lâu dài và có sức khỏe dồi dào hơn kẻ khác; mặc dù những tàisản mà họ có trong tay chưa hẵn đã làm cho họ có một đời sống hạnh phúc hơn.Nếu chúng ta luôn nhắc nhở mình như thế, chúng ta sẽ học được cách sống thỏamãn với những gì hiện có.

Trongmột lần thăm viếng Hoa Kỳ, tôi đã được một vị khách qúy giàu có mời về nhà ăntrưa. Tôi đã có dịp quan sát sự giàusang và tiện nghi phô bày trong ngôi nhàcủa họ và thầm nghĩ rằng những người này đang sống một cuộc sống hoàn toàn thỏamãn. Ðến cuối bửa ăn tôi vào phòng tắm để rửa ráy thay đồ và bất chợt nhìn vàotủ thuốc khép hờ của họ: đủ các loại thuốc ngủ và giảm thống. Tôi kết luận rằnghọ đã không hạnh phúc lắm như ta tưởng.

ThưỪức Ðạt Lai Lạt Ma, phải chăng đối nghịch của vị tha là ích kỷ? Có phải làchúng ta cần một ít ích kỷ để đạt đến hạnh phúc?

Khinói đến vị tha có nghĩa là chúng ta không nên nghĩ đến phúc lợi cho riêng cánhân mình. Ðiều này không có nghĩa là ta phải trở thành những kẻ tử vì đạo! Nóchỉ có một ý nghĩa rất đơn giản là ta không nên bỏ quên người khác để chỉ tìmkiếm hạnh phúc cho riêng cá nhân mình, tức là ta quan tâm đến đồng loại nếukhông quan trọng hơn thì tối thiểu cũng bằng ta.

Khitư tưởng và hành động của chúng ta luôn hướng đến tha nhân và làm mọi cách chohọ được hạnh phúc, chúng ta sẽ thấy rằng hạnh phúc sẽ đến với chúng ta một cáchrất mau chóng, tự nhiên. Yêu thương tha nhân và từ bỏ phúc lợi của chính bảnthân mình không bao giờ đưa đến đau khổ. Ðó là lý do tại sao tôi thường hay nóirằng nếu chúng ta muốn chấp nhận thực hiện một thái độ vị kỷ, hãy làm một cáchthật thông minh. Ðây là lý lẽ: chúng ta thường có thói quen chỉ nghĩ đến mìnhmà quên đi quyền lợi và nguyện vọng của kẻ khác, cao điểm là việc khai thác lợidụng tha nhân cho lợi nhuận của cá nhân mình. Trong những tình huống như vậy,cho dù chúng ta đang đi kiếm tìm hạnh phúc, ta sẽ không đạt được gì ngoài đaukhổ. Ngược lại, nếu ta cố gắng giúp đỡ tha nhân, phục vụ kẻ khác, mangđến hạnh phúc cho họ, chung cuộc ta sẽ là người thu được ích lợi, bởi vìta sẽ cảm thấy sung sướng hạnh phúc hơn. Ðó là điều mà tôi gọi là ích kỷ thôngminh.

Trongsố các tâm trạng khác nhau mà ta được biết, chẳng hạn như lòng tham ái,có thể là tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào những gì thúc đẩy chúng. Hãy xemtrường hợp biểu hiện rõ rệt ý thức của bản ngã: nếu đây rõ ràng là một thái độtrịch thượng bề trên đưa đến việc chống đối và coi thường kẻ khác, chúng tađang đối diện với sự kiêu hảnh, một trạng thái tiêu cực của tâm hồn. Thếnhưng nếu cùng một khái niệm đó -ý thức về bản ngã- cũng có thể được biểu lộdưới hình thức của sự tự tin, dẫn đến lòng can đảm và niềm tin chắc chắn rằng,ví dụ như, mình có khả năng đạt đến giác ngộ cho phúc lợi của muôn người.Trong trường hợp này, nó có tính xây dựng và tích cực.

Ngàinghĩ như thế nào về sự mê đắm?

Khichúng ta mê say điều gì, sự dấn thân và lòng quyết tâm của ta càng gia tăng.Thật ra bạn có thể áp dụng quan điểm này đối với mọi loại tình cảm kể cả tiêucực hay tích cực. Lòng từ bi chẳng hạn được coi là tích cực trong khi tinh thầnchấp trước được coi là tiêu cực. Có một số tình cảm tự nó không là tíchcực hay tiêu cực. Nếu chúng ta coi sự mê đắm như là một tình cảm cực kỳ mạnhmẽ, có thể đưa ta đến sự dấn thân và một tinh thần trách nhiệm cao độ thì đóchính là khía cạnh tích cực của lòng mê đắm. Có lần tôi tham dự một buổi hộithảo quan trọng gồm những nhà chuyên môn và mỗi người phát biểu khá lâu, phântích khá chi tiết về lãnh vực chuyên môn của mình. Họ thật sự là những nhà uyênbác.

Ðếnphiên tôi phát biểu, tôi có cảm tưởng rằng không còn gì để phải nói nữa, thếnhưng như thường lệ, nhân danh tư cách một nhà tâm lý học Phật giáo, tôi muốnnhấn mạnh đến sự quan trọng của động cơ thúc đẩy, của ý hướng -tức là động lựcthúc đẩy đằng sau mọi hành động của chúng ta- cũng như về ý thức trách nhiệm.Tôi tiếp tục phát biểu là tôi sợ rằng với sự phân tích một cách chi ly thái quávề phương thức tiếp cận như thế, nếu ngôi nhà của qúy vị bị phát hoả, nhữngngười bạn thân yêu của tôi ơi, lúc đó chắc qúy vị sẽ đứng yên một chỗ để phântích tình huống, đặt vấn đề hỏa hoạn đã được bắt đầu như thế nào, phát khởi ởđâu, tại sao nó lại cháy theo kiểu cách như vậy, v.v... và v.v... Tất cả mọingười đều bật cười!

PHẦN THỨ HAI

TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ

TỪ BI

Thaymặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, nhữngngười đã quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cảhai bình diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những gì mà qúyvị đang góp tay để gìn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.

Hômnay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề bình an tâm hồn. Lýdo mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối vớitôi- vì nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăngtiến sự bình an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đềubiết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đã giúp chúng tôigiữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền vănhoá đó.

Mặccho bao thử thách và tình huống khó khăn, nền văn minh này đã cho phép chúng tabảo tồn được sự thanh thản và an bình tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng códịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họvề những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thần mà con người hôm nay đang mắc phảicũng như tìm kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đã cật vấntôi khá lâu về sức mạnh và tình trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đãrất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, ngườiTây Tạng vẫn giữ được cho mình một trạng thái bình ổn tâm hồn. Ðiều này đã đượcđặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trạitù, lao động khổ sai của Trung Cộng.

Tôixin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn hình. Vị phó trú trì của tuviện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Ðộ gần đây, đã bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trongkhoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong củaNgài tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại có dịp chuyện trò tán gẫu với nhau. Ngài đã kểlại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đã trải qua.Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạngthái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất lòngtừ đối với những kẻ đã hành hạ tra tấn Ngài. Ðây là một nhận định rất đáng lưutâm!

Tôithường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị TrungCộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay gì cả. Mặc dùông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại còn ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể khôngtrông thấy tóc bạc của tôi đâu vì tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nóihơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi,tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.

Cũngcó thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phậtgiáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lý và giáo lý Phật giáo,nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu củathời đại tân tiến. Thế mà tôi đã phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao.Tôi đã bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôiđã phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tạimột xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộngđồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn còn đang gánh chịu biết bao điêulinh và thống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ đượctâm hồn mình, bình an, thư thái.

Trongmột vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại ẤnÐộ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rấthạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có gì là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này cóthể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.

Làmthế nào để phát triển sự bình an và thanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bảntánh của con người là tốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải làkhông có những tình cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bảnchất đích thực của con người vẫn là lòng yêu thương trìu mến và nhân ái. Từngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bóchặt chẽ với yêu thương và nồng ấm tình người. Một thực tế mà mọi ngườiđều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy tình yêu thươngthường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi nhữngđứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng tình thương, từ bi nhân áichung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên nhữngcăng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng tình thươngyêu, từ ái trong gia đình gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩvà nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố thenchốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khichào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, làmột yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứatrẻ.

Chúngta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng mình đang phấn chấn vui vẻ, có cảmtưởng như cả thế giới đang mĩm cười với mình, ta sẽ chấp nhận những khó khănhay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang manggiao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùngnhững tình cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những tình cảmtiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không còn ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đauốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. Tình trạngthư thái tâm hồn vì thế rất quan trọng.

Conngười sống trong xã hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họthích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơthúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giátrị của một hành động nếu không liên hệ đến cái gì đang nằm đàng sau hành độngđó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính làý hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu củavô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà taluôn cố gắng tìm cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâmhồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Cócái rất hữu ích vì chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn tathư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinhthần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.

Tưtưởng và tình cảm vì thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trướctiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cực vàloại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sựbình an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởngnào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho mình bịvướng mắc bởi những tư tưởng, tình cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như mộtphần của tổng thể của ta và không có gì để phải bận tâm với chúng. Những khi màchúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, tình cảm giận dữ và hận thù cóvẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âmthầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố trithân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thươngtiếc. Trong số những loại tình cảm này, giận dữõ và sợ hãi chẳng hạn, sẽnhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, còn những tình cảm khác như chấptrước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi màchúng ta biết rõ được bản chất của các thái độ tiêu cực và nhận diện một cáchđúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.

Từđó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các tình cảm tốtđẹp -từ bi, hỷ xả và thiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡngnhững tình cảm tích cực và làm suy yếu dần những tình cảm tiêu cực. Ngay cả chodù chúng vẫn còn tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những tình cảm thoáng qua,không lưu lại một dấu ấn rõ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vàitrường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với nhữngviệc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổngquát, nên lưu ý rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các tình cảm tiêu cực khácbộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quen và lần hồi biến tathành một người nổi nóng khá thường xuyên. Ðó là lý do tại sao mà tôi cho rằngchúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn mình. Thứkỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bêntrong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhậnchúng một cách dễ dàng.

Ðểhuấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ðừng bao giờtrông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chímột vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộcó thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Ðó là một thái độ hoàntoàn không thực tế. Công việc tu tập đòi hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khinhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên trì, nắm vững mục tiêu và mọi phươngtiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theothời gian.

Làmthế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trườnghợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩy là lòng từ bi, giận dữ có thể là một khíacạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một tình cảm tiêu cực. Chúng taphải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại tình cảm khốnkhổ này như lòng thù hận chẳng hạn. Như tôi đã từng phát biểu trước đây, sự hậnthù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thốicả cuộc đời ta. Những tình cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khácnhau: cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhânloại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻkhác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và lòng tham lam quá độ.Thái độ như thế đã được bắt nguồn từ vô minh. Ðiều này không có nghĩarằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những conngười. Tuy nhiên họ đã để cho tâm trí của mình bị chế ngự và hướng dẫn một cáchmù quáng bởi những tình cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.

Nhìnvào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thànhcông kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con người có lòng vị tha và tâm hồnbình ổn. Ða phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộcsống nội tâm an bình. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên mộtcách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sựtĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi lòng sâu kín của mình. Bằng cách đó,nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúc và mang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.

Chúngta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của MahatmaGandhi, một nhân vật kiệt xuất có ý thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sốngrất thỏa mãn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nềngiáo dục Tây phương và ý thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sốngtiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đã chọn lựasống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Ðộ, chẳng khác gì một kẻ ăn mày.Ðiều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quý. Tấtcả mọi khía cạnh tích cực mà con người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa củanhững tình cảm tích cực này của tâm hồn.

Kinhnghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mứcđộ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân mình vàcho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên cănbản đó mỗi cá nhân cần tự mình nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để pháttriển tâm hồn mình.

Conngười sinh sống trong một môi trường xã hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhậnrằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi ngườiđều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật rakhông hiện hữu y như thế. Tình thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiềuyếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúngta. Khi chúng ta mở rộng vòng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến tìnhthân hữu và thân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đã tạo dựng nên một bầukhí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căngthẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu tachỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đếnquyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩđến cá nhân mình và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mụctiêu cứu cánh của mình, tình huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cảnhững người thân cận nhất trong gia đình cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đãtrở nên rõ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độcủa chúng ta.

Mộtsố khác đã suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho tabạn bè. Không chắc như vậy -bởi vì nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hãydừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộngmở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đangcó? Không thể biết được. Bao lâu mà ta còn tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâmbanh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắtđầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ thì rấtkhó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiềnbạc và của cải vật chất dĩ nhiên là cần thiết nhưng chúng không phải là vậtthiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được tìm thấy bên trong của mỗi con người.

Từbi, hỷ xả, hy vọng và nhẫn nhục là những tình cảm tốt đẹp mà tất cả các tôngiáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người cótín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăngtiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn mình. Chúng ta nên nhớ rằng cáctôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyếnkhích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗitôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau.Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêu và từ bi sẽ đượctung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành trìnhtâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tươngkính.

Tuynhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ võ những phẩm chất tốt đẹp của conngười lại quay ra cải vã chỉ trích lẫn nhau thì làm sao họ lại có thể raotruyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ítmai mỉa: “Coi bọn họ kìa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họcòn chẳng chịu được nhau thì nói gì ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhânloại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến mình thành mộttấm gương tốt của lòng tương kính, sự hoà hợp và tinh thần hợp tác trước mắtnhìn của thế giới. Nhìn từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuynhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhân và chia xẻ những kinh nghiệm củahọ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để hòa điệu với kẻ khác cho dù có nhữngkhác biệt về đức tin, giáo lý; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khíacạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duytrì mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nênchia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bấtđồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bướckhích lệ hướng về việc hòa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên trì tronghướng đó!

ThưaNgài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗithống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn bamươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong cáctrại lao động khổ sai. Ông ta đã trải qua những đau đớn bởi những nhục hình tratấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằngcách nào chúng ta có thể đạt được sự bình an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thản vàđức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗigiận dữ và làm một cái gì đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứngnhất?

Ðiềuquan trọng nhất là ta không thờ ơ lãnh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảmnhận sâu xa tình huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biếtqúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho mình bị trànngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rõ câuhỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy trìõ sự an bìnhnội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những tình huống như qúy vịvừa trình bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thầncủa mỗi cá nhân.

Vớinhững thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải qua và tiếp tụcchịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rõ nét của nền văn minh? Theo ýkiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên,cảnh trí có thể giúp ta tìm ra được sự bình an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưata đến con đường minh triết?

Tôitin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra rabên ngoài ngắm nhìn phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghechim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dùvới tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên,là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đãsống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn còn lưu lại nhữngdấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng tavẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đónhư đã ở trong máu huyết của chúng ta.

Trongquá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vậtđiểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn.Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề phòng thú dữ. Chúng ta dùngcủi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặngcủa thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ mình. Chúng ta đã gắn bó vớicây cối như thế. Bây giờ, trong các văn phòng cực kỳ hiện đại, chung quanh talà những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quênđi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất bình thườngkhi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ củakhoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu tabiết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho mình tỉnh táo để thấy mộtsự thực là ta vẫn còn nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúngta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không còn cách gì để tự bảo vệ chínhmình. Ðó là lý do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theocon đường Trung Ðạo.

Trongtrí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế tình cảm vàsự tìm kiếm an bình nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái gì đó, chúng ta thườngmang những gì được coi là vấn nạn trong đời sống của mình đem đi dấu biệt vàomột xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sốngmà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ gì về nghệthuật ức chế này?

Tôinghĩ là tôi đã từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một sốtrường hợp, cụ thể là sự sợ hãi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khibạn cứ cho những tình cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điềunày không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ý thứckỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại tình cảm xâm nhập tâm trí tatuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ điđến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên bình diệnxã hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duycủa ta theo một chiều hướng xây dựng. Những tình cảm của con người thường khôngcó giới hạn, và sức mạnh của những tình cảm tiêu cực là vô tận.

Tuynhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ứcchế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hành và tu tậpvới mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải làchuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không còn thể nào tiếp tục đượcnữa. Thế nhưng khi bắt đầu ý thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽtự thiết định cho mình một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúngta mở rộng tầm kiến thức của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chếđược vô minh!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567