Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Phẩm Ngũ giới

07/05/201316:02(Xem: 12194)
14. Phẩm Ngũ giới

Kinh Tăng Nhất A-Hàm

14. Phẩm Ngũ giới

Thích Đức Thắng

Nguồn: Việt dịch: Thích Đức Thắng, Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ

KINH SỐ 1

[576a14] Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu nhiều, mà thành hạnh địa ngục, thành hạnh súc sanh, thành hạnh ngạ quỷ, nếu sinh vào cõi người mà thọ mạng ngắn ngủi: đó là sát sinh.

“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào có ý thích sát sinh, liền bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; nếu sinh vào cõi người thì thọ mạng ngắn ngủi. Vì sao vậy? Vì họ đã dứt sinh mạng kẻ khác. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy học chớ sát sinh.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 2

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu hành, tu hành nhiều, mà hưởng phước cõi người, hưởng phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn: đó là không sát sinh.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu có người nào không hành sát sinh, cũng không nghĩ đến sát sanh, thọ mạng sẽ dài lâu. Vì sao vậy? Vì không bức hại. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy học chớ sát sinh.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

[576b01] Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 3

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu nhiều, mà thành hạnh địa ngục, thành hạnh súc sanh, thành hạnh ngạ quỷ; nếu sinh vào cõi người rất là nghèo túng, áo không đủ che thân, ăn không đầy miệng: đó là trộm cướp.

“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào có ý thích trộm cướp, lấy tài vật của người khác, liền bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; nếu sinh vào cõi người rất là nghèo túng. Vì sao vậy? Vì đã dứt sinh nghiệp người khác. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy học xa lìa lấy của không được cho.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 4

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu hành, tu hành nhiều, mà hưởng phước cõi người, hưởng phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn: đó là bố thí rộng rãi.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu có người nào hành bố thí rộng rãi, trong đời hiện tại được sắc đẹp, được sức khỏe, được đầy đủ tất cả; cõi trời, cõi người, hưởng phước vô lượng.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy hành bố thí, chớ có lòng keo lẫn.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 5

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu nhiều, mà thành hạnh địa ngục, thành hạnh súc sanh, thành hạnh ngạ quỷ; nếu sinh vào cõi người, sống tại gia gian dâm không có tịnh hạnh, bị người chê bai, và thường bị phỉ báng. Một pháp gì? Đó là tà dâm.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu có người nào dâm dật vô độ, thích xâm phạm vợ người, liền bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; nếu sinh vào cõi người thì khuê môn dâm loạn.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thường chánh ý, chớ khởi ý tưởng dâm. Cẩn thận chớ xâm phạm vợ người.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 6

[576c01]Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu hành, tu hành nhiều, mà hưởng phước cõi người, hưởng phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn: đó là không tà dâm vợ người.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu có người nào trinh khiết, không tà dâm, thân thể hương khiết, cũng không có tưởng tà vạy, sẽ hưởng được phước cõi người, cõi trời.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, chớ hành tà dâm, khởi ý dâm loạn.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 7

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu nhiều, mà thành hạnh địa ngục, thành hạnh súc sanh, thành hạnh ngạ quỷ; nếu sinh vào cõi người, thì hơi miệng hôi hám, làm người chán ghét: đó là nói dối vậy.

“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào nói dối, nói thêu dệt, gây tranh cãi phải quấy, thì liền bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì sao vậy? Vì sự nói dối ấy.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, phải chí thành không được nói dối.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 8

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu hành, tu hành nhiều , mà hưởng phước cõi người, hưởng phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn. Một pháp gì? Đó là không nói dối.

“Này các Tỳ-kheo, người nào không nói dối, thì hơi miệng thơm tho, tiếng tốt đồn xa.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thực hành không nói dối.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 9

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu nhiều, mà chịu tội địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ; nếu sinh vào cõi người thì cuồng si, ngu muội, không biết chân ngụy: đó là uống rượu.

“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào tâm ham uống rượu, thì sẽ sinh vào nơi [577a01] không có trí tuệ, thường chịu ngu si.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, cẩn thận chớ uống rượu.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 10

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào hơn pháp này, nếu đã tu hành, tu hành nhiều, mà hưởng phước cõi người, hưởng phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn. Một pháp gì? Đó là không uống rượu.

“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào không uống rượu, sinh ra liền thông minh, không có ngu muội, biết rộng kinh sách, ý không lầm lẫn.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm tắt:

Thứ năm, kinh địa ngục,
Đây gọi hành bất thiện;
Năm là trời cùng người,
Hãy biết theo thứ tự.



[1] Pāli tương đương, A. 1.16 Ekadhamma. Cf. Quang tán Bát-nhã 7, T8n222, tr.195a12

[2] Pāli: buddhānussati.

[3] Pāli: dhammānussati.

[4] Pāli: Saṅghānussati.

[5] Pāli: sīlānussati.

[6] Pāli: cāgānussati.

[7] Pāli: devānussati.

[8] Pāli: upasamānussati, niệm tịch tĩnh (của Niết-bàn).

[9] Pāli: anāpānasati, niệm hơi thở ra vào.

[10] Pāli: kāyagatāsati, niệm thân hành.

[11] Pāli: maraṇassati.

[12] Bản Hán, hết quyển 1.

[13] Nguyên Hán: 諸法之本。如來所說. Cùng ý nguĩa, nhưntg các đoan sau, Hán dịch khác: 世尊是諸法之本。如來所陳。承受. Xem Phẩm 9, kinh 1.

[14] Để bản: đãm phạ 憺怕. Nên đọc là đạm bạc 憺怕.

[15] Để bản: võng kết 網結. TNM: mạn kết. Pāli: māna-saññojana.

[16] Nguyên Hán: chư thú dĩ tận 諸趣已盡, chỉ các cõi thọ sinh, tức tái sinh. Pāli: gati. Nhưng định ngữ thường gặp: khīṇạjāti, sanh dĩ tận, sự tái sinh đã dứt hết. Có lẽ bản hán đjc là khīṇa-gati.

[17] Pháp pháp thành tựu 法法成就, nên hiểu là pháp tùy pháp hành (Pāli: dhammānudhamma-paṭipanna), thực hành theo thuận thứ của pháp.

[18] Cát tường bình吉祥瓶, tức đức bình 德瓶; Đại trí độ 13 (154a07): “Trời có mọt cái binh gọi là đức bình, từ trong đó sản xuất những vật cần yếu. Ai có bình này, muốn gì đều được.” Skt. maṇgalapātra/ maṅgalapūrṇa-kumbha. Không tìm thấy Pāli tương đương.

[19] Nguyên Hán: hưu tức 休息. Pāli: upasamānussati.

[20] An-ban niệm 安般, niệm hơi thỏ ra vào.

[21] Dụng tâm trì thân 用心持身; chính xác nên hiểu: cảm giác toàn thần khi thở vô… khi thở ra. Pāli: sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati.

[22] Bạch chức 白膱 (?) Khang hy: “Thịt khô (脯 phủ) dài 1 thước 2 tấc gọi là chức.” Có lẽ đây nên đọc là bạch mô 白膜. Nhưng cũng không biết chỉ thứ gì.

[23] Hán: bách diệp 百葉, nguyên chỉ dạ dày của bò dê.

[24] Thương đãng 滄蕩 (?)

[25] Nguyến: tì bào 脾泡, bong bóng hay bọt nơi lá lách (?).

[26] Đại thể, gồm 36 vật trong thân, cf. Tạp 43, T2n99, tr. 311a28; Đại Bát-nhã 53, T5n220, tr. 298b26. Cf. Pāli, M.iii. 90.

[27] Bản Hán, hết quyển 2.

[28] Tham chiếu Pāli, A. 1. 14. Etadaggavaggo.

[29] A-nhã Câu-lân 阿若拘鄰. Pāli: Aññākoṇḍañña (A-nhã Kiều-trần-như),

[30] Ưu-đà-di 優陀夷. Pāli: Udāyī.

[31] Ma-ha-nam 摩訶男. Pāli: Mahānāma.

[32] Thiện Trửu (Chẩu) 善肘. Pāli: Subāhu.

[33] Bà-phá 婆破. Pāli: Vappa.

[34] Ngưu Tích 牛跡. Pāli: Gavampati (Kiều-phạm-bà-đề).

[35] Thiện Thắng 善勝. Pāli: Uttara.

[36] Ưu-lưu-tì-Ca-diếp 優留毘迦葉. (Ưu-lâu-tần-loa-Ca-diếp). Pāli: Uruvela-Kassapa.

[37] Giang Ca-diếp 江迦葉.. Pāli: Nadī-Kassapa (Na-đề Ca-diếp).

[38] Tượng Ca-dếip 象迦葉. Pāli: Gayā-Kassapa (Già-da Ca-diếp).

[39] Mã Sư 馬師. Pāli: Assajit.

[40] Xá-lợi-phất 舍利弗. Pāli: Sāriputta.

[41] Đại Mục-kiền-liên 大目揵連. Pāli: Mahā-Moggallāna.

[42] Nhị Thập Ức Nhĩ 二十億耳. Pāli: Soṇakolivīsa.

[43] Đại Ca-diếp 大迦葉. Pāli: Mahā-Kassapa.

[44] A-na-luật 阿那律. Pāli: Aniruddha.

[45] Ly-viết 離曰. Pāli: Revata.

[46] So sánh Pāli: senāsanapaññapakānaṃ, người phân phối chỗ nằm cho Tăng. Xem Tứ phần 1 (T22n1428, tr. 587a25tt).

[47] Đà-la-bà-ma-la 陀羅婆摩羅. Pāli: Dabba-Mallaputta.

[48] Tiểu Đà-la-bà-ma-la 小陀羅婆摩羅. Xem cht. 20 trên.

[49] La-tra-bà-la 羅吒婆羅. Pāli: Raṭṭhapāla. Nhưng A.1. 24 nói, quý tộc xuất gia (uccākulikānaṃ) là Bhaddhiya Kāligodhāyaputta. Còn Raṭṭhapāla là đệ nhất trong những Tỳ-kheo xuất gia bởi tín tâm kiên định (saddhāpabbajitānaṃ yadidam raṭṭhapālo).

[50] Đại Ca-chiên-diên 大迦旃延. Pāli: Mahā-Kaccāna.

[51] Câu-luật, hiệu của Đại Mục-kiền-liên, gopị theo sinh quán; Pāli: Kolitagāma.

[52] Hán: thọ trù 受籌 (Pāli: salāka), đây chỉ thẻ chia phần ăn cho các tỳ-kheo.

[53] Quân-đầu-bà-mạc 軍頭婆漠. Pāli: Kuṇḍdhāhana. AA. i. 146 giải thích: Kuṇḍadhāna là người nhận thẻ số 1 trong buổi cúng dường của Mahā-Subhaddā, con gái trưởng của Ông Cấp Cô Độc, trong ngày cưới chồng. Xem Phẩm 30, kinh số 3.

[54] Tân-đầu-lô 賓頭盧. Pāli: Piṇḍola-Bhāradvāja. A.i. 24: đệ nhất sư tử hống (sīhanādiknaṃ).

[55] Sấm 讖; để bản: Thức 識. Có lẽ Pāli: Khema, được nói đến trong S.iii. 126.

[56] Bằng-kỳ-xá 鵬耆舍. Pāli: Vaṅgīsa.

[57] Ma-ha Câu-hy-la 摩訶拘絺羅. Mahā-Koṭṭhika.

[58] Kiên Lao 堅牢.

[59] Nan-đề 難提. Pāli: Nandiya.

[60] Kim-tỳ-la 今毘羅. Pāli: Kimbila.

[61] Chỉ hành đầu đà nhất tọa thực. Pāli: ekāsanika.

[62] Thi-la 施羅.

[63] Phù-di 浮彌.

[64] Hồ nghi Ly-viết 狐疑離. Pāli: Kaṅkhā-Revata.

[65] Bà-ta 婆嗟.

[66] Đà-tố 陀素.

[67] Ngũ nạp y 五納衣: y năm mảnh; cơ bản chỉ y năm điều, tức năm mảnh ghép lại; nhưng cũng chỉ chung tất cả loại y cắt rọc; hoặc gọi tắt là nạp y.

[68] Ni-bà 尼婆.

[69] Ưu-đa-la 優多羅. Pāli: Uttara?

[70] Lô-hê-ninh 盧醯甯.

[71] Ưu-kiềm-ma-ni-giang 優鉗摩尼江.

[72] San-đề 刪提; bản Tống: Na-đề 那提. Trong kệ tóm tắt, gọi là Tức 息, cho thấy Pāli: Sānti. Nhưng chưa tìm thấy đâu trong tư liệu nào Pāli.

[73] Bà-câu-la 婆拘羅. Pāli: Bakkula.

[74] Mãn Nguyện Tử 滿願子. Pāli: Puṇṇa Mantāniputta.

[75] Ưu-ba-ly 優波離. Pāli: Upāli.

[76] Bà-ca-lợi 婆迦利. Pāli: Vakkalī.

[77] Nan-đà 難陀. Pāli: Nanda.

[78] Bà-đà 婆陀.

[79] Tư-ni 斯尼.

[80] Thiên Tu-bồ-đề 天須菩提.

[81] Nan-đà-ca 難陀迦. Pāli: Nandaka. A.i. 25: Đệ nhất giáo thọ Tỳ-kheo-ni (bhikkunovādakānaṃ) là Nandaka.

[82] Tu-ma-na 須摩那.

[83] Thi-bà-la 尸婆羅. Pāli, A.1. 24: Sīvala, lợi dưỡng đệ nhất (lābhīnaṃ).

[84] Ưu-ba-tiên Ca-lan-đà Tử 優波先迦蘭陀子. Có lẽ Pāli, Upasena Vaṅgantaputta, em trai ngài Xá-lợi-phất, hành giả đầu-đà. A.i. 24 nói, Upasena này là đệ nhất trong các Tỳ-kheo oai nghiêm (samantapāsādikānaṃ).

[85] Bà-đà-tiên 婆陀先.

[86] Ma-ha Ca-diên-na 摩訶迦延那.

[87] Ưu-đầu-bàn 優頭槃.

[88] Câu-ma-la Ca-diếp 拘摩羅迦葉. A.i. 24: Đệ nhất có lời nói làm đẹp lòng người (cittakathikānaṃ) là Kumārakassapa.

[89] Diện Vương 面王. Tham chiếu, A.i.25: Thọ trì y phục thô xấu (lūkhacīvaradhārānaṃ) la Mogharājāti.

[90] A.i. 24: Rāhula, đệ nhất siêng học (sikkhākāmānaṃ).

[91] Để bản: Ban-thố 般兔. TNM: Bàn-đặc 槃特. Tham chiếu, A.i. 24: Mahā-Panthaka, thiện xảo hồi chuyển các tưởng (saññāvivaṭṭakusalānaṃ).

[92] Châu-lợi Bàn-thố (đặc) 周利般兔 . Pāli: Cūḷa-Panthaka, A.i.24: đệ nhất biến hóa ý thành thân (manomayaṃ kāyaṃ abhinimmiantānaṃ).

[93] Thích Vương 釋王. Có lẽ chỉ Pāli Bhaddhiya Kāligodhāputta, nguyên là ông hoàng họ Thích.

[94] Bà-đề-bà-la 婆提婆羅.

[95] La-bà-na-bà-đề 羅婆那婆提. Tham chiếu, A.i.23: đệ nhất có âm thanh dịu dàng (mañjussarāṃ) là Lakuṇḍka Bhaddiya.

[96] Ương-ca-xà 鴦迦闍.

[97] A-nan 阿難.

[98] Ca-trì-lợi 迦持利.

[99] Nguyệt Quang 月光. Pāli: Jotika (Jotiya).

[100] Thâu-đề 輸提.

[101] Thiên 天.

[102] Quả Y 果衣. Có lẽ Pāli: Bāhiya-Dārucīriya, người lấy vỏ cây làm áo. Nhưng, A.i. 24 nói ngài là đệ nhất thần thông nhanh chóng. (khippābhiññānaṃ), trong khi đó, đệ nhất nhớ nhiều đời trước (pubbenivāsaṃ anussarantānaṃ) là Sobhita.

[103] Bà-hê, phiên âm Bāhiya 婆醯, tức Quả Y ở trên.

[104] Ương-quật-ma 鴦掘魔. Pāli: Aṅgulimāla.

[105] Tăng-ca-ma 僧迦摩. Pāli: Saṅgāmaji.

[106] Chất-đa Xá-lợi-phất 質多舍利弗. Caitta (Hatthirohaputta = Hatthisāriputta).

[107] Thiện Lai 善來. Pāli, A.i. 25: đệ nhất thiện xảo với hỏa giới tam-muội là Sāgata (tejodhātukusalānaṃ yadidaṃ sāgato). Bản Hán đọc là Sugāta. Tỳ-kheo này hàng phục được con độc long bằng hỏa quang tam muội. Xem Tứ phần, tr. 671c. Vin. iv. 108.

[108] Có thể đồng nhất với Trưởng lão Nārada của Pāli, được kể trong các sớ giải của Petavatthu (Ngạ quỷ sự) và Vimāvatthu (Thiên cung sự).

[109] Có thể đồng nhất vơi Trưởng lão Bhūta của Pāli, người mà tất cả các anh chị đều bị một con quỷ dạ-xoa ăn thịt.

[110] Tỳ-lô-giá 毘盧遮.

[111] Tu-bồ-đề 須菩提. Pāli: Subhūti.

[112] A.i. 24: đệ nhất lâm trụ (a-lan-nhã hạnh hay vô tránh hạnh), và đệ nhất ứng cúng, là Tu-bồ-đề (araṅavihārinām, dakkhiṇeyyaṃ, Subhūti).

[113] Kỳ-lợi-ma-nan 耆利摩難. Đồng nhất với Girimānanda của Pāli.

[114] Diệm Thạnh 焰盛.

[115] Để bản: bà 婆. TNM: thiện 善 (lai), tức Thiện Lai nói trên.

[116] Âm khác của dạ-xoa (Pāli: Yakkha, Skt. Yakṣa), liên hệ đến Quỷ-đà, xem cht. 82 trên.

[117] Phù-lô-giá 浮盧遮, tức Tỳ-lô-giá nói trên.

[118] Thiện Nghiệp 善業, tức Tu-bồ-đề nói trên.

[119] Để bản: cập Ma-nan 及摩難, thiếu Diệm Thạnh.

[120] Có thể đồng nhất với Trưởng lão Brahmadatta của Pāli.

[121] Pāli. Susīma, nguyên là xuất gia ngoại đạo, được đề cập nhiều chỗ trong Tương ưng bộ. Xem Tạp, các kinh 346, 373, 1220.

[122] Để bản: hỷ hành 喜行. TNM: thiện hành 善行.

[123] Sa-di-đà 娑彌陀.

[124] Dược-ba-ca 躍波迦.

[125] Đàm-di 曇彌.

[126] Tỉ-lợi-đà-bà-giá 比利陀婆遮.

[127] Vô Uý 無畏.

[128] Tu-nê-đa 須泥多.

[129] Đà-ma 陀摩.

[130] Tu-la-đà 須羅陀.

[131] Tỳ 毘, trên kia chép là tỷ 比.

[132] Na-già-ba-la 那伽波羅. Có thể đồng nhất Na-già-ba-la trong Tạp, kinh 1232, một thời làm thị giả Phậtban đêm giả làm quỷ Ma-cưu-la để nhát Phật.

[133] Bà-tư-tra 婆私吒. Có thể đồng nhất với Bà-tất-tra婆悉吒, Trường kinh 5, Trung kinh 154; Pāli: Vāseṭṭha, D. 27. Aggañña.

[134] Tu-dạ-xa 須夜奢.

[135] Mãn Nguyện Thạnh Minh 滿願盛明.

[136] Di-hề 彌奚.

[137] Ni-câu-lưu 尼拘留.

[138] Lộc-đầu 鹿頭.

[139] Địa 地.

[140] Đầu-na 頭那. Pāli: Doṇa?

[141] Pāli: Subhadda, được hóa độ cuối cùng trước khi Phật nhập niết-bàn.

[142] Na-ca那迦, tức Na-già-ba-la.

[143] Xá na舍那, trong này có thể gồm hai tên, nhưng không thấy liện hệ tên đã nêu trên.

[144] Cf. A. 1. 14. 5.

[145] Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di 大愛道瞿曇彌. Pāli: Mahāpajāpatī Gotamī.

[146] Để bản: Thức-ma 識摩. TNM: Sấm-ma. Pāli: Khemā 讖摩.

[147] Ưu-bát Hoa Sắc 優缽華色. Pāli: Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc).

[148] Cơ-lê-xá Cù-đàm-di 機梨舍瞿曇彌. Pāli: Kisā-Gotamī, đệ nhất thọ trì y thô xấu (lūkhacīvaradharāaṇaṃ).

[149] Xa-câu-lê 奢拘梨. Pāli: Sakulā.

[150] Xa-ma 奢摩. A.i.25: đệ nhất tọa thiền là Nandā.

[151] Ba-đầu-lan-xà-na 波頭蘭那.

[152] Ba-la-giá-na 波羅遮那. Ba-la-giá-na Pāli: đệ nhất trì luật, Paṭācāra.

[153] Ca-chiên-diên 迦旃延. Xem Phẩm 23 kinh 1. A.i. 25: đệ nhất tín giải thoát (saddhādhi-muttānaṃ) là Siṅgālakamātā.

[154] Tối Thắng 最勝. Pāli: Uttarā?

[155] Để bản chép là ba-la.

[156] Bạt-đà Ca-tỳ-ly 扙陀迦毘離.Pāli: Bhaddā Kāpilānī.

[157] Hê-ma-xà 醯摩闍.

[158] Thâu-na 輸那. Pāli: Soṇā, đệ nhất tinh cần.

[159] Đàm-ma-đề-na 曇摩提那. Pāli: Dhammadinnā (Pháp Dữ).

[160] Ưu-đa-la 優多羅. Pāli: Uttarā. Xem cht. 10 trên.

[161] Quang Minh 光明.

[162] Thiền Đầu 禪頭.

[163] Đàn-đa 檀多.

[164] Thiên Dữ 天與.

[165] Cù-ty 瞿卑.

[166] Vô Úy 無畏.

[167] Tỳ-xá-khư 毘舍佉. Pāli: Visakhā.

[168] Bạt-đà-bà-la 拔陀婆羅.

[169] Ma-nộ-ha-lợi 摩怒呵利.

[170] Đà-ma 陀摩.

[171] Tu-đà-ma 須陀摩.

[172] Lệ-tu-na [王*劦]須那. TNM: Lệ-na [王*劦]那. Từ điển không thấy từ này, 王*劦, không rõ đọc hiếp hay lệ.

[173] Xà-đà 奢陀.

[174] Ưu-ca-la 優迦羅.

[175] Ly-na 離那.

[176] Để bản: phân-việt 分越, TNM: phân-vệ, Pāli: piṇdapāta, hành khất thực.

[177] A-nô-ba-ma 阿奴波摩.

[178] Để bản: đa 多, chữ cập 及 chép nhầm.

[179] Bà-đà: tức Bạt-đà-bà-la nêu trên.

[180] Để bản chép nhầm là A-nô-ba. TNM: Ma-nộ-kha.

[181] Lệ-na tức Lệ-tu-na ở trên. Để bản chép nhầm là Xa-đa 奢多. TNM: lệ-xa [王*劦]奢.

[182] Ưu-ca-ma 優迦摩.

[183] Thanh Minh 清明.

[184] Tố-ma 素摩. Pāli: Somā Therī. Nhưng Pāli không đề cập sự kiện này.

[185] Ma-đà-lợi 摩陀利.

[186] Ca-la-già 迦羅伽.

[187] Đây chỉ Không giải thoát (Pāli: suñña-vimokkha).

[188] Đề-bà-tu 提婆修.

[189] Đây chỉ Vô tướng giải thoát (Pāli: animitta-vimokkha).

[190] Nhật Quang 日光.

[191] Đây chỉ Vô nguyện giải thoát (Pāli: appaṇihita-vimokkha)

[192] Tỳ-ma-đạt 毘摩達.

[193] Phổ Chiếu 普照.

[194] Để bản Đàm-ma-đề 曇摩提. TNM: Đàm-ma-ma-đề 曇摩摩提.

[195] Tu-dạ-ma 須夜摩.

[196] Nhân-đà-xà 因陀闍.

[197] Long 龍.

[198] Câu-na-la 拘那羅.

[199] Bà-tu 婆須.

[200] Hàng-đề 降提.

[201] Giá-ba-la 遮波羅.

[202] Thủ-ca 守迦.

[203] Bạt-đà Quân-đà-la 拔陀軍陀羅. Pāli (A.i. 25): Bhaddā Kuṇḍalakesā (người Rājagaha), đệ nhất thần thông nhanh nhẹn (khippābhiññānaṃ).

[204] Về các ưu-bà-tắc đệ nhất. Tham chiếu Pāli A.1. 14. 6 (R. i. 26).

[205] Tam Quả三果.Pāli, hai thương khách Tapussa-Bhallika, hình như bản Hán đọc là Ta(ya?)pussa-Phalika.

[206] Chất-đa 質多. Pāli: Citta-gahapati. Nhưng A.i. 26 nói là đệ nhất thuyết pháp. (dhammakathikānaṃ).

[207] Kiền-đề A-lam 犍提阿藍.

[208] Quật-đa 掘多.

[209] Ưu-ba-quật 優波掘.

[210] Ha-Xỉ A-la-bà 呵侈阿羅婆. Pāli: Haṭṭhaka (Haṭṭhi theo bản Han) Āḷavaka; A.i. 26: đệ nhất hành bốn nhiếp sự để đoàn kết đại chúng.

[211] Để bản: ma cung 魔宮. TNM: ma hoạn .

[212] Dũng Kiện 勇健.

[213] Xà-lợi 闍利.

[214] Tu-đạt 須達. Pāli: Sudatta, tên thật của Cấp Cô Độc.

[215] Để bản: mẫn- thố 泯兔. TNM: mẫn dật.

[216] Sanh Lậu 生漏. Sanh Lậu 生漏, bản Minh chép là Sanh Mãn. Có lẽ là Bà-la-môn Sanh Văn được thấy trong Tạp, kinh 737, 739, 757. Pāli: Jāṇussoṇi. Bản Hán đọc là Jānāsava.

[217] Phạm-ma-du 梵摩俞. Pāli: Brahmāyu, cf. M.iii.133.

[218] Ngự Mã Ma-nạp 御馬摩納.

[219] Hỷ Văn Cầm喜聞笒.

[220] Tỳ-cừu 毘裘.

[221] Ưu-bà-ly 優婆離. Pāli: Upāli-gahapati.Cf. M.i. 371.

[222] Thù-đề 殊提.

[223] Ưu-ca Tỳ-xá-ly 優迦毘舍離. Pāli: Ugga-Vesālika, đệ nhất bố thí vật thích ý (mānapadāyakānaṃ).

[224] Vô Úy 無畏.

[225] Đầu-ma 頭摩.

[226] Tỳ-sa vương 毘沙王. Pāli: Bimbisāra.

[227] Quang Minh 光明.

[228] Ba-tư-nặc 波斯匿. Pāli: Pasenadī.

[229] A-xà-thế 阿闍世. Do giết cha, đã đoạn thiện căn, nhưng về sau tin Phật nên nói là thiện vô căn. Xem, Trương A-hàm 17, T1n1, tr. 109b26. Cf. Pāli, D.i. 49.

[230] Pāli: Ajātasatta.

[231] Ưu-điền 優填. Pāli: Udena.

[232] Nguyệt Quang 月光.

[233] Tạo Kỳ-hoàn Vương tử 造祇洹. Pāli: Jeta.

[234] Sư Tử 師子.

[235] Vô Úy 無畏. Pāli: Abhaya-kumāra.

[236] Kê-đầu 雞頭.

[237] Bất-ni 不尼

[238] Ma-ha-nạp (Ma-ha-nam) Thích chủng 摩訶納釋種. Pāli: Mahānāma-Sakka,

[239] Bạt-đà 拔陀.

[240] Tỳ-xà-tiên 毘闍先.

[241] Sư Tử Đại tướng 師子大將. Pāli: Sīha-senapati.

[242] Tỳ-xá-ngự 毘舍御. Pāli: Visākha, cf. M.i.299.

[243] Thiên-ma 天摩.

[244] Câu-di-na Ma-la 拘夷那摩羅, có lẽ chỉ một người Mạt-la ở Cau-thi-na. Pāli: Kusināgara-Malla.

[245] Về các Ưu-bà-di đệ nhất. A. 1. 14. 7.

[246] Nguyên trong bản: Ưu-bà-tư 優婆斯.

[247] Nan-đà Nan-đà-bà-la 難陀難陀婆羅. Không rõ tiểu sử. Pāli, A.i. 25: Nữ quy y đầu tiên là Sujātā Seniyadhīta.

[248] Cửu-thọ-đa-la久壽多羅. Pāli: Khujjuttarrā, đa văn đệ nhất (bahussutānaṃ).

[249] Tu-tỳ-da-nữ 須毘耶. A.i.26: đệ nhất tọa thiền, Uttarā Nandamātā. Hán có thể đồng nhất với Suppiyā của Pāli, cf. Vin. 1. 216, Xem Tứ phần 42, T22n1428, tr. 868c7.

[250] Tỳ-phù 毘浮.

[251] Ương-kiệt-xà鴦竭闍.

[252] Bạt-đà-sa-la Tu-diệm-ma 跋陀娑羅須焰摩.

[253] Bà-tu-đà 婆修陀.

[254] Vô Ưu 無優.

[255] Bà-la-đà婆羅陀.

[256] Tu-đầu 須頭.

[257] Ma-lợi 摩利. Pāli: Mallikā.

[258] Tu-lại-bà 須賴婆.

[259] Xả-di 捨彌.

[260] Nguyệt Quang 月光.

[261] Lôi Điện 雷電. A.i. 26: đệ nhất bố thí, Visākhā.

[262] Để bản: Ma-ha Quang 摩訶光. TNM: Ma ha tiên. Pāli, A.i. 26: đệ nhất hành từ vô lượng, Sāmāvatī. (mettāvihārinaṃ).

[263] Tỳ-đề 毘提.

[264] Bạt-đề 拔提.

[265] Nan-đà Mẫu 難陀母. Pāli: (Uttarā) Nandmātā.

[266] Chiếu Diệu 照曜.

[267] Vô Ưu 無優.

[268] Tỳ-thù-tiên 毘讎先.

[269] Ưu-na-đà 那陀.

[270] Vô Cấu 無垢.

[271] Thi-lợi 尸利.

[272] Ương-kiệt-ma 鴦竭摩.

[273] Lôi Diệm 雷焰.

[274] Tối Thắng 最勝.

[275] Nê-la 泥羅.

[276] Tu-ma-ca-đề Tu-đạt Nữ 脩摩迦提須達女.

[277] Tu-đạt Nữ 須達女.

[278] Lam 藍.

[279] Trong nguyên bản: đa-tát-a-kiệt a-la-ha 多薩阿竭 阿羅呵.

[280] Tham chiếu Pāli, A.1. 13.1 (Ekapuggalavaggo, R.i. 22).

[281] Pāli: ekapuggalo.

[282] Trong nguyên bản: đa-tát-a-kiệt a-la-ha tam-da-tam-phật 多薩阿竭.阿羅呵.三耶三佛。.

[283] Tham chiếu Pāli, A. 1. 13. 6. (R.i. 22).

[284] Pāli: xuất hiện sáu vô thượng (channaṃ anuttariyānaṃ pātubhāvo hoti).

[285] Tham chiếu Pāli, như trên.

[286] Nguyên Hán: bốn ý chỉ 四意止.

[287] Nguyên Hán: bốn ý đoạn 四意斷, tức bốn chánh cần.

[288] Nguyên Hán: bát chơn hành八真行.

[289] A. 1. 13. 4.

[290] Pāli, A.1. 16. 5.

[291] Bản Hán, hết quyển 3.

[292] Xem Phẩm 3, kinh 1, cht. 1.

[293] Chất-đa trưởng giả 質多長. Pāli: Citta-gahapati; tham chiếu A. II. 12. 3.

[294] Tham chiếu, A. ii. 12. 3 (R i. 89): Hatthaka người Āḷavī (Thủ trưởng giả, bản Hán đọc là Hatthika): Đệ nhất trong những vị hành bốn nhiếp sự.

[295] Tham chiếu Pāli, A. II. 12.1 (R i. 88)

[296] Hán: thử thị kỳ hạn, thử thị kỳ lượng 此是其限。此是其量. Pāli. ibid., esā tulā etaṃ pamāṇaṃ.

[297] A. I. 13. 1.

[298] Tham chiếu Pāli, ibid.: Ưu-bà-di Khujjuttarā, và Nandāmātā người Veḷukanṭa.

[299] Nguyên Hán: tu phát 鬚髮!

[300] Pāli, ibid.: Kkhemā và Uppalavaṇṇā

[301] Cf. A. I. 1. 1 (R. i. 2): nāhaṃ ekarūpaṃ samanupassāmi yaṃ evaṃ purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati yathayidaṃ itthirūpaṃ, Ta không thấy có một loại sắc nào nắm giữ chặt tâm người nam như là sắc của người nữ.

[302] Nguyên Hán: điệu hý 調戲.

[303] Bản Hán thiếu câu này, cần thêm vào cho đủ ý, theo văn mạch. Cf. A. I. 2. 1 (R. i. tr. 3): nāhaṃ aññaṃ ekadhammampi samanupassāmi yena anuppanno vā kāmacchando uppajjati… yathayidaṃ subhanimittaṃ, Ta không thấy co một pháp nào mà tham dục (triền cái) chưa sinh liền khiến snh … đó là tịnh tướng.

[304] Hán: ác lộ bất tịnh. Pāli: asubhanimittaṃ.

[305] Bản Hán thiếu câu này, cần thêm vào cho đủ ý, theo văn mạch.

[306] Cf. Pāli, A. I.ibid.: quán bất ịnh (asubhanimittaṃ) để trừ dục tham (triền cái); tu từ tâm giải thoát (mettā cetovimutti) để trừ sân; tu tinh cần giới (ārambhadhātu) để trừ hôn trầm thụy miên; tu tâm tịch tĩnh (cetaso vūpasamo) để trừ trạo cử; tu như lý tác ý (yonisomanasikāro) để trừ nghi.

[307] Để bản: kiêu 憍. TNM: mạn.

[308] Tham chiếu, Dhp. 21: Appamādo amatapadaṃ pamādo maccuno padaṃ, appamattā na mīyanti, ye pamattā yathā matā, “Không phóng dật, con đường dẫn đến bất tử. Phóng dật, con đường dẫn đến cõi chết. Những ai không phóng dật thì không chết. Những ai phóng dật, chúng như đã chết.”

[309] Đẳng kiến 等見; phổ thông nói là chánh kiến. Xem đoan sau, Kinh 1 phẩm 12.

[310] Đẳng phương tiện 等方便. Phổ thông: chánh tinh tấn. Thứ tự có đảo lộn.

[311] Đẳng hành 等行. Phổ thông: chánh nghiệp. .

[312] Đẳng trị 等治. Phổ thông: chánh tư duy. Thứ tự có đảo lộn

[313] Để bản: vương 王. TNM: chủ 主.

[314] Xem Phẩm 3, kinh 1, cht. 1.

[315] Dịch sát. Ý nghĩa: đạt được các mục đích trong cõi Diêm-phù.

[316] Nguyên Hán: năng thành nhân 能成人, văn cú đảo trang, cần đảo ngượic chủ từ lại.

[317] Nguyên Hán: ngũ thạnh ấm 五盛陰.

[318] Hán phiên âm: A-na-bân-trì 阿那邠持 (Pāli: Anāthapiṃḍika): phiên âm của Cấp Cô Độc.

[319] Xem Phẩm 3, kinh 5, cht. 6.

[320] Để bản: y đái 衣帶. TNM: y thường, áo xiêm, chỉ nội y.

[321] Pháp táo quán 法澡罐.

[322] Không Phạm thiên xứ 空梵天處, hay Không Phạm thiên cung, thiên cung trống không của Phạm thiên. Xem, Trường 14, T1n1, tr. 90b10. Cf. Brahmajālasutta, D.i. 16: suññaṃ brahmavimānaṃ.

[323] Để bản: kiên 堅. TNM: khan 慳.

[324] Bản Hán, hết quyển 4.

[325] Đề-bà-đạt-đâu 提婆達兜, thường biết là Đề-bà-đạt-đa. Pāli: Devadatta.

[326] Để bản nhảy chữ thiện có trong TNM.

[327] Điều-đạt 調達, trên kia nói là Đề-bà-đạt-đâu. Xem cht. 1 trên.

[328] Đề-bà-đạt-đa đắc tứ thiền và có thần thông, thuộc loại thế tục.

[329] Để bản chép dư chữ tứ 四.

[330] Tham chiếu, Pāli, M. 10 Mahāsatipaṭṭhāna (R i. 55 ff)

[331] Pāli: Phật trú tại thôn Kammāsadhamma, xứ Kuru.

[332] Hán: nhất nhập đạo. Pāli: ekāyano maggo, con đường có một lối đi duy nhất.

[333] Tứ ý chỉ: bốn chỗ y chỉ của ý. Thường nói là bốn niệm xứ, hay bốn niệm trụ. Pāli: cattāro satipaṭṭhānā.

[334] Xem kinh 3, phẩm 10.

[335] Thứ tự có đảo lộn.

[336] Điệu hý, thường nói là trạo cử: cử động bồn chồn, bức rức không yên.

[337] Hán: nội tự quán thân 內自觀身. Pāli: bhikkhu kāye āyānupassī vaharti, Tỳ-kheo an trú (sống) với sự quán thân trên (trong, nơi) thân.

[338] Hán: ngoại tự quán thân 外自觀身.

[339] Hán: nội ngoại quán thân內外觀身.

[340] Nguyên Hán: quán thống thống . Pāli: vedanāsu vedanānupassī , quán thọ trên (nơi) các thọ.

[341] Hán: tự ngu lạc 自娛樂. Pāli: viharati, (vị ấy) an trú.

[342] Hán: chi cao 脂膏, phân biệt với phương 肪, cũng là mỡ, kể sau.

[343] Hán: phương 肪, phân biệt với chi cao 脂膏 kể trên; đều chỉ mỡ.

[344] Nói về quán thân nơi ngọai thân.

[345] Quán nội ngoại thân.

[346] Hán: bạch kha 白珂, trắng như mã não.

[347] Hán: thực lạc thống 食樂痛, cảm thọ lạc thuộc vật chất, nhục thể. Pāli: sāmisaṃ vā sukhaṃ vedanaṃ.

[348] Hán: bất thực lạc thống 不食樂痛. cảm thọ lạc không thuộc vật chất, phi nhục thể. Pāli: nirāmisaṃ vedanaṃ.

[349] Để bản: tập (tu tập) pháp 習法; không có chữ quán 觀. Theo văn mạch dưới, nên hiểu là quán pháp tập khởi nơi các thọ, tức quán tập khởi hay nguyên nhân sinh khởi của các thọ. Pāli: samudaya-dhammānupassī vā vedanāsu vi harati, (Tỳ-kheo ấy) an trú (sống), quán sát pháp tập khởi nơi các thọ.

[350] Hán: quán tận pháp 觀盡法. Pāli: vayadhammānupassī vā vedanāsu viharati, vị ấy an trú, quán sát pháp bại hoại nơi các thọ.

[351] Hán: quán tập tận chi pháp 觀習盡之法. Pāli: samudayavaya-dhammānupassī vā vedanāsu viharati, vị ấy an trú, quán sát pháp khởi diệt nơi các thọ.

[352] Pāli: yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya anissito ca viharati na ca kiñci loke upādayati, cho đến như vậy, vị ấy an trú (sống) không nương tựa cái gì, không chấp thủ bất cứ cái gì trên đời, chỉ hướng đến huệ, chỉ hướng đến niệm.

[353] Để bản: sinh tử 生死; có thể chép dư chữ tử 生.

[354] Ý nghĩa: quán thọ nơi người khác.

[355] Hán: quán tâm tâm pháp. Pāli: citte cittānupassī, quán tâm nơi tâm.

[356] Hán: thọ nhập tâm 受入心, chỉ tâm được thâu rút lại (Pāli: saṃkhittaṃ vā cittaṃ); đối lại với tâm loạn và tâm tán lạc kể sau (Pāli: vikhittaṃ vā cittaṃ).

[357] Để bản: loạn niệm tâm 亂念心; tiếp theo dưới: loạn tâm 亂心. TNM: loạn tâm 亂心.

[358] Hán: tán lạc tâm 散落心, “tâm rơi vãi,” đồng nghĩa với tâm loạn kể trên. Pāli: (vikkhittaṃ cittaṃ).

[359] Hán: tam-muội tâm 三昧心. Pāli: samāhitaṃ cittaṃ, tâm định, tập trung.

[360] Để bản: tâm tướng quán ý chỉ 心相觀意止. Y theo đoạn dưới thêm một chữ tâm: tâm tâm tương quán ý chỉ 心心相觀意止.

[361] Theo ngữ cảnh, ở đây hình như thiếu một đoạn nói trong quán về các thọ ở trên, và quán pháp ở sau: “(những cái đó, các thọ hay các trạng thái của tâm) mà đang hiện tại trước mắt, có thể biết…”

[362] Văn mạch, như đoạn trên về quán thọ. Văn dịch ở đây có chỗ thêm bớt. Xem cht. 23 trên.

[363] Niệm giác ý 念覺意, hay niệm giác chi (Pāli: satisambojjhaṅga). Tham chiếu Pāli: puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati sattasu bojjhaṇgesu, “Lại nữa, Tỳ-kheo sống quán pháp trong các pháp trong bảy giác chi.”

[364] Xem Trung, kinh 10: Lậu tận: y ly, y vô dục, y ư diệt tận, thú chí xuất yếu 依離依無欲依於滅盡趣至出要. Pl. thành cú: vivekanissitaṃ virāganissitaṃ nirodhanissitaṃ vossaggapariṇāmiṃ, y viễn ly, y ly dục, y diệt tận, hướng đến xả ly

[365] Pháp giác ý 法覺意, hay trạch pháp giác chi. Pāli: dhammavicayasambojjhaṅga.

[366] Nguyên trong bản: niệm giác ý 念覺意; đây phải kể là hỷ giác chi, không đồng nhất với niệm đã kể trên. Pāli: pītisambojjhaṅga.

[367] Ỷ giác ý 猗覺意, hay khinh an giác chi. Pāli: passaddhisambojjhaṇga.

[368] Tam-muội giác ý 三昧覺意.

[369] Hộ giác ý 護覺意, tức xả giác chi. Pāli: upekkhāsambojjhaṅga.

[370] Hán: ư ái dục giải thoát 於愛欲解脫, chỉ trạng thái ly dục, không còn ham muốn nơi ngũ dục, của người nhập sơ thiền.

[371] Hữu giác hữu quán 有覺有觀, tức có tâm, có tứ. Pāli: savitakkaṃ savicāraṃ.

[372] Hữu ỷ niệm lạc 有猗念樂, tức có hỷ và lạc phát sinh do sự viễn ly (Pāli: vivekajaṃ pīttisukhaṃ).

[373] Xem Huyền Trang, Pháp uẩn 5 (tr. 482b3, 484a18): nội đẳng tịnh 內等淨trạng thái trừng tịnh và quân bình nội tâm. (Pāli: ajjhattaṃ sampasādanaṃ).

[374] Huyền Trang, ibid. (tr. 482b03, 484a20): tâm nhất thú tính 心一趣性, tâm tập trung trên một điểm. (Pāli: cetaso ekodibhāvaṃ).

[375] Hán: niệm ỷ hỷ an 念猗喜安. Cf. Huyền Trang, ibid. (tr. 482b03): định sinh hỷ lạc 定生喜樂, có hỷ lạc phát sinh do định. Pāli: samādhijaṃ pītisukhaṃ.

[376] Hán: xả ư niệm, tu ư hộ 捨於念。修於護. Cf. Huyền Trang, ibid. (tr. 482b04): ly hỷ, trụ xả 離喜住捨. Pāli: pītiyā ca vỉāgā upekkako ca viharati.

[377] Cf. Huyền Trang, ibid. (tr. 482b05): chánh niệm chánh tri 正念正知. Pāli: upekkhako satimā sukhavihārī, (vị ấy) an trụ lạc với chánh niệm và xả.

[378] Hán: hộ niệm thanh tinh 護念清淨, hai chữ thanh tịnh 清淨, nghi dư. Vì nó chỉ trạng thái thiền thứ tư, được nói sau đó.Cf. Pāli: yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti upekkhako satimā sukhavihārī, điều mà các Thánh nói là vị ấy an trú lạc cùng với xả, niệm.

[379] Hán: hộ niệm thanh tịnh 護念清淨. Pāli: upekkhā sati parisuddhaṃ catutthajjhānaṃ, thiền thứ tư thanh tịnh với xả và niệm.

[380] Xem cht. 32 trên.

[381] Để bản: phục hỷ 復喜. TNM: ưu hỷ 憂喜.

[382] Hán: Niết-bàn chứng. Pāli: nibbānassa sacchikiriyā.

[383] A-luyện-nhã 阿練若; Pāli: arañña, núi rừng nhàn tĩnh. Đay chỉ Tỳ kheo a-lan-nhã (Pāli: āraññaka: lâm trụ giả), một trong 12 hạnh đầu-đà (Pāli: 13), suốt đời chỉ sống trong rừng.

[384] Khất thực 乞食, đây chỉ tỳ kheo đàu-đà, sốt đời chỉ khất thực, không ăn tại nhà tín thí mời. Pāli: piṇḍapātika.

[385] Độc tọa 獨坐. Chưa rõ hành thế nào. Có lẽ Pāli: ekāsanika: nhất tọa, một lần ngồi, nghĩa là chỉ ăn trong một lần ngồi (Visuddhimagga: ekāsane bhojanaṃ ekāsnaṃ).

[386] Nhất tọa nhất thực 一坐一食. Có thể Hán nhầm lẫn. Đây chỉ tỳ kheo khất thực theo thứ tự từng nhà, nghĩa là chỉ nhận thức ăn khất thực từ một nhà duy nhất cho một ngày. Pāli: sapadānacārika.

[387] Tọa thọ hạ 坐樹下, suốt đời sống dưới gốc cây. . Pāli: rukkhamūlika

[388] Lộ tọa 露坐, suốt đời sồng giữ trời trống. Pāli: abbhokāsika.

[389] Không nhàn xứ 空閑處, từ Hán thường dùng dịch từ a-lan-nhã (Pāli: āraññaka), đã nói trên kia.

[390] Ngũ nạp y 五納衣, đây chỉ tỳ kheo trì y phấn tảo, suốt đời chỉ lượm vải từ đống rác làm y. Pāli: paṃsukūlika.

[391] Trì tam ý 持三衣. Pāli: tecīvarika.

[392] Trũng gian tọa. tỳ kheo suốt đời chỉ sộng tại các bãi tha ma. Pāli: sosānika.

[393] Nhất thực 一食, trùng với nhất tọa nhất thực nói trên. Có sự nhầm lẫn trong bản Hán. Có lẽ tương đương Pāli: (eka)pattapiṇḍika, ăn chỉ lượng một bát, tức tiết chế sự ăn (tiết lượng thực). Bản Hán dọc là ekabhatta (nhất thực) thay vì ekapatta (nhất bát).

[394] Chánh trung thực; điều này có thể trùng với ăn ngày một bữa duy nhất. Có lẽ Pāli: khalupacchābhattika, không ăn thêm cái gì sau khi ăn xong. Được hiểu là tỳ kheo khi có dấu hiệu ăn xong, dù chưa no, vẫn không ăn thêm nếu ai mang thêm đồ ăn. Tỳ kheo nào cần ăn thêm, phải làm páp dư thựchay tàn thực; Tứ phần, ba-dật-đề 33; Ngũ phần, 35; Tăng-kỳ, 33; Thập tụng, 34; Pāli, pācittityā 35.

[395] Đàu-đà hành 頭陀行. Pāli: dhutaṅga.

[396] Đoạn trên, 12 đầu-đà hành, theo các kinh luận Đại thừa. Hữu bộ tỳ-nại-da, Giải thoát đạo luận, và Luật tạng Pāli, liệt kê 13 hành. Liệt kê theo Pāli, Vin. v. 131, 193: 1. āraññika, lâm trụ, chỉ sống trong rừng. 2. piṇḍapātika, thường hành khất thực. 3. paṃsukūlika, phấn tảo y. 4. rukkhamūlika, chỉ ngồi dưới gốc cây. 5. sosānika, chỉ nghỉ tại các bài tha ma. 6. abbhokāsika, chỉ ngồi giữa trời trống. 7. tecīvarika, chỉ thọ trì ba y. 8. sapadānacārika, khất thực tuần tự. 9. nesajjika, thường ngồi không nằm. 10. yathāsanthatika, tùy ngọa cụ, không chọn lựa. 11. ekāsanika, nhất tọa thực, ăn một bữa, nếu đứng dây, không ngồi ăn trở lại. 12. khalupacchābhattika, sau khi đã ăn, không ăn thêm (dù chưa quá trưa). 13. pattapiṇḍika, nhất bát thực.

[397] Xem Tạp (Việt), 41. Tương ưng Đại Ca-diếp.

[398] Nhất xứ nhất tọa一處一坐…, có lẽ nhất tọa (thực), nhưng Hán dịch diễn giải thêm dễ lạc mất nghĩa chính. Xem kinh số 5 trên.

[399] Bà-la-lưu-chi 婆羅留支, Skt. Vāraluci (?), Hán dịch: Chiết Chỉ 折指, Vô Chỉ 無指; tên hiệu của A-xà-thế (Pāli: Ajātasattu), theo truyền thuyết phương Bắc. Xem Pháp hoa Văn cú 4 (T34n1718, tr. 25c21). Pāli không thấy nói đến tên hiệu này. Xem Tạp (Việt), kinh 968: A-xà-thế con bà Tì-đề-hi, vua nước Ma-kiệt-đà. hằng ngày cùng đoàn thị tùng với năm trăm cổ xe đến chỗ Đề-bà-đạt-đa; hằng ngày đem năm trăm chõ đồ ăn cúng dường Đề-bà-đạt-đa.

[400] Để bản: Sư-lợi-la 師利羅. NTM: Lợi-sư-la. Không biết đọc thế nào là đúng.

[401] Bản Hán, hết quyển 5.

[402] Tu-la-đà 修羅陀. Pāli: Surādha (?); nhưng chắc khong phải Trưởng lão A-la-hán Surādha được nói trong S. iii. 80.

[403] Đáo thời khất thực, chỉ thường hành khất thực. Pāli: piṇḍapātika. kinh 5 phẩm 12.

[404] Hán: Nhất xứ nhất tọa 一處一坐, tức nhất tọa thực, ngày chỉ ăn một lần ngồi; một trong các hạnh đầu đà. Pāli: ekāsanika. Xem kinh 5 phẩm 12.

[405] Bồ-hô 蒲呼.

[406] Nội dung liên hệ, xem Trung kinh 216: Ái sinh. Cf. M. ii. 106.

[407] Cf. Trung kinh 216: Khi ái sanh thì cũng phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não. M 87 (R. ii. 106): piyajātikā sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā, sầu bi khổ ưu não phát sanh từ luyến ái.

[408] Nguyên Hán: ân ái phân biệt tiện thị khoái lạc 恩愛分別。便有快樂, có thể có sự nhầm lẫn trong bản dịch Hán, khiến lời Phật thành ngây ngô, nếu không phải do thuật lại bởi một người mất trí. Đây dựa theo bản Pāli thêm vào cho rõ nghĩa. Xem cht. 6 trên.

[409] Xem Trung kinh 216: : Phật nói ái sinh là khổ. Những con bạc này nói: ái sinh thì sung sướng. Pāli: piyajātikā hi ānandasomanassā: ân ái sinh thì có hỷ lạc (M.ii. 107).

[410] Cả Trung và Pāli đều không có chi tiết xua đuổi này. Có thể bản Hán này diễn dịch thêm tình tiết.

[411] Trúc Bác 竹膊; T26: Na-lợi-ương-già 那利鴦伽; Pāli: Nāḷijaṅgha.

[412] Nguyên trong bản: phạm chí 梵志. Thông thường, từ bà-la-môn, phiên âm từ brahmāṇa, chỉ giai cấp; từ phạm chí, phiên âm từ paribbajika, chỉ ngoại đạo xuất gia. Bản Hán này không phân biệt hai từ khác nhau, mà dùng lẫn nộn.

[413] Lưu-ly Vương tử 琉璃王子. T26: Tỳ-lưu-la Đại tướng 鞞留羅羅大將. Pāli: Viḍūḍabha-senapati.

[414] Theo sử liệu Pāli, Pasenadi có hai con trai, một là Viḍūḍabha sau này cướp ngôi, và một nữa là Brahmadatta, xuất gia, thành A-la-hán. Hình như còn một người nữa là vương tử Kỳ-đà (Jetakumāra), chủ của khu vườn Kỳ-hoàn, sau bị Viḍūdabha giết. Không rõ Y-la 伊羅 đồng nhất với ai. Hoặc giả đây là con gái vua, tên là Vajirā, tức vương nữ mà bản Hán đọc thành vương tử?

[415] Tát-la-đà sát-lợi chủng 薩羅陀剎利種. T26: Vũ Nhật Cái 雨日蓋. Pāli: Vāsabhā-khattiā, một phu nhân khác của Panesadi, gốc họ Thích.

[416] Tham chiếu, Pāli, S. 22. 1. Nakula (R iii. 1); Hán, Tạp 5 T99 (107, tr. 33a6).

[417] Quỷ lâm Lộc viên 鬼林鹿園. T99: Lộc dã thâm lâm 鹿野深林. Pāli: Bhesakaḷāvane migadāya.

[418] Thi-mục-ma-la 尸牧摩羅. T99: Thiết-thủ-bà-la 設首婆羅. Pāli: Susumāragira

[419] Bạt-kỳ 拔祇; T99: Bà-kỳ 婆祇. Pāli: Bhagga.

[420] Na-ưu-la Công 那憂羅公. T99: Na-câu-la 那拘羅. Pāli: Nakulapitā.

[421] Để bản: tâm 心. Nên sửa lại là thân.

[422] Thâm chiếu, Pāli: M. 7 Vatthūpama (R. i. 36); Hán: Trung kinh 93; T99(1185), T100(99).

[423] Giang Trắc 江側. Có lẽ từ mô tả chứ không phải tên riêng. Cuối kinh, tên ông được gọi là Tôn-đà-la-đế-lợi. T26: Thủy Tịnh 水淨.

[424] Điệu hý.

[425] Trung kinh 93: 21 tâm uế. So sanh Pāli, M. 7: abhijjhavisamalobho (tham lam và bất chánh tham), vyāpādo (sân), kodho (phẫn nộ), upanāho (oán hận), makkho (phú tàng hay ngụy thiện), palāso (não hay ác ý, ác cảm), issā (tật đố), macchariyam (xan hay bỏn sẻn), māyā (cuống hay huyễn hoặc), sāṭheyyam (siểm hay gian trá), thambho (ngoan cố hay ngạo mạn), sārambho (cấp tháo hay dễ kích động), māno (mạn), atimāno (quá mạn), mado (kiêu hay say sưa), pamādo (phóng túng hay buông lung). Bản danh sách đầy đủ và giải thích chi tiết, xem Pháp uẩn 9 (tr.494c).

[426] Đây nói về Phật bất hoại tịnh, tức tín tâm bất động đối với Phật (Pāli: buddhe aveccappasādena samannāgato).

[427] Thành tựu pháp bất hoại tịnh, tín tâm bất động đối với Pháp của Phật. (Pāli: dhamme aveccappasādena samannāgato).

[428] Pháp pháp thành tựu 法法成就; tức pháp tùy pháp hành, hành pháp theo thuận tự của pháp. Pāli: dhammānudhammapaṭipanna.

[429] Với tâm định tĩnh.

[430] Tôn-đà-la giang 孫陀羅江. Trung kinh 93: sông Đa thủy多水河. Pāli: bāhukā nadī, có lẽ từ chung, chỉ nhiều sông chứ khong phải một sông.

[431] Tôn-đà-la-đế-lợi 孫陀羅諦利. Pāli: Sundarikabhāradvāja.

[432] Pāli, S.11.2.6 Yajamāna (R i.233).

[433] Hán: phước hựu nghiệp. Cf. Pāli: yajamānānaṃ manussānaṃ, puññapekkhāna pāṇinaṃ, loài người ưa tế đàn, chúng sinh mong phước đức.

[434] Bốn đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và a-tu-la. Nhưng S. 11. 2. 6: cattāro ca paṭipannā, cattāro ca phale ṭhitā, những vị đang hướng bốn đạo, và những vị an trú trong bốn quả.

[435] Nhập 入, hay xứ. Pāli: āyatana.

[436] Ba-giá-tuần 波遮旬; Pāli: Pañcasikha, Ngũ Kế Càn-thát-bà, vị thần âm nhạc của Thiên đế Thích.

[437] Thiện Nghiệp 善業, chỉ ngài Tu-bồ-đề.

[438] Tứ lưu, chỉ bốn bộc lưu: dục, hữu, kiến và vô minh. Pāli, cattāro oghā: kāmogho, bhavogho, diṭṭhogho, avijjogho.

[439] Bản Hán, hết quyển 6.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567