Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

XI - Phẩm Bồ tát hạnh

09/05/201314:01(Xem: 10283)
XI - Phẩm Bồ tát hạnh

Kinh Thuyết Vô Cấu Xứng (Quyển 4-6)

XI - Phẩm Bồ tát hạnh

Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên

Nguồn: Hán dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh, Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh.

Bấy giờ, đức Phật vẫn còn đang giảng pháp cho đại chúng ở rừng Yêm La Vệ, ngay chỗ chúng hội bỗng nhiên rực rỡ rộng lớn sạch đẹp. Tất cả đại chúng đều hiện màu vàng rực:

A Nan Đà liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đây là tướng báo trước điều gì mà làm cho trong chỗ chúng hội bỗng nhiên rực rỡ rộng lớn sạch đẹp như vậy và đại chúng đều hiện màu vàng rực.

Đức Phật dạy Cụ thọ A Nan Đà:

- Đó là Diệu Cát Tường và Vô Cấu Xứng cùng đại chúng cung kính vây quanh muốn đến chúng hội này nên hiện tướng trước như thế.

Khi ấy, Vô Cấu Xứng nói với Diệu Cát Tường:

- Chúng ta nên cùng các đại sĩ đến đảnh lễ cúng dường chiêm ngưỡng đức Thế Tôn và nghe diệu pháp.

Diệu Cát Tường nói:

- Đã đến lúc chúng ta cùng đi thôi.

Thế thì Vô Cấu Xứng hiện sức thần thông khiến các đại chúng vẫn ngồi trên tòa Sư tử rồi đặt trong lòng bàn tay phải của mình để đi đến chỗ Phật. Sau khi đặt xuống đất rồi, tất cả cung kính đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, đi nhiễu bên phải bảy vòng rồi lui đứng một bên, chắp tay hướng về Phật.

Các Đại Bồ tát rời khỏi tòa Sư tử cung kính đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, đi nhiễu bên phải ba vòng rồi đứng lui qua một bên chắp tay cung kính hướng về Phật.

Các đại Thanh văn, Thích, Phạm, Tứ Thiên vương hộ đời... cũng rời khỏi tòa cung kính đảnh lễ dưới chân Thế Tôn rồi lùi qua một bên dứng chắp tay cung kính hướng về Phật.

Bấy giờ, đức Thế Tôn như pháp ân cần hỏi thăm các đại Bồ tát cùng tất cả đại chúng:

- Các đại sĩ! Các ông hãy về lại tòa của mình.

Nhờ sắc lệnh của đức Phật, các Bồ tát đều trở về chỗ của mình và ngồi rất cung kính.

Đức Thế Tôn dạy Xá Lợi Phất:

- Ông có thấy việc làm thần lực tự tại của Bồ tát đại sĩ tối thắng ấy không?

Xá Lợi Phất thưa:

- Thưa vâng, con đã thấy.

Thế Tôn lại hỏi:

- Ông có ý tưởng gì?

Xá Lợi Phất thưa:

- Có ý tưởng khó nghĩ. Con thấy đại sĩ bất khả tư nghì tác dụng công đức thần lực của vị ấy thì con không thể tính lường, không thể suy nghĩ, không thể đo lường, không thể ngợi khen hết được.

Lúc ấy, A Nan Đà thưa:

- Bạch Thế Tôn! Mùi hương thơm con ngửi được từ xưa đến nay chưa từng có. Như mùi hương thơm ấy là mùi thơm gì vậy?

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Phất! Mùi thơm đó từ lỗ chân lông của các Bồ tát tỏa ra.

Xá Lợi Tử nói với A Nan Đà:

- Lỗ chân lông của chúng tôi cũng tỏa ra mùi thơm ấy.

A Nan Đà hỏi:

- Vì sao thân của quí thầy có mùi thơm?

Xá Lợi Tử nói:

- Đó là Vô Cấu Xứng dùng thần lực tự tại sai hóa Bồ tát đến cõi Phật Tối Thượng Hương Đài Như Lai ở phương trên xin thức ăn dư thừa của Phật ấy, về cúng dường đại chúng trong nhà này. Trong đó, ai được ăn thức ăn ấy thì tất cả lỗ chân lông đều tỏa ra mùi thơm.

A Nan Đà hỏi Vô Cấu Xứng:

- Hương thơm ấy tồn tại bao lâu?

Vô Cấu Xứng nói:

- Thức ăn chưa tiêu hết thì hương thơm ấy vẫn còn.

A Nan Đà hỏi:

- Như vậy thức ăn ấy bao lâu mới tiêu?

Vô Cấu Xứng nói:

- Thức ăn này phân tán trong thân bảy ngày bảy đêm sau đó mới tiêu dần dần. Mặc dầu nó tiêu lâu nhưng không bị bệnh hoạn.

Cụ Thọ nên biết! Hàng Thanh văn thừa chưa nhập vị Chánh tánh ly sanh, nếu ăn thức ăn này thì đến khi nhập vị Chánh tánh ly sanh rồi, sau mới tiêu. Nếu người chưa ly dục mà ăn thức ăn này khi đắc ly dục, sau đó mới tiêu. Người chưa giải thoát, nếu ăn thức ăn này, tâm giải thoát rồi sau đó mới tiêu. Những vị có chủng tánh Đại thừa Bồ tát chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề, nếu ăn thức ăn này thì sau khi phát tâm Vô thượng Bồ đề sau đó mới tiêu. Ai đã phát tâm Bồ đề, nếu ăn thức ăn này được chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, sau đó mới tiêu. Ai đã chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn rồi, nếu ăn thức ăn này mà an trụ địa vị Bất thối chuyển, sau đó mới tiêu. Ai đã an trụ vào địa vị Bất thối chuyển rồi, nếu ăn thức ăn này mà an trụ địa vị Nhất sanh hệ (còn một đời nữa) thì sau đó mới tiêu.

Cụ Thọ nên biết! Ví như ở thế gian có thuốc Dược Vương tên là Tối thượng vị, nếu chúng sanh bị độc toàn thân thì lấy cho họ uống thậm chí các chất độc ấy chưa tiêu hết thì đại dược vương đó chưa tiêu, khi nào chất độc hết hẳn thì sau đó thuốc mới tiêu. Ai ăn thức ăn này cũng vậy, nếu tất cả chất độc phiền não chưa diệt trừ thì thức ăn vẫn không tiêu. Sau khi diệt trừ phiền não rồi, sau đó mới tiêu.

A Nan Đà nói:

- Đại sĩ được thức ăn thơm bất khả tư nghì như vậy, có thể vì chúng sanh mà làm các Phật sự.

Đức Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông vừa nói. Vô Cấu Xứng này được thức ăn thơm bất khả tư nghì, có thể vì chúng sanh mà làm các Phật sự.

Đức Phật dạy A Nan Đà:

- Như Vô Cấu Xứng được thức ăn thơm, vì chúng sanh mà làm các Phật sự, đối với mười phương cõi hoặc có cõi Phật dùng ánh sáng để làm Phật sự; có cõi Phật dùng cây Bồ đề để làm Phật sự; có cõi Phật dùng Bồ tát làm Phật sự; có cõi Phật thấy tướng tốt đẹp của sắc thân Như Lai mà làm các Phật sự; có cõi Phật dùng những hóa nhơn để làm Phật sự; có cõi Phật dùng những y phục để làm Phật sự; có cõi Phật dùng các ngọa cụ để làm Phật sự; có cõi Phật dùng những thức ăn uống để làm Phật sự; có cõi Phật dùng vườn cây để làm Phật sự; có cõi Phật dùng lầu đài để làm Phật sự; có cõi Phật dùng hư không để làm Phật sự. Vì sao? Vì các hữu tình nhơn nơi phương tiện này được điều phục. Hoặc có cõi Phật vì các hữu tình mà dùng những văn tự để giảng nói ví dụ như huyễn, như mộng, trăng trong nước, tiếng vang vọng lại, sóng nước, bóng trong gương, mây nổi, thành Kiền đạt phược, lưới Đế thích... mà làm Phật sự; có cõi Phật dùng âm thanh ngôn ngữ, văn tự giảng nói tánh tướng của các pháp để làm Phật sự; hoặc có cõi Phật thanh tịnh tịch nhiên không nói không năng, không chê không khen, không có chỗ tìm cầu, không hý luận, không hiển thị. Hữu tình được hóa hiện nhân đây mà tịch tịnh, tự nhiên chứng nhập vào tánh tướng của các pháp mà làm Phật sự.

Như vậy ông nên biết! Cõi Phật mười phương thế giới nhiều vô biên, Phật sự đã làm cũng vô lượng vô biên. Nói tóm lại, tất cả oai nghi tấn chỉ thọ dụng thi hành đều là hóa hiện để điều phục hữu tình. Cho nên tất cả là Phật sự.

Lại nữa tất cả bốn ma, tám vạn bốn ngàn phiền não ở thế gian làm não hại hữu tình. Chư Như Lai dùng pháp này vì các chúng sanh mà làm Phật sự. Được pháp môn ấy gọi là ngộ nhập vào tất cả Phật Pháp.

Nếu các Bồ tát nhập vào pháp môn này, mặc dầu thấy tất cả cõi Phật thành tựu vô lượng rộng lớn công đức nghiêm tịnh nhưng không vui thích; mặc dầu thấy tất cả cõi Phật không có công đức, dơ bẩn cũng không buồn giận. Đối với chư Phật có lòng tin thượng phẩm thì cung kính khen ngợi chưa từng có. Tất cả công đức của chư Phật thì bình đẳng viên mãn vì đạt được tánh của tất cả pháp hoàn toàn chân thật bình đẳng. Vì muốn làm thành thục những hữu tình khác nhau mà thị hiện những cõi Phật khác nhau.

Các ông nên biết! Như các cõi Phật mặc dầu đất đai tốt xấu khác nhau nhưng trên hư không hoàn toàn như nhau. Như vậy nên biết rằng chư Phật Thế Tôn vì muốn làm thành thục các hữu tình mà thị hiện những sắc thân khác nhau nhưng không bị chướng ngại, và phước đức trí huệ rốt ráo viên mãn hoàn toàn giống nhau.

Ông nên biết! Tất cả Như Lai đều bình đẳng, đó là oai quang sắc thân tối thượng, tròn đầy vô cực, các tướng tốt vẻ đẹp, chủng tộc tôn quí, thanh tịnh, giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, các lực, vô úy, bất cộng pháp, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, lợi ích an lạc, oai nghi, việc làm, chánh hạnh, thọ mạng, giảng pháp, độ thoát, làm thành thục hữu tình làm thanh tịnh cõi Phật, tất cả đều bình đẳng, tròn đầy tối thượng, rốt ráo vô cùng tận. Cho nên các ngài đều đồng gọi là Chánh Đẳng Giác, gọi là Như Lai, gọi là Phật Đà.

Ông nên biết! Giả sử Ta muốn Phân biệt giảng rộng về nghĩa ba câu ấy dù trải qua một kiếp ông nghe không gián đoạn cho đến hết tuổi thọ của ông cũng không thể hiểu hết được. Giả sử hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế gian đều đều như A Nan đắc niệm tổng trì, đa văn đệ nhất trải qua một kiếp nghe không gián đoạn đến hết tuổi thọ cũng không hiểu hết được. Nghĩa của ba câu Chánh Đẳng Giác, Như Lai và Phật Đà này không thể nào giảng nói cặn kẽ rốt ráo được chỉ trừ đức Như Lai mà thôi. Như vậy nên biết! Bồ đề của chư Phật với công đức vô lượng, biện tài không ngưng trệ, không thể nghĩ bàn.

Sau khi đức Phật dạy như vậy, A Nan Đà thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau con không dám tự xưng mình đắc niệm tổng trì, đa văn đệ nhất nữa.

Đức Phật dạy:

- Ông không nên có ý nghĩ thối lui như vậy. Vì sao? Vì từ xưa đến nay Ta chỉ nói ông là người đắc tổng trì, đa văn, đệ nhất trong chúng Thanh văn chứ ta không nói ở trong Bồ tát. Ông đừng nói nữa. Nếu người có trí thì không nên so lường việc làm của Bồ tát. Ông nên biết rằng: Đáy biển cả sâu thẳm còn có thể lường được còn biển cả trí huệ niệm định tổng trì, biện tài của Bồ tát không ai có thể lường được.

Thanh văn các ông hãy gát những việc làm thuộc cảnh giới của Bồ tát qua một bên, không nên suy nghĩ nữa. Trong khoảng chừng một bữa ăn, Vô Cấu Xứng đã thị hiện biến hóa thần thông như vậy còn tất cả Thanh văn và các Độc giác trải qua trăm ngàn đại kiếp dù thị hiện biến hóa thần thông cũng không làm được.

Bấy giờ, các Bồ tát đến từ phương trên đều lễ lạy Thích Ca Mâu Ni, chắp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con mới đến thấy những sự dơ bẩn ở cõi Phật này liền có ý tưởng thấp kém. Bây giờ, chúng con thấy xấu hổ hối hận và đã trừ bỏ tâm ấy rồi. Vì sao? Vì cảnh giới của chư Phật có phương tiện thiện xảo bất khả tư nghì, vì muốn làm thành thục các hữu tình nên theo sở thích khác nhau của chúng mà thị hiện các cõi Phật như vậy như vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Xin ngài ban bố cho chúng con chút pháp để khi trở về thế giới Nhất Thiết Diệu Hương, nhờ pháp ấy chúng con luôn nhớ đức Như Lai.

Sau khi Bồ tát ấy nói vậy, Thế Tôn dạy:

- Này các thiện nam! Có pháp môn giải thoát của Bồ tát gọi là hữu tận vô tận. Các ông nên cung kính lãnh thọ siêng năng tu học. Sao gọi là hữu tận vô tận? Hữu tận tức là pháp hữu vi có sanh diệt. Vô tận tức là pháp vô vi không sanh diệt. Bồ tát không nên dứt bỏ hữu vi cũng không nên trụ vào vô vi. Vì sao Bồ tát không dứt tận hữu vi? - Vì các Bồ tát không rời bỏ đại từ, đại bi, đại xả, luôn phát tâm tăng thượng ý lạc; tôn trọng giữ chặt tâm niệm vào Nhất thiết trí không bao giờ quên mất; làm thành thục các hữu tình không biết mệt mõi; không lìa bỏ bốn nhiếp pháp, giữ gìn chánh pháp không tiếc thân mạng; tu tập các pháp lành không bao giờ biết đủ; thích an lập vào những phương tiện hồi hướng; tìm cầu chánh pháp không hề mệt mỏi; giảng giải giáo pháp không che giấu; luôn thích chiêm ngưỡng cúng dường phụng thờ chư Phật; vào trong sanh tử mà không sợ sệt, mặc dầu gặp thịnh suy nhưng không vui buồn; không bao giờ khinh khi những vị chưa học; với những người đã tu học thì kính trọng như Phật; đối với phiền não tạp nhạp suy nghĩ đúng lý; không đắm nhiễm với các vui viễn ly; không tham chấp vào những sự vui của mình; thâm tâm tùy hỷ với sự vui của người; tu tập được tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí thì tưởng như địa ngục không tham trước vào đó, dạo qua sanh tử tưởng như vườn hoa không nhàm chán; với người đi xin tưởng như bạn lành; đem cho tất cả sở hữu không tiếc nuối; có tưởng hồi hướng lên Nhất thiết trí; với những người phạm giới cấm có tưởng cứu hộ; với Ba la mật đa có tưởng như cha mẹ mau làm cho viên mãn; với pháp phần Bồ đề có tưởng như người hầu cận khiến họ cứu cánh; với các pháp lành luôn luôn siêng năng tu tập; thích trang nghiêm cõi Phật; thích khen ngợi cõi Phật khác, thích mau thành tựu cõi Phật của mình; mau thành tựu các tướng trang nghiêm tốt đẹp viên mãn do tu hành thanh tịnh là đại thí chủ vô ngại; được thân khẩu khẩu ý nghiêm sức thanh tịnh do viễn ly tất cả những pháp ác, phạm giới; thân tâm được cứng rắn chịu đựng do xa lìa tất cả phiền não sân hận; tu hành mau được cứu cánh do đã trải qua vô số kiếp sanh tử; tâm mình dõng mãnh kiên chắc do nghe vô lượng công đức của Phật không mệt mỏi; muốn diệt trừ tận gốc oán địch phiền não thì dùng phương tiện tu sửa bằng kiếm Bát nhã; muốn gánh vác gánh nặng cho các hữu tình do biết rõ uẩn giới xứ; muốn chiến thắng tất cả quân ma do tinh tấn mạnh mẽ không biếng nhác; muốn hộ trì chánh pháp vô thượng do lìa ngã mạn siêng năng cầu trí huệ giáo hóa thiện xảo; được thế gian tôn trọng kính mến vâng lời do luôn thích hành ít muốn biết đủ; với pháp thế gian không tạp nhiễm mà tùy thuận với tất cả thế gian với các oai nghi không hủy hoại mà còn thị hiện tất cả việc làm, phát sanh những thần thông diệu huệ, làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình; thọ trì hết thảy chánh pháp đã được nghe; có diệu trí chánh niệm tổng trì; phát sanh diệu trí biết các căn thắng liệt mà đoạn tất cả nghi ngờ của hữu tình để chứng đắc biện tài vô ngại; giảng giải chánh pháp không bao giờ ngưng trệ; được hưởng thọ hỷ lạc thù thắng trời người do siêng năng tu tập thanh tịnh mười nghiệp đạo thiện; khai mở con đường Phạm Thiên do diêng năng tinh tấn tu hành bốn trí vô lượng; được âm thanh thượng diệu của Phật do siêng năng cầu thỉnh giảng pháp rồi tùy hỷ khen ngợi; được oai nghi thượng diệu của Phật do thường tu ba nghiệp tịch tịnh thù thắng; tu hành trong mỗi niệm được tăng trưởng tốt do tâm không đắm nhiễm vào tất cả pháp; khéo điều phục chư Bồ tát tăng do thường đem giáo lý đại thừa khuyến khích chúng sanh tu học; không làm mất tất cả công đức do không bao giờ buông lung; các căn lành lần lượt tăng trưởng do thích tu hành các đại nguyện; muốn trang nghiêm tất cả cõi Phật do luôn siêng năng tu tập căn lành rộnglớn; sự tu hành được rốt ráo vô tận do thường tu tập phương tiện thiện xảo hồi hướng.

Này các thiện nam! Tu hành pháp như vậy gọi là Bồ tát không tận hữu vi.

Thế nào là Bồ tát không trụ vô vi? Nghĩa là mặc dầu Bồ tát hành không nhưng với cái không ấy lại không thích tác chứng. Mặc dầu hành vô tướng nhưng với vô tướng lại không thích tác chứng; mặc dầu hành vô nguyện nhưng với vô nguyện lại không thích tác chứng; mặc dầu hành vô tác nhưng đối với vô tác lại không thích tác chứng; mặc dầu quán chư hành đều là vô thường nhưng tâm không nhàm chán căn lành; mặc dầu quán thế gian tất cả đều là khổ nhưng vẫn cố ý thọ sanh trong sanh tử; mặc dầu thích quán sát bên trong không có ngã nhưng hoàn toàn không xả bỏ chán thân mình; mặc dầu thích quán bên ngoài không có hữu tình, nhưng luôn giáo hóa chỉ dạy tâm không nhàm chán, mệt mỏi; mặc dầu quán Niết bàn rốt ráo tịch tịnh nhưng hoàn toàn không rơi vào tịch diệt; mặc dầu quán viễn ly hoàn toàn an lạc nhưng hoàn toàn không nhàm chán thân tâm; mặc dầu thích quán sát không có A lại da nhưng không vứt bỏ pháp tạng thanh bạch; mặc dầu quán sát các pháp hoàn toàn vô sanh nhưng luôn gánh vác làm lợi ích cho chúng sanh; mặc dầu quán vô lậu nhưng lại luân hồi không dứt trong sanh tử; mặc dầu quán vô hành nhưng thực hành làm thành thục hữu tình; mặc dầu quán vô ngã nhưng đối với hữu tình không bỏ lòng từ bi; mặc dầu quán vô sanh nhưng đối với nhị thừa không rơi vào chánh vị; mặc dầu quán các pháp hoàn toàn không tịch nhưng không làm không tịch phước đức đã tu; mặc dầu quán các pháp hoàn toàn viễn ly nhưng không viễn ly trí huệ đã tu được; mặc dầu quán các pháp hoàn toàn không thật nhưng luôn an trụ vào tư duy viên mãn; mặc dầu quán các pháp hoàn toàn không có chủ nhưng luôn siêng năng cầu trí tự nhiên; mặc dầu quán các pháp không có biểu tướng nhưng đối với liễu nghĩa thì an lập vào hạt giống của Phật (giác ngộ).

Này các thiện nam! Tu hành pháp này gọi là Bồ tát không trụ vào vô vi.

Này thiện nam! Các Bồ tát vì luôn siêng năng tu tập Tư lương phước nên không trụ vô vi; vì siêng năng tu tập tư lương trí nên không tận hữu vi; vì thành tựu đại bi không giảm sút nên không trụ vô vi; vì thành tựu đại bi không giảm sút nên không tận hữu vi; vì làm lợi ích an lạc cho hữu tình nên không trụ vô vi; làm cứu cánh viên mãn các Phật pháp nên không tận hữu vi; làm thành tựu viên mãn sắc thân Phật trang nghiêm với tất cả tướng tốt đẹp nên không trụ vô vi; vì chứng đắc thân trí Phật, tất cả lực, vô úy... nhưng không tận hữu vi; dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa chúng sanh nên không trụ vô vi; vì dùng trí huệ vi diệu quán sát hoàn hảo nên không tận hữu vi; vì tu sửa cõi Phật rốt ráo viên mãn nhưng không trụ vô vi; vì Phật thân an trụ vào thường vô tận nên không tận hữu vi; luôn làm lợi ích chúng sanh nên không trụ vô vi; vì lãnh thọ pháp nghĩa không phế bỏ nên không tận hữu vi; vì tích chứa căn lành vô tận nên không trụ vô vi; giữ gìn căn lành không đoạn mất nên không tận hữu vi; vì muốn thành tựu viên mãn sở nguyện xưa nên không trụ vô vi; đối với vĩnh viễn tịch diệt không mong cầu nên không tận hữu vi; làm viên mãn ý lạc thiện thanh tịnh nên không trụ vô vi; làm tăng trưởng ý lạc thiện thanh tịnh nên không tận hữu vi; vì luôn luôn du hí năm thần thông nên không trụ vô vi; Phật trí lục thông thiện viên mãn nên không tận hữu vi; tư lương Ba la mật đa viên mãn nên không trụ vô vi; những suy nghĩ trước đây chưa viên mãn nên không tận hữu vi; cất chứa tài bảo pháp không nhàm chán nên không trụ vô vi; không thích mong cầu pháp nhỏ nên không tận hữu vi; giữ vững lời nguyện không thối lui nên không trụ vô vi; có thể làm cho thệ nguyện cứu cánh viên mãn nên không tận hữu vi; tích trữ tất cả diệu pháp lạc nên không trụ vô vi; tùy theo người đáng trao pháp lạc nên không tận hữu vi; biết rõ bệnh phiền não của chúng sanh nên không trụ vô vi; diệt trừ bệnh phiền não của chúng sanh nên không tận hữu vi.

Này các thiện nam! Bồ tát không tận hữu vi, không trụ vô vi như vậy gọi là an trụ vào pháp môn giải thoát hữu tận vô tận. Các ông nên tinh tấn tu hành.

Bấy giờ, các Bồ tát ở cõi Phật Tối Thượng Hương Đài Như Lai thuộc thế giới Nhất Thiết Diệu Hương nghe nói pháp môn giải thoát hữu tận vô tận rồi, giáo pháp được khai mở, lòng họ phấn khởi, ai nấy đều rất vui mừng khôn xiết, đem vô lượng các hương hoa thượng diệu và những vật trang nghiêm để cúng dường Thế Tôn và các Bồ tát và pháp môn giải thoát hữu tận vô tận đã nói. Lại đem nhiều hưong hoa thượng diệu rải khắp ba ngàn đại thiên thế giới, hương hoa ấy che lấp mặt đất tới đầu gối.

Khi ấy các Bồ tát cung kính đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, đi nhiễu bên phải ba vòng, khen ngợi ca tụng Thích Ca Mâu Ni, các Bồ tát và pháp đã được nói. Thế rồi các vị Bồ tát cõi Diệu Hương bỗng nhiên biến mất, trong chốc lát đã trở về cõi của mình.

Hết quyển thứ năm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567