Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thứ 6

21/05/201317:37(Xem: 9734)
Quyển thứ 6

Kinh Vị Tằng Hữu Chánh Pháp

Quyển thứ 6

Thích Nữ Tịnh Nguyên

Nguồn: Thích Nữ Tịnh Nguyên dịch, Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh, Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh

Sau khi thấy người tạo nghiệp sát kia theo Phật xuất gia, được chứng quả thánh với việc hư hữu như vậy, tôn giả Xá Lợi Phất thưa trước Phật :

- Thật hy hữu thay bạch Thế Tôn ! Như Lai có lòng đại bi dùng phương tiện xảo giảng nói chánh pháp. Người đã tạo nghiệp sát kia gốc tội rất nặng mà chỉ trong chốc lát Như Lai đã cứu độ khiến cho người ấy được giải thoát. Đây chính là do sức phương tiện của chư Phật Như Lai. Pháp mà Ngài đã nói đều là cảnh giới của chư Phật. Chỉ có Đại Sĩ Diệu Cát Tường và các Bồ tát mặc giáp tinh tấn mới hiểu rõ thông suốt. Đó chẳng phải là cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác chúng con. Vì sao ? Vì các hàng Thanh văn trí huệ cạn hẹp căn cơ của chúng sanh còn không thể phân biệt được thì sao hiểu rõ pháp phương tiện.

Phật dạy :

- Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này Xá Lợi Phất ! Cảnh giới của chư Phật chỉ có các Bồ tát đắc đầy đủ pháp nhẫn mới có thể hội nhập được. Hàng Thanh văn các ông mặc dầu lìa kiến chấp về Bổ đặc già la nhưng chỉ cầu Niết bàn tự lợi. Mặc dầu tu tập công đức hạnh đầu đà nhưng cũng chỉ thích cầu đầy đủ giới định huệ, không thích tu học pháp của chư Phật, làm việc gì cũng có tướng có ngại. Cho nên đối với cảnh giới của Phật đều có thể nghĩ bàn.

Này Xá Lợi Tử ! Ông nên biết : Người tạo nghiệp sát được hóa độ vừa rồi đã từng cung kính cúng dường trồng căn lành với 500 đức Phật và cũng từng được nghe pháp như vậy. Cho nên người này nay ở trước ta được nghe giảng chánh pháp, nhờ sức căn lành xưa kia mà được thấy lý chơn thật của các pháp, như pháp mà giải thoát.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử ! Nếu người nào được nghe chánh pháp này dù chỉ nghe một bài kệ bốn câu thì người ấy không đọa vào các cõi ác, dứt khổ não được giải thoát và nhất định thành Nhất thiết trí của Phật, huống gì thọ trì đọc tụng như pháp mà tu hành. Công đức người ấy đạt được vô lượng vô biên.

Bấy giờ Bồ tát Diệu Cát Tường cùng chúng đại Bồ tát, các đại Thanh văn Ca Diếp.v.v.. và vua nước Ma Già Đà với quyến thuộc đồng thời đi trở về hội Phật Thích Ca Mâu Ni trong núi Thứu Phong. Sau khi đến chỗ Phật, tất cả đều lễ lạy sát chân Phật và lui đứng qua một bên.

Bấy giờ, tôn giả Xá Lợi Tử nói với vua Ma Già Đà :

- Pháp hy hữu đại thừa mà vua ưa thích, Bồ tát Diệu Cát Tường đã khai thị giảng nói. Như vậy với pháp ấy vua có thật đã hiểu rõ rồi không ?

Vua trả lời :

- Thưa tôn giả ! Tôi đã hiểu rõ về pháp hy hữu.

Xá Lợi Tử hỏi :

- Vua hiểu rõ như thế nào ?

Vua trả lời :

- Theo ý của tôi thì đối với tất cả pháp lìa các nhiễm chấp, không được không mất, chẳng nắm bắt chẳng xả bỏ, chẳng phải cảnh giới của tâm, tướng không thể đắc tức là pháp chân thật, hiểu rõ như vậy dứt hẳn các nghi ngờ, tất cả các chướng lụy không do đâu mà sanh nữa.

Xá Lợi Phất bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Căn lành của vua Ma Già Đà đã thành thục, ưa thích mùi hương pháp thâm sâu của đại thừa, thấy được pháp vô sanh, tận trừ các nghiệp chướng. Như vậy là thật sự đã diệt tận hay là còn ? Việc này như thế nào cúi xin Phật hãy nói cho con !

Phật dạy :

- Này Xá Lợi Tử ! Ví như hạt cải lượng của nó rất nhỏ, núi chúa Tu Di có thể nghiền nát nó được không ? Ông nên biết ! Nghiệp chướng của vua giống như hạt cải, còn pháp thâm sâu mà ta đã nói giống như núi chúa kia. Cho nên vua ấy nghe pháp thâm sâu đâu còn chướng lụy nào mà không diệt tận.

Xá Lợi Tử thưa :

- Thật hy hữu thay bạch Thế Tôn ! Vua này thật là lợi căn sáng suốt có thể nghe pháp hiểu rõ và diệt sạch các chướng. Như những gì Phật nói là chân thật không hư dối.

Phật nói :

- Này Xá Lợi Tử ! Vua này đã từng cung kính cúng dường, trồng các căn lành với 72 câu chi đức Phật ở quá khứ. Sau khi nghe chánh pháp từ nơi chư Phật ấy, nhờ căn lành đó nên đương lai vua nhất định đắc Vô thượng Bồ đề.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử ! Ông có thấy Bồ tát Diệu Cát Tường này không ?

Xá Lợi Tử trả lời :

- Thưa đã thấy.

Phật nói :

- Nay vua nước Ma Già Đà này có nhơn duyên lớn với Bồ tát Diệu Cát Tường. Này Xá Lợi Tử ! Về quá khứ có kiếp tên Vô Cấu, có Phật ra đời hiệu là Diệu Tý. Trong kiếp đó lại có ba câu chi đức Phật hiện ra đời. Chư Phật ấy đều do Bồ tát Diệu Cát Tường khai mở tâm đạo. Chư Phật Như Lai ấy sống rất lâu, chuyển đại pháp luân làm lợi ích cho chúng sanh. Trong kiếp đó, vua nước Ma Già Đà đã được gặp Bồ tát Diệu Cát Tường giáo hóa mà phát tâm Vô thượng Bồ đề. Sau khi phát tâm vua đã trồng các căn lành nơi chư Phật Thế Tôn ấy mà nghe thọ pháp hy hữu đại thừa.

Này Xá Lợi Tử ! Ông nên biết rằng, nhờ nhơn duyên căn lành sâu dày đó mà sau khi vua Ma Già Đà qua đời, qua 400 cõi Phật ở phương trên có cõi Phật tên Trang Nghiêm. Đức Phật đó hiệu là Bảo Tụ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác và vua sanh vào cõi Phật này cũng gặp Bồ tát Diệu Cát Tường, nghe thọ pháp thâm sâu. Nghe rồi vua hiểu rõ ràng và chứng Vô sanh pháp nhẫn. Cho đến đời đương lai, Bồ tát Từ Thị ở cõi Ta Bà này sau khi thành chánh giác, thì vua Ma Già Đà này từ cõi Phật Trang Nghiêm mà đến và ở trong pháp của Từ Thị Như Lai, được làm Bồ tát tên Vô Động, lúc ấy vua cũng gặp Bồ tát Diệu Cát Tường. Sau khi giảng nói lại pháp cho Bồ tát Vô Động đã được nghe thuở quá khứ, Từ Thị Như Lai nói với đại chúng :

- Các ông có thấy Bồ tát Vô Động kia không ? Bồ tát này đâu phải người nào lạ chính là vua nước Ma Già Đà trong pháp hội của Phật Thích Ca Mâu Ni ở quá khứ. Vị này được nghe thọ chánh pháp nơi Bồ tát Diệu Cát Tường và được đắc Vô Sanh pháp nhẫn.

Phật dạy :

- Này Xá Lợi Tử ! Từ Thị Như Lai khi giảng nói pháp vi diệu cho Bồ tát Vô Động, thì trong hội có tám ngàn Bồ tát đắc Vô Sanh pháp nhẫn, hai vạn bốn ngàn các tiểu Bồ tát tiến lên Sơ địa.

Này Xá Lợi Tử ! Từ đó về sau Bồ tát Vô Động ấy tu hành trong tám trăm atăngkì kiếp, làm thanh tịnh cõi Phật giáo hóa chúng sanh hướng vào địa Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát, và làm cho các chúng sanh diệt trừ tất cả nghiệp chướng, hiểu rõ chánh pháp dứt hết nghi ngờ. Sau khi trải qua tám trăm kỳ kiếp, Bồ tát Vô Động ở thế giới Vô Nhiễm mà chứng Vô thượng Bồ đề, hiệu là Thanh Tịnh Cảnh Giới Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu. Đức Phật ấy sống bốn trung kiếp, chánh pháp trụ ở đời một câu chi năm, có 70 vạn chúng Thanh văn đều đầy đủ ba minh lục thông, đắc tám giải thoát. Có 12 câu chi chúng đại Bồ tát, tất cả đều đầy đủ phương tiện trí huệ. Tất cả chúng sanh cõi đó đều ưa thích pháp thâm sâu. Đức Phật Như Lai ấy giảng nói rộng rãi khắp nơi, chúng sanh nghe pháp đều giác ngộ, lìa các phiền não, thân tâm thanh tịnh và không còn tưởng về tướng Ngã.

Bấy giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói việc vua Ma Già Đà sẽ thành Phật cho Xá Lợi Tử nghe, trong hội có ba vạn hai ngàn thiên tử phát tâm Vô thượng Bồ đề, họ phát nguyện rằng :

- Con nguyện sẽ được sanh vào thế giới Vô Nhiễm để thấy đức Thanh Tịnh Cảnh Giới Như Lai thành đạo Chánh Giác.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni liền thọ ký cho họ :

- Các ngươi sẽ được sanh vào thế giới đó để thấy Như Lai ấy thành đạo Chánh Giác.

Thuở ấy vua Ma Già Đà có một thái tử tên Nguyệt Cát Tường vừa mới tám tuổi, trước đây có theo phụ vương đến hội của Phật. Sau khi nghe Phật, thái tử tự cỡi các trân châu anh lạc đeo nơi cổ dâng cúng dường đức Phật và nguyện như vầy :

- Nay con xin dâng cúng Phật để được căn lành mà hồi hướng lên Vô thượng Bồ đề. Con nguyện vào đời sau được sanh trong cõi đức Thanh Tịnh Cảnh Giới Như Lai làm Kim Luân Vương trọn đời, con đem tứ sự cúng dường đức Phật ấy và chúng Bí sô. Sau khi Phật ấy diệt độ, con sẽ thâu lấy xá lợi của Ngài mà cung kính cúng dường. Con nguyện tiếp tục ở cõi Phật đó chứng đắc Vô thượng Bồ đề.

Sau khi thái tử Nguyệt Cát Tường nguyện xong, nhờ sức oai thần của Phật nên anh lạc đã cúng dường trụ trong hư không phía trên đức Phật biến thành lầu bảy báu, bên trong có tòa bảy báu. Trên tòa có Phật ngồi kiết già trang nghiêm đầy đủ tướng tốt.

Bấy giờ từ giữa chặn mày đức Thế Tôn phóng sáng nhiều màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, xanh lục. Những ánh sáng ấy chiếu khắp vô biên thế giới, lên đến Phạm Thế mà ánh sáng vẫn rực rỡ che lấp ánh sáng mặt trời mặt trăng. Ánh sáng ấy trở lại bao quanh Phật ba vòng rồi vào đỉnh đầu Thế Tôn.

Tôn giả A Nan đứng dậy, trịch bày vai phải gối phải sát đất chắp tay thưa trước Phật nói kệ :

Đại Mâu Ni đã đến bờ kia
Đầy đủ các công đức thù thắng
Được trời người thế gian tôn quí
Bậc Nhất thiết trí lìa các chấp
Căn tánh, tâm hành của chúng sanh
Như Lai đều biết rõ tận tường
Giảng diệu pháp làm lợi quần sanh
Bậc tối thắng hơn cả thế gian
Ánh sáng lớn hy hữu phóng ra
Chiếu khắp tất cả cõi mười phương
Câu chi na do tha chúng sanh
Nhờ ánh sáng chiếu được an ổn
Bậc Thiện Thệ đã đủ mười lực
Niệm huệ viên mãn xuất thế gian
Biết rõ tâm, việc làm chúng sanh
Giảng pháp đoạn nghi không ai bằng
Tất cả Phạm vương và Đế thích
Mặt trời, trăng, sao và các trời
Nghe Phật giảng nói môn diệu pháp
Xa lìa phiền não được an ổn
Như Lai tối thắng trong tất cả
Chúng sanh nào nghi được giải bày
Duyên gì nay phóng ánh sáng ấy
Xin Phật từ bi nói cho con.

Thế Tôn dạy A Nan :

- Ông có thấy thái tử Nguyệt Diệu Cát Tường không ?

A Nan thưa :

- Dạ thưa con đã thấy.

Phật dạy :

- Trong quá khứ, thái tử này đã tu hạnh Bồ tát , cúng dường ta để trồng sâu căn lành. Do cơ duyên ấy đã thành thục, nay ở trước ta phát tâm Vô thượng Bồ đề, phát đại thệ nguyện. Do đó mà phóng ánh sáng này.

Này A Nan ! Vào đời đương lai trong pháp của đức Thanh Tịnh Cảnh Giới Như Lai ở cõi Vô Nhiễm, thái tử này làm Kim Luân Vương cúng dường đức Phật ấy và chúng Bí sô. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, vương lại thâu lấy xá lợi mà cung kính cúng dường. Sau khi vị vương ấy qua đời sanh vào cõi trời Đâu suất. Sống trong thế giới Vô Nhiễm mãn một kiếp, Kim Luân Vương chứng Vô thượng Bồ đề tên là Nhật Tràng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu. Đức Phật Thế Tôn ấy và tất cả chúng Bồ tát Thanh văn tuổi thọ như nhau.

Sau khi nghe đức Phật thọ ký thái tử Nguyệt Cát Tường, các chúng Bồ tát từ phương khác đến đại hội đều bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ tát Diệu Cát Tường ở nơi nào cũng làm đại Phật sự làm lợi ích chúng sanh không uổng phí. Vì sao ? Vì đức Phật và Bồ tát với tâm đại bi làm các phương tiện, ở nơi thành ấp quốc thành cho đến khắp cả xóm làng đều vì các chúng sanh mà giảng pháp giáo hóa, để các chúng sanh nghe pháp được giải thoát, lìa các sợ hãi, đoạn trừ tất cả phiền não chướng nặng. Hôm nay chúng con được ở đây nghe đức Phật và Bồ tát Diệu Cát Tường giảng nói Diệu pháp và thấy việc hy hữu phóng ánh sáng, làm lợi ích chúng sanh thật không uổng phí.

Lúc ấy đức Thế Tôn dạy các Bồ tát :

- Này các thiện nam tử ! Đúng vậy ! Đúng vậy ! Phật và Bồ tát ở nơi nào cũng vì các chúng sanh mà giảng nói chánh pháp thi hành Phật sự, nên quán nơi ấy như tháp của Phật. Vì sao ? Vì trong đời quá khứ ta gặp đức Nhiên Đăng Như Lai. Vì ta có lòng tin sâu sắc đã trải tóc trên đất nâng chân Ngài. Taliền đắc Vô sanh pháp nhẫn. Biết ta đã đắc Vô sanh pháp nhẫn, đức Nhiên Đăng Như Lai liền thọ ký Vô thượng Bồ đề cho ta và nói rằng :

- Qua atăngkì kiếp đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười hiệu.

Sau khi thọ ký cho ta đức Phật Nhiên Đăng nói với chúng Bí sô :

- Ở đất này các ông nên có ý tưởng tôn trọng đừng khinh khi. Vì sao ? Vì ở đất này có thiện nam tử trải tóc trên đất nâng chân Thế Tôn. Do sức thù thắng ấy mà được đầy đủ pháp nhẫn làm cho tất cả trời người ở đất này chiêm ngưỡng cung kính giống như Tháp của Phật không khác.

Khi đức Phật Nhiên Đăng nói như vậy, có 80 câu chi trời người đồng thanh thưa Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Chúng con ở đất này có lòng tôn trọng cung kính như Tháp của Phật.

Khi ấy trong hội có một trưởng giả tên Hiền Thiên bạch Phật Nhiên Đăng :

- Nay con xây tháp bảy báu ở đây để các chúng sanh chiêm ngưỡng lễ lạy được phước.

Theo lời nói, trưởng giả sanh tâm hy hữu tập trung tất cả trân báu xây một ngọn tháp cao rộng đẹp đẽ, trang hoàng đủ loại. Công trình ấy rất nguy nga chẳng phải làm một ngày mà hoàn thành. Sau khi xây tháp xong, trưởng giả liền đến thưa Phật Nhiên Đăng :

- Bạch Thế Tôn ! Con đã xây xong ngọn tháp bảy báu rất đẹp, vậy đời sau con được bao nhiêu phước ?

Phật dạy :

- Này trưởng giả ! Nếu có thiện nam tử nào chứng địa Vô sanh pháp nhẫn đào lấy đất ấy xuống tới đụng nước rồi lấy đất này cung kính cúng dường thì phước đạt được còn như cúng dường tháp của Phật, huống chi nay ông với lòng tin thanh tịnh xây tháp bảy báu, phước ông đạt được nhiều hơn gấp bội người kia, vô lượng vô biên không thể tính lường.

Khi ấy Phật Nhiên Đăng lại nói với trưởng giả Hiền Thiên :

- Hôm nay ở đây, ông trồng sâu căn lành thì trong đời vị lai được Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký Vô thượng Chánh Giác.

Vì các Bồ tát từ phương khác đến đại hội, đức Phật Thích Ca đã nói nhơn duyên thọ ký thuở xưa và Ngài dạy các Bồ tát :

- Các ông nên biết ! Khi xưa ta đã trồng căn lành nơi Phật Nhiên Đăng nên nay ta được thành Phật. Lúc ấy ta đắc địa pháp nhẫn, được trời người ở đó cung kính như tháp Phật. Hôm nay các ông trong đất này cũng nên có lòng tôn kính.

Lại nữa, này các Bồ tát ! Các ông nên biết ! Trưởng giả Hiền Thiên thuở đó không phải người nào lạ chính là trưởng giả Hiền Thiên này đây vậy, bởi vì trong pháp thuở ấy cũng tên là Hiền Thiên. Đời sau, vị này sẽ được thành Phật, hiệu là Thiện Kiến Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười hiệu.

Lại nữa, này các Bồ tát ! Pháp thâm sâu ta đã nói, nếu có Bí sô, Bí sô ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào thọ trì tụng đọc, giảng nói cho người khác, thì nơi vị ấy ở được trời người cung kính tôn trọng như tháp Phật không khác.

Lại nữa, này các Bồ tát ! Nếu có thiện nam thiện nữ nào tu hạnh Bố thí, tập trung bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ngày đêm sáu thời cúng dường chư Phật và chúng Bí sô, như vậy cho đến kiếp tận cũng không bằng đối với chánh pháp vị tằng hữu này mà nghe thọ trì đọc tụng một bài kệ bốn câu. Công đức của vị này nhiều hơn gấp bội ở trước.

Lại nữa, nếu người nào tu hạnh trì giới, trong một kiếp giữ giới pháp của Phật không hủy phạm, viên mãn tất cả công đức tịnh giới, cũng không bằng đọc tụng thọ trì chánh pháp này. Công đức này nhiều hơn trước cả ngàn phần.

Lại nữa, nếu người nào tu hạnh nhẫn nhục, trong một kiếp luôn tu nhẫn nhục đối với tất cả chúng sanh không sân giận làm hại, đạt được hạnh nhẫn viên mãn như vậy, nhưng cũng không bằng đọc tụng thọ trì chánh pháp này rồi như pháp mà tu hành, đạt được pháp nhẫn đầy đủ công đức, như vậy là tối thượng.

Lại nữa, nếu có người nào tu tinh tấn, trong một kiếp siêng năng giáo hóa tất cả chúng sanh, tâm không chút giải đãi, đạt đươc tinh tấn viên mãn nhưng không bằng thọ trì đọc tụng chánh pháp này, công đức đạt được nhiều gấp bội ở trước.

Lại nữa, nếu có người nào tu thiền định, trong một kiếp trụ trong định nhất tâm chuyên chú, xa lìa các tán loạn, đạt được hạnh định viên mãn như vậy cũng không bằng thọ trì đọc tụng chánh pháp này, công đức đạt được nhiều gấp bội ở trước.

Lại nữa, nếu người nào tu trí huệ, trong một kiếp tu các phương tiện trí huệ, đạt được trí huệ viên mãn như vậy, nhưng không bằng nghe thọ trì đọc tụng chánh pháp này, công đức đạt được to lớn vô lượng sớm viên mãn quả Nhất Thiết Trí.

Nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng nói về công đức thâm sâu của pháp này, các Bồ tát từ phương khác đến đại hội, đều thưa Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Chúng con nghe thọ pháp này, khi trở về trú xứ sẽ giảng nói lưu bố cho mọi người để các chúng sanh được lợi ích.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói :

- Lành thay ! Lành thay ! Này các thiện nam tử, các ông nên lưu bố pháp này, hãy vì các chúng sanh mà thi hành Phật sự.

Khi ấy các Bồ tát ấy rải hoa đẹp khắp ba ngàn đại thiên thế giới cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ tát Diệu Cát Tường rồi nói như vầy :

- Nguyện cho chánh pháp này tồn tại lâu dài trong Diêm Phù Đề để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nguyện đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ tát Diệu Cát Tường sống lâu dài trên thế gian phóng ánh sáng pháp để chiếu khắp chúng sanh. Hôm nay chúng con được dự vào hội này được thấy Phật Thế Tôn, được nghe nói diệu pháp là đều nhờ Bồ tát Diệu Cát Tường khuyên dạy. Giả sử chúng con xả bỏ đầu mắt tay chân của mình để cúng dường cũng còn không thể báo ân Bồ tát. Nay rãi hoa này chưa gọi là báo ân cúng dường. Cho nên nếu có thiện nam thiện nữ nào được thấy chư Phật, được nghe chánh pháp, giả sử xả bỏ đầu mắt tay chân của mình cũng không bao giờ báo ân hết cho chư Phật. Cho nên cần phải đối với Phật, Bồ tát và các kinh pháp nên có lòng tin thanh tịnh, tôn kính cúng dường, đừng xem thường và có ý tưởng nghi ngờ. Ai có ý tưởng như vậy sẽ mắc đại trọng tội.

Nghe nói vậy, các đại Bồ tát từ phương khác đến đại hội đều lạy sát chân Thế Tôn và đi nhiễu ba vòng rồi biến mất khỏi đại hội mà trở về tại cõi Phật của mình. Mỗi vị ở trước mỗi đức Phật thưa :

- Ở cõi Ta Bà, con được nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ tát Đại Cát Tường giảng nói chánh pháp. Sau khi thọ trì, con sẽ giảng nói rộng rãi cho chúng sanh ở đây để tất cả chúng sanh nhất định chứng Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ tôn giả Đại Ca Diếp thưa Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Chánh pháp này rất là hy hữu, con đã thấy Bồ tát Diệu Cát Tường thọ nhận thức ăn cúng dường trong cung của vua nước Ma Già Đà, Bồ tát giảng nói pháp này cho vua. Khi ấy vua chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, con cũng tùy hỷ nghe thọ pháp ấy, tự thầm trách mình nên rất vui mừng.

Bạch Thế Tôn ! Về đời sau cùng nếu có chúng sanh nào nghe chánh pháp này hiểu một cách đúng đắn thì người ấy mới có thể biết được tự tánh của pháp đoạn trừ các nghi ngờ, tương lai nhất định thành Đẳng Chánh Giác.

Phật dạy :

- Này Ca Diếp ! Lành thay ! Lành thay ! Ông nói lời này rất hoàn hảo. Nếu các chúng sanh nào sau khi nghe pháp này vào tương lai chắc chắn sẽ chứng quả Bồ đề của Phật.

Đức Phật dạy Bồ tát Từ Thị :

- Ông nay thọ trì pháp này, vào đời rốt sau hãy giảng nói lưu bố để cho các chúng sanh được lợi ích, được khoái lạc lớn.

Bồ tát Từ Thị thưa :

- Theo lời Thế Tôn chỉ dạy, con sẽ thọ trì. Bạch Thế Tôn ! Ở nơi Phật quá khứ con cũng đã từng nghe thọ pháp này. Nay ở trước Phật con lại được nghe thật là hân hạnh sung sướng. Vào đời sau con sẽ hộ trì lưu bố để pháp này tồn tại lâu dài, đến khi qua đời con sanh lên cõi trời Đâu suất. Trong cõi trời này, nếu có người nào căn tánh thành thục ưa thích đại thừa thì con cũng khai thị giảng nói để người ấy phát tâm đạo, còn ở Diêm phù đề thì không cho đứt đoạn. Lại trong đời mạt pháp có thiện nam thiện nữ nào thọ trì đọc tụng chánh pháp này, nếu bị các ma làm nhiễu loạn thì khi đó con bí mật đến đó mà bảo vệ, không để các ma làm hại.

Bạch Thế Tôn ! Trong đời mạt pháp, nếu ai được nghe pháp này rồi đọc tụng y như pháp mà tu hành, thì nên biết đó là do oai thần của Phật kiến lập.

Bấy giờ đức Phật dạy chủ trời Đế Thích :

- Này Kiều Thi Ca ! Ông hãy thọ trì ghi nhớ chánh pháp này để ủng hộ đời sau cùng. Vì sao ? Vì pháp này có thể đoạn trừ các nghi ngờ, có thể làm sạch các nghiệp chướng, bình đẳng với các pháp, lại có oai lực lớn.

Đế Thích nên biết ! Nếu gặp lúc chiến đấu với A tu la thì ông nên ghi nhớ pháp này sẽ được chiến thắng còn A tu la sẽ rút lui.

Lại nữa, nếu ai ở trong các nạn như nạn vua, nạn giặc cướp, nạn hổ lang, trùng, thú, kẻ ác mà tư duy ghi nhớ pháp này thì người ấy được tránh xa các nạn.

Thiên chủ Đế Thích thưa :

- Theo Thế Tôn chỉ dạy con sẽ hộ trì đời sau cùng. Nếu thành ấp quốc thành xóm làng chỗ nào có pháp ấy con sẽ đến đó cung kính cúng dường. Có ai trì giữ pháp này thì đến bảo vệ giúp đỡ.

Bấy giờ Phật dạy tôn giả A Nan :

- Ông hãy thọ trì chánh pháp này của ta, vào đời sau cùng giảng nói lưu bố cho các chúng sanh. Vì sao ? Vì pháp này thâm sâu xưa chưa từng có. Nếu người nam người nữ nào thọ trì pháp này thì được chấm dứt các nghi ngờ, diệt trừ tất cả cấu phiền não, cho nên ông phải ghi nhớ thọ trì.

A Nan thưa :

- Bạch Thế Tôn ! Con nhờ oai thần của Phật gia hộ, vào đời sau cùng con sẽ giảng nói pháp này, để các chúng sanh đều được lợi ích.

Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên là gì ? Chúng con phụng hành như thế nào ?

Phật dạy :

- Này A Nan ! Kinh này tên là Vị Tằng Hữu Chánh Pháp, nên thọ trì như vậy.

Sau Thế Tôn phó chúc lại cho Bồ tát, Thanh văn và Đế Thích, Thế Tôn ngay trong hội hai bên thân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả thế giới trong mười phương. Trong ánh sáng phát ra tiếng vi diệu bảo đại chúng :

- Chánh pháp mà Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng chánh Giác đã nói dù cho kiếp hoại, biển lớn có khô cạn đi nữa nhưng chánh pháp này không bị hoại, có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh.

Sau khi trong ánh sáng phát ra tiếng như vậy thì ánh sáng ấy quay tròn lại thân Phật.

Thế Tôn dạy A Nan :

- Ông hãy giữ gìn lời nói của ta đừng quên mất, vào đời sau giảng rõ pháp này làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Vị Tằng Hữu Chánh Pháp ấy, có chín vạn sáu ngàn trời người xa lìa trần cấu đắc pháp Nhãn tịnh, có 780 vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề, ba vạn hai ngàn Bồ tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, 80 vạn Bí sô không chấp thủ các pháp, được lậu tận ý giải. Khi ấy ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, trời Dục Sắc giới ở trong hư không trỗi lên trăm ngàn âm nhạc để cúng dường Thế Tôn và pháp đã nói. Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói chánh pháp này, tất cả trời, ma, ngoại đạo nghe được đều kinh hãi mà qui y đức Phật giống như Phật ban đầu chuyển pháp luân chiến thắng Thiên ma. Pháp này là dấu ấn của chư Phật, là dấu ấn của đại pháp, là dấu ấn của giải thoát. Người nào có trí nên học như vậy, tu hành như vậy.

Sau khi Phật nói kinh này xong, vua nước Ma Già Đà cùng quyến thuộc, các đại Bồ tát : Diệu Cát Tường .v.v... các Đại Thanh văn Đại Ca Diếp, A Nan, Xá Lợi Tử, Mục Kiền Liên.v.v... cho đến trời người thế gian, A tu la, Càn thát bà... Nghe Phật nói tất cả đại chúng đều rất hoan hỷ tin thọ phụng hành.

- Hết quyển thứ sáu -

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567