Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Tổ đình Sắc tứ Hội Phước, Nha Trang

15/11/202217:00(Xem: 2947)
26. Tổ đình Sắc tứ Hội Phước, Nha Trang

TỔ ĐÌNH SẮC TỨ HỘI PHƯỚC

 

         Tổ đình Sắc tứ Hội Phước, còn được gọi với tên dân gian gần gũi là Chùa Cát, tọa lạc tại 153/2 đường Hoàng Văn Thụ, phường Phương Sài, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

 

         Ngày xưa, chùa ở trên đồi Hoa Sơn (Núi Một) với tên là Phước Am, do Tổ Phật Ấn và Tịch Viễn khai sáng năm 1680, là một trong những chùa cổ nhất ở tỉnh Khánh Hòa.

         Hai Ngài Phật Ấn và Tịch Viễn thuộc Thiền phái Lâm Tế, dòng Đạo Mân-Mộc Trần và dòng Trí Thắng Bích Dung, đời thứ 35. Ban đầu, hai Ngài dựng một am tranh để tu hành và đặt tên là Phước Am.

         Đến năm 1742, ngài Đại Thông (Tổ thứ tư) đã dời chùa xuống đất bằng, cách đồi Hoa Sơn khoảng 500m đường chim bay về hướng Bắc, trên một bãi cát mênh mông nên người dân thường gọi là Chùa Cát. Sau, chùa được đổi tên, an danh là Hội Phước.

          Cùng với chùa Hải Đức vào thời kỳ xa xưa đó, hai ngôi chùa nằm hai bên con lộ nhỏ chạy cắt ngang qua, được người Pháp đặt tên là “Rue des deux Pagodes”, có nghĩa là "đường Hai Chùa" (sau năm 1975, đường đổi tên thành Tô Vĩnh Diện).

        Năm 1940, Tổ đình được sắc phong “Sắc tứ Hội Phước tự” năm Bảo Đại thứ 15.

        Sau hơn 340 năm xây dựng và phát triển, Tổ đình được truyền thừa qua các đời Tổ Sư trụ trì:

Tổ thứ 3: Tế Điền - Như Bổn (1716-1741),

Tổ thứ 4: Đại Thông - Chánh Niệm (1741-1810),

Tổ thứ 5: Đạo An - Phổ Nhuận (1810-1841),

Tổ thứ 6: Tánh Minh - Trí Quang (1841-1853),

Tổ thứ 7: Như Huệ - Thiền Tâm(1895-1905),

Tổ thứ 8: Thanh Minh- Huệ Châu (1905-1914),

Tổ thứ 9: Chơn Hương- Thiên Quang (1915-1917).

Tổ thứ 10: Thanh Chánh – Phước Tường (1917-1920), bổn sư của Bồ tát Thích Quảng Đức.

Tổ thứ 11: Thị Thọ - Nhơn Hiền (1920-1929),

Tổ thứ 12: Ấn Ngân - Tín Thành (1929-1949),

Tổ thứ 13: Đồng Kỉnh - Tín Quả (1949-1978).

       Năm 1977, Ngài Đồng Kính - Tín Quả chính thức truyền cử thầy Chúc Thọ kế thế trụ trì, qua năm 1978 thì Ngài viên tịch.

      Thầy Chúc Thọ - Quảng Thiện trụ trì từ năm 1978 đến nay.

 

        Chùa Hội Phước trải qua các cuộc trùng tu: Ngài Tánh Minh – Trí Quang trùng tu vào nửa đầu thế kỷ XIX, Ngài Phước Tường trùng tu vào năm 1917,  Hoà thượng Chúc Thọ - Quảng Thiện có công lớn trong việc đại trùng tu qua thời gian hơn 30 năm kể từ năm khởi công 1994.

        Sau bao biến đổi thăng trầm, đất chùa ngày xưa đã thu hẹp lại do bị lấn chiếm bởi dân cư ngày càng đông đúc, cổng tam quan hai tầng mái của chùa hiện nay nằm sâu vào bên trong một con hẻm hẹp, nhà chùa phải dựng một cổng chào phía ngoài mặt tiền đầu hẻm. Qua cổng tam quan vào sân là chiêm bái được tôn tượng đức Quán Thế Âm lộ thiên, phía sau kế tiếp là hai bên dãy nhà Đông, nhà Tây, ở giữa là ngôi Chánh điện tạo thành hình chữ U. Ngôi bửu điện 3 tầng: tầng trệt là Tổ đường thờ chư Tổ và chư vị trụ trì qua các đời; tầng 2 là Chánh điện thờ Đức Bổn Sư Thích Ca ở giữa, nhị vị Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí hai bên tả hữu, phía trước thiết đặt hương án thờ dức Phật A Di Đà tĩnh toạ kích cỡ nhỏ với nhị vị Hộ Pháp đứng hầu hai bên, ngoài ra còn có hương án tôn trí hai tượng lớn của Tiêu Diện Đại Sĩ và Vi Đà Hộ Pháp trấn hai bên bên trong cửa chính của điện; tầng 3 là cổ lầu thờ đức Phật A Di Đà, và tôn trí pho tượng Phật Di Lặc ở phía mặt trước hướng ra cổng tam quan.

         Nằm ở góc phải trong khuôn viên chùa là ngôi "Bảo Tháp Liên Hoa" với 7 tầng được hoàn thành vào năm 1997 thờ xá lợi (linh cốt) của chư lịch đại Tổ sư được cung di từ các bảo tháp xưa an trí trong đất chùa, cũng như nằm xen lẫn giữa nhà dân nhập về an vị nơi trang nghiêm trường tồn, là ngôi bảo tháp đầu tiên và cao nhất nằm trong lòng thành phố Nha Trang. Tầng trệt của bảo tháp có thiết đặt hương án thờ thánh tượng của Quan Công, là pho tượng của các đời Tổ xưa truyền lại.

         Tổ đình Sắc tứ Hội Phước hiện còn lưu giữ nhiều tượng Phật quý và chuông cổ từ thời Hậu Lê và Minh Mạng, cùng các pháp khí cổ như:

         - Chuông báo chúng được chú tạo vào năm Nhâm Tuất, Gia Long nguyên niên (1802), cao 0,63m, đường kính ở miệng chuông là 0,25m.

         - Chuông báo chúng không rõ niên đại, có khắc chữ nổi “Hội Phước Tự Thọ”, với chiều cao 0,62m, đường kính ở miệng là 0.6m. Trên chuông có 2 mặt trượng trưng cho ngày và đêm và điêu khắc nổi theo hình lưỡng nghi.

         - Đại hồng chung được Tổ Đạo An - Phổ Nhuận chú tạo vào năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 3 và Tổ Như Huệ-Thiền Tâm tái tạo vào năm Nhâm Dần, niên hiệu Thành Thái thứ 14 (1902), với chiều cao 1,15m, đường kính ở miệng chuông là 0,5m.

         - Văn bản đồng có kích thước 0.41m x 0.41m có khắc chữ Phạn-đàn, không ghi năm chú tạo nên chưa xác định được niên đại.

         - Bảng hiệu chùa được sắc phong năm Canh Thìn, niên hiệu Bảo Đại thứ 15 (1940), với kích thước 1,98m x 0,80m, giữa bảng ghi “Sắc tứ Hội Phước tự”, hàng chữ bên trái ghi “Lễ công bộ đại thần Tôn Thất Quảng nhật tạo”, hàng chữ bên phải ghi: “Bảo Đại thập ngũ niên, kiết nguyệt nhật tạo”.

         Ngoài ra, chùa còn bảo tồn được một số “Chánh pháp Nhãn tạng” của chư Tổ sư lâu đời, như:

-       Tổ Đạo An-Phổ Nhuận phó chúc cho Tổ Tánh Lý-Trí Minh kế thế trụ trì chùa Linh Sơn (tức chùa Tân Long) ở Diên Khánh.

-       Tổ Hải Hội phó chúc cho Tổ Thanh Minh- Huệ Châu.

-       Tổ Chơn Hương phó chúc cho Tổ Đồng Kỉnh- Hoằng Đạo.

-       Tổ Phước Tường phó chúc cho Tổ Nhơn Hiền- Thị Thọ.

-       Tổ Nhơn Hiền phó chúc cho Tổ Chúc Nghiêm-Tín Liên.

-       Tổ Nhơn Hiền phó chúc cho Tổ Đồng Kỉnh-Tín Quả.

-       Tổ Đồng Kỉnh- Tín Quả phó chúc cho Hoà thượng Quảng Thiện- Chúc Thọ.

… cùng một số Chánh pháp Nhãn tạng khác đều còn nguyên vẹn, rõ chữ rõ danh.

 

         Qua bao đời của chư Tổ, pháp môn chủ đạo Thiền-Tịnh-Mật được truyền đạt và hành trì miên mật, vận dụng hiệu quả để đối trị với các căn bệnh về tâm linh mang tính huyền bí, mang lại sự an lành cho cuộc sống, làm cho biết bao người tín thành gần xa tìm đến được giải nghiệp cho thân hết tật bệnh, tâm được bình an, nên ngôi chùa như một đàn tràng giải nghiệp oan khiên. Với đạo hạnh và năng lực của mình, chư Tổ bao đời đã làm lợi lạc cho đời và tạo mối quan hệ thân thiết giữa đạo và đời, qua từng năm tháng, qua từng đời trụ trì, thiện nam tín nữ khắp nơi đã về Tổ đình Hội Phước để quý kính phụng sự Tam Bảo, xin thế phát xuất gia tu học, cũng như xin quy y thọ tam quy ngũ giới, trở thành những người cọn Phật thuần thành dưới sự hộ trì và hướng dẫn tu tập của chư Tổ chư Tăng.

        Đặc biệt nhất, Chùa Cát trở thành cái nôi gìn giữ sự bình an cho hàng nghìn, hàng vạn trẻ em khó nuôi từ khắp nơi được các bậc phụ huynh mang đến chùa để thỉnh cầu chư Tăng hộ trì kinh chú, cho trẻ được nghe tiếng chuông chùa truyền âm vào tâm thức mà giải trừ bớt nghiệp chướng…

        Năm 1995, Chùa được Bộ Văn hóa công nhận là "Di tích Lịch sử Văn hóa cấm xâm phạm”!

 

Tâm Không Vĩnh Hữu

 



chua hoi phuoc  (1)chua hoi phuoc  (2)chua hoi phuoc  (3)chua hoi phuoc  (4)chua hoi phuoc  (5)chua hoi phuoc  (6)chua hoi phuoc  (7)chua hoi phuoc  (8)chua hoi phuoc  (9)chua hoi phuoc  (10)chua hoi phuoc  (11)chua hoi phuoc  (12)chua hoi phuoc  (13)chua hoi phuoc  (14)chua hoi phuoc  (15)chua hoi phuoc  (16)chua hoi phuoc  (17)chua hoi phuoc  (18)chua hoi phuoc  (19)chua hoi phuoc  (20)chua hoi phuoc  (21)chua hoi phuoc  (22)chua hoi phuoc  (23)chua hoi phuoc  (24)chua hoi phuoc  (25)chua hoi phuoc  (26)chua hoi phuoc  (27)chua hoi phuoc  (28)chua hoi phuoc  (29)chua hoi phuoc  (30)chua hoi phuoc  (31)chua hoi phuoc  (32)chua hoi phuoc  (33)chua hoi phuoc  (34)chua hoi phuoc  (35)chua hoi phuoc  (36)chua hoi phuoc  (37)chua hoi phuoc  (38)chua hoi phuoc  (39)chua hoi phuoc  (40)chua hoi phuoc  (41)chua hoi phuoc  (42)chua hoi phuoc  (43)chua hoi phuoc  (44)chua hoi phuoc  (45)chua hoi phuoc  (46)chua hoi phuoc  (47)chua hoi phuoc  (48)chua hoi phuoc  (49)chua hoi phuoc  (50)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/09/2020(Xem: 4290)
Chùa Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Hộ Thành (sông Gia Hội) số 110 Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa có diện tích hơn 10.000m2. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi. Đây là nơi Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời vào ngày 16/6/1807. Năm 1841, Hoàng tử lên ngôi vua ở kinh thành Huế, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
07/09/2020(Xem: 6731)
Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long (trên đất làng Thụy Lôi xưa, gần xóm Lịch Đợi), đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong (du tăng người Quảng Đông, Trung Quốc) dựng vào cuối thế kỷ 17, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714. Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc Chúa Nam Hà. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán. Kế thế trụ trì là các ngài Tế Ân, Trí Hải, Đại Trí …
05/09/2020(Xem: 7073)
Chùa Giác Lâm tọa lạc tại số 02 kiệt 56 đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nguyên là một thảo am do Tổ Giác Hải, người làng Trung Kiên, tỉnh Quảng Trị khai sáng vào ngày 16 tháng 3 năm Đinh Dậu (1897) trên một triền đồi, dưới chân núi Ngự Bình, đặt tên Duy Tôn Tự để truyền bá chánh pháp, đem đạo Phật phổ hóa vào những nơi xa xôi, hẻo lánh. Tổ có thế danh là Nguyễn Văn Cẩm, sinh trưởng trong một gia đình tín tâm với đạo Phật. Ngài là đệ tử của Tổ Tâm Tịnh, khai sáng Tổ đình Tây Thiên, Huế. Ngài có pháp danh là Trừng Nhã, tự Chí Thanh, hiệu Giác Hải.
30/08/2020(Xem: 5046)
Chùa Thiên Mụ thường gọi là chùa Linh Mụ, tọa lạc trên đồi Hà Khê, đường Nguyễn Phúc Nguyên, xã Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nằm ở bờ bắc sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế 5km. Sách Ô Châu cận lụccủa Tiến sĩ Dương Văn An cho biết chùa Thiên Mụ ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông. Chùa được chúa Tiên - Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu chùa khang trang. Năm 1695, Thiền sư Thạch Liêm, người Trung Quốc, được chúa Nguyễn mời làm trụ trì chùa. Từ chùa Thiên Mụ và chùa Khánh Vân (Huế), Ngài đã truyền bá Thiền phái Tào Động ở đàng Trong.Hòa thượng Thạch Liêm đã tả cảnh chùa Thiên Mụ: “Đêm 15 trời mưa, ra đến chùa Thiên Mụ. Chùa này tức Vương phủ ngày xưa (?) chung quanh có trồng nhiều cây cổ thụ, day mặt ra bờ sông; trước chùa ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo …” (1)
29/08/2020(Xem: 4218)
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang thường được gọi là Chùa Sắc Tứ,Tịnh Quang Tự, Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang, tọa lạc ở thôn Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa là một trong những ngôi tổ đình được xây dựng sớm và có ảnh hưởng lớn Phật giáo xứ Đàng Trong. Chùa ban đầu có tên là Am Tịnh Độ. Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam(1) cho biết chùa do Hòa thượng Tu Pháp, tự Chí Khả khai sáng vào năm 1739 đời Vua Lê Ý Tông (năm thứ hai đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát) với tên là Tịnh Nghiệp Tự. Đến đời Vua Gia Long, vua ban tên gọi là Tịnh Quang Tự. Chùa được trùng tu năm Minh Mạng thứ 21 (1941).
23/08/2020(Xem: 4630)
Hôm nay con có vài lời tâm nguyện thỉnh mời quý Ngài cùng chư Phật tử hoan hỷ cho con được trình bày tâm nguyện của mình. Con xin được giới thiệu bản thân. Con tên là Nguyễn Thị Dân, Pháp danh Nguyên Hương, pháp tự Giới Huyền, sinh năm 1975, tại Đà Nẵng, Việt Nam. Con xuất gia năm 1996 tại chùa Quang Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Con thọ Đại giới năm 2004, tốt nghiệp Trung Cấp Phật Học Đà Nẵng năm 2004, sau đó con lên đường du học tại Đài Loan, năm 2010, con đã tốt nghiệp Phật Học Viện Viên Quang (Đài Loan) và tốt nghiệp Phật Học Viện Pháp Cổ Sơn Đài Loan vào năm 2014. Cối năm 2014, con có duyên dành đến Úc tu học và đóng góp công quả tại Thiền Viện Bồ Đề Brisbane (theo diện working visa) cho đến năm 2018. Sau đó con có thắng duyên lên tu học cùng với quý Phật tử chùa Phật Giáo Quốc Tế, Darwin, Bắc Úc từ năm 2018 đến nay.
19/08/2020(Xem: 3648)
Chùa Hoằng Phúc tọa lạc ở thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Chùa còn gọi là Chùa Trạm hay Chùa Quan. Chùa cách trung tâm huyện Lệ Thủy 4 km, cách Quốc lộ 1A 3 km. Trang web: chuahoangphuc.com có bài: “Chùa Hoằng Phúc Quảng Bình ‘VÔ SONG PHÚC ĐỊA’ có niên đại hơn 700 năm” cho biết chùa có từ thời Trần, được xem là ngôi chùa cổ nhất miền Trung Việt Nam. Chùa được ghi nhận là nơi “vô song phúc địa” (đất phúc khôn sánh), khởi nguồn có tên là Am Tri Kiến. Văn bia ở chùa năm 2016 cho biết năm 1301, Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông trên đường du hóa Nam phương, dừng lại chọn lập am và quảng hoằng Phật pháp. Khi đó, am được gọi là “Am Tri Kiến” nghĩa là tự con người giác ngộ chân lý nhà Phật.
13/08/2020(Xem: 3536)
Thật có duyên rất lành mới có cơ hội cúng dường xây dựng chủa Viên Thông tại xã Cuôr Đăng, huyện M'gar Đăk Lăk, là một ngôi chùa duy nhất ở một xã có 3500 hộ trong đó 70% là dân tộc Eđê. Thầy Minh Hạnh là vị Thầy tu hành nghiêm túc với hạnh nguyện mang ánh sáng Tam Bảo đến với bà con dân tộc nghèo vùng cao nguyên. là một chú tiểu khi lên chín tuổi, vượt qua tuổi vị thành niên, rồi thanh niên với nhiều chướng ngại mà cả chục chú tiểu chỉ còn 1 hoặc 2 thật khả ý, khả ái với Tam Bảo, với lời dạy của Thế Tôn mới có thắng chính mình, thọ đại giới tỳ kheo, thành vị sa môn đích thực trong giáo pháp của Như Lai. Thầy Minh Hạnh năm nay 38 tuổi, như vậy đã 28 năm theo Phật, theo Tam Bảo rồi. Với 14 năm hành đạo (cũng là tu đạo) ở xã Cuôr Đăng, Thầy Minh Hạnh an trụ trong hạnh nhẫn nhục với tâm nguyện kiên cố mới có những thành quả khá tốt như ngày nay. Những năm đầu, chính quyền nơi đây không cho tụng kinh gõ mõ, không một ai nơi đây biết đến Tam Bảo. Nay hàng ngày đều có 15-20 Phật tử đều đ
03/08/2020(Xem: 4463)
Chùa Đại Tuệ có tên gọi khác là chùa Cao, chùa Đại Huệ, tọa lạc ở xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chùa nằm trên đỉnh cao nhất của núi Đại Huệ, còn gọi là Phong Vân Sơn, ở độ cao 450m so với mực nước biển, có diện tích 20 hecta. Theo truyền thuyết, chùa được vua Mai Hắc Đế cho xây dựng từ năm 713.
31/07/2020(Xem: 3813)
42 năm! Con số của thời gian vụt trôi... Năm 1977, tôi tình nguyện đăng ký đi Thanh Niên Xung Phong lúc tuổi 17 "bẽ gãy sừng... bò tót", gia nhập đội ngũ áo xanh, nón tai bèo, thuộc A1, B1, Tiểu Đoàn TNXP Đất Sét. Đóng quân tại Đất Sét 1. Đất Sét! Vùng KInh Tế Mới "quyện theo nước dòng Sông Chò" và "dưới chân Hòn Dữ đêm đêm tỏa sương mờ"... Cuối năm 1978, tôi rời Đất Sét, chuyển vùng ra KTM Nhiễu Giang ngoài Phú Yên, nhủ lòng "một về không trở lại"... Quay lại làm chi nữa?Có gì đâu để mình phải quay lại? Tưởng là vậy sau hơn 40 năm, hơn nửa đời người, nhưng không ngờ, sáng nay, tôi lại chuẩn bị lên đường quay trở lại vùng đất hoang vu ma thiêng nước độc năm xưa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567