Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

36. Chùa Thiên Bình, xã Cam Tân, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hoà.

30/10/202319:41(Xem: 1988)
36. Chùa Thiên Bình, xã Cam Tân, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hoà.

 

Chùa Thiên Bình khởi sắc

 

        Chùa toạ lạc tại thôn Phú Bình 2, xã Cam Tân, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hoà.

        Khai sơn lập tự là Tổ Từ Ân (1886-1967), huý Đồng Trí, tự Thông Huệ. Ngài vốn là đệ tử thế phát quy y, xuất gia học đạo nơi Hoà thượng Thích Quảng Đức tại chùa Sắc tứ Thiên Ân ở thôn Phước Thuận, xã Ninh Đông, huyện Ninh Hoà vào năm Ngài 40 tuổi (Ất Sửu 1925).

        Năm Quý Mùi 1943, Ngài được Bổn sư cho phép vân du hành đạo, từ Ninh Hoà vào đến vùng đất Phú Bình – Bầu Đầm thuộc xã Suối Tân, tổng Hiệp Cát, huyện Vĩnh Xương (nay là xã Cam Tân, huyện Cam Lâm) thì dừng chân nghỉ ngơi. Chính trong thời gian này, nhân duyên đưa đẩy cho Ngài gặp gia đình kính tín Tam Bảo là ông Trần Đình Mộng và bà Nguyễn Thị Hoà cùng các con thỉnh Ngài về tư gia cầu pháp, xin quy y thọ giới toàn gia, đồng thời phát tâm cúng dường 4 sào ruộng, cùng 1 mẫu 4 đất thổ phát nguyện xây cất chùa.

        Sau một thời gian thi công, một ngôi chùa tranh vách đất tươm tất đã được dựng lên trên mảnh đất thổ cư với đầy đủ pháp cụ, pháp khí hoàn mỹ trang nghiêm, Ngài Từ Ân được cung thỉnh nhập tự và làm lễ khánh tạ, đặt tên chùa là Thiên Bình. Từ thời điểm đó, những người dân quê chất phác hiền hậu quanh vùng đã về nơi chốn tôn nghiêm để xin thọ giới quy y Tam Bảo với vị trụ trì đầu tiên của ngôi “Chùa Làng” ngày càng đông, phải đến hết một nửa dân số của làng Phú Bình đã thọ tam quy ngũ giới chính thức trở thành phật-tử (làng của thời xưa cũ đến nay đã được chia tách thành 2 làng Phú Bình 1&2)!

        Chiến tranh, loạn lạc…

        Năm Mậu Tý 1948, dân chúng phải dời khỏi làng Phú Bình để tập trung ở làng dưới khi giặc Pháp xua đuổi, tàn phá cửa nhà và đình chùa, vị trụ trì phải trở về lại Ninh Hoà. Bà con phật-tử khi di cư đã gìn giữ bảo quản những pháp cụ pháp khí của chùa, riêng chiếc đại hồng chung thì thả giấu dưới giếng, cho đến sau này tình hình ổn định (vào năm 1954) thì cùng nhau về lại làng cũ để dựng lại chùa tranh vách đất trên 3 sào đất do gia đình ông Phạm Khôi và bà Nguyễn Thị Lý hiến cúng.

        Trong thời gian điêu linh loạn lạc đó, Ngài Từ Ân đã về lại ngoài Ninh Hoà để xây dựng lại ngôi chùa mang tên Lạc Sơn, cắt cử người cháu ở lại Phú Bình với bà con phật-tử để duy trì Phật pháp, lo cúng kiếng lễ bái. Bà con phật-tử cùng các vị hào lão và những vị tín chủ đã phát tâm xây dựng lại ngôi chùa làng Thiên Bình với tường gạch mái ngói trang nghiêm. Giám tự vào thời gian này là người cháu của Ngài Từ Ân, đã thọ giới tỳ-kheo với pháp tự là Thích Pháp Thân (viên tịch năm Giáp Thân 2004).

        Vào năm Kỷ Hợi 1959, Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, do nhu cầu Phật sự quá cấp thiết, Ngài được Phật Học Viện đề cử vào trụ trì chùa Thiên Bình. Sau một thời gian, Ngài được Phật Học viện Trung phần gọi về tham gia công tác quản lý.

         Khi Giáo hội Thống nhất cơ cấu tổ chức Phật Học Viện toàn quốc, Ngài được đề cử giữ chức vụ Giám sự Phật Học Viện Hải Đức, đồng thời được mời giữ chức Giám viện Phật Học Viện Sơ đẳng Linh Sơn, (Chùa Linh Sơn Pháp Bảo, thôn Phú Nông, xã Vĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang), nên đã không trở lại chùa Thiên Bình nữa.


chua thien binh (1)chua thien binh (2)chua thien binh (3)chua thien binh (4)chua thien binh (5)chua thien binh (6)chua thien binh (7)chua thien binh (8)chua thien binh (9)chua thien binh (10)chua thien binh (11)chua thien binh (12)chua thien binh (13)chua thien binh (14)chua thien binh (15)chua thien binh (16)chua thien binh (17)chua thien binh (18)chua thien binh (19)




        Năm 1960, các vị hào lão và phật-tử đã ra đến Ninh Hoà, đến chùa Sắc Tứ Thiên Ân trình nguyện vọng lên Hoà thượng trụ trì để xin cung thỉnh Ngài Từ Ân vào lại trụ trì chùa Thiên Bình. Ngài Từ Ân được Hoà thượng Bổn Sư cho phép đã vào hành đạo, hoằng pháp một thời gian, rồi ra lại chùa Lạc Sơn để tiếp tục lo Phật sự. Đến năm 1965, Ngài Từ Ân trở vào lại với chùa Thiên Bình đã hoàn mãn ngôi Chánh điện khang trang, Ngài đã không ngừng hoằng pháp lợi sanh khi tuổi cao sức yếu. Đến năm 1967, vị trụ trì đầu tiên của chùa Thiên Bình thâu thần thị tịch vào giờ Ngọ ngày 13 tháng 3 năm Đinh Mùi, hưởng thọ 81 tuổi, với 42 tuổi đạo, được Giáo Hội Tỉnh Khánh Hoà tấn phong Thượng Toạ. Sau này, theo di nguyện của Ngài Từ Ân, chúng đệ tử đã cải táng cung thỉnh di cốt của Ngài nhập bảo tháp được xây dựng trong khuôn viên chùa với sự chứng minh của chư tôn đức GHPGVN Huyện Cam Lâm và chùa Phổ Thiện vào năm 1998.

        Kể từ khi Ngài Từ Ân viên tịch, chùa Thiên Bình không có vị trụ trì, bà con phật-tử luân phiên nhau chăm nom hương đăng, gìn giữ ngôi Tam Bảo trong thời gian dài, có nhiều vị Tăng đến an trú hành đạo với cương vị giám tự, thủ tự một thời gian rồi cũng rời đi đến chùa khác, nên chỉ còn Ban Hộ Tự của làng là chính trong việc bảo tồn ngôi già lam.

        Vào năm 2008, Hòa Thượng Thích Minh Khai- Chánh Đại diện Phật giáo huyện Cam Lâm đã ký quyết định bổ nhiệm giám tự cho Thượng toạ Thích Tâm Niệm đang trụ trì Chùa Linh Sơn Pháp Ấn về kiêm nhiệm Chùa Thiên Bình. Lúc đó, ngôi chánh điện Chùa Thiên Bình đã xuống cấp trầm trọng, nhà cửa xung quanh tiêu điều cho nên Thượng toạ đã bắt tay vào công tác hướng dẫn phật-tử tu học, cũng từ đây Thầy bắt đầu làm sổ đỏ cho Chùa, cũng như việc xin giấy phép xây dựng ngôi Chánh điện để có nơi cho phật-tử tu học. Đó là một công tác Phật sự rất lớn, một công trình kiến trúc quan trọng mà Thượng toạ Thích Tâm Niệm đã phát đại nguyện hoàn thành viên mãn trong suốt thời gian giữ cương vị giám tự chùa Thiên Bình.

        Đến tháng tháng 7 năm 2022, Tỳ kheo Thích Đồng Tài, pháp hiệu Nghiêm Đức, được GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà bổ nhiệm trụ trì. Với đạo tâm kiên cố, tâm nguyện cao cả, cùng với sức trẻ xông xáo linh hoạt, Thầy đã nỗ lực trùng tu kiến thiết chùa Thiên Bình vốn đang tiêu điều vắng lạnh qua thời gian dài đã trở thành ngôi đại tự khang trang tú lệ. Các công trình quan trọng của chùa đều đã hoàn mãn như ngôi Bửu điện, Tổ đường, Cổng tam quan, khu Bảo tháp… trong niềm hoan hỷ của Tăng Ni và đông đảo phật-tử. Những công trình phụ còn đang nằm trên bản vẽ kế hoạch, rất cần được trợ duyên để ngôi già lam vùng quê qua từng năm tháng hoàn thiện.

        Đặc biệt, để có nguồn thu ổn định kinh tế cho sinh hoạt của chùa, Thầy trụ trì đã linh hoạt liên kết với Cơ sở Tượng Gỗ Phật giáo Thiên Phú Tài để cung ứng các sản phẩm tượng gỗ (phụng thờ cũng như trang trí) đến tất cả các tự viện khắp nơi có nhu cầu thỉnh những tôn tượng đạt chuẩn Chân Thiện Mỹ và giá cả hợp lý.

 

Tâm Không Vĩnh Hữu

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2020(Xem: 4758)
Chùa Thanh Xuân thuộc địa danh làng Thanh Xuân Xã Triệu An, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, nằm dọc duyên hải miền trung bờ nam biển Cửa Việt; cuối nguồn hai nhánh sông Thạch Hãn, Vĩnh Định đổ ra biển. Theo dân làng kể lại, đời tổ tiên ông bà xuất phát ra lập làng từ đời triều Nguyễn ở Huế, hai họ Phan, họ Trần theo dòng Vĩnh Định ra Quảng Trị xuôi nguồn về đây. Lập tên làng Thanh Xuân, trong đó Xuân là lấy lại từ nguồn gốc thành Phú Xuân, cũng như các làng Xuân Thành, Dương Xuân vậy.
15/09/2020(Xem: 12492)
Chùa tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt chùa quay hướng Nam. Bên trái chùa, có chùa Linh Quang và đền thờ cụ Phan Bội Châu. Chùa được Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung dựng vào cuối thế kỷ 17 tại ngọn đồi thấp Hoàng Long Sơn, có tên thiền thất Ấn Tôn. Năm Nhâm Thìn (1712), ngài Thiệt Diệu Liễu Quán, quê ở Phú Yên là đệ tử đắc pháp của Sơ tổ Minh Hoằng Tử Dung, được ngài truyền tâm ấn, trở thành đệ nhị Tổ. Ngài Thiệt Diệu Liễu Quán đã phát triển dòng thiền Lâm Tế cho đến ngày nay.
13/09/2020(Xem: 14044)
Thiền viện tọa lạc dưới chân núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1.450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ trung bình 200C, Bạch Mã là nơi có khí hậu mát mẻ, lý tưởng cho việc tu tập của Tăng, Ni, Phật tử và các chuyến tham quan, chiêm bái của du khách. Tên thiền viện lấy theo tên núi Bạch Mã. Chữ “Trúc Lâm” hàm ý đến dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và mang tính nhập thế.
11/09/2020(Xem: 4738)
Chùa Hà Trung tọa lạc ở làng Hà Trung, xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 50 km. Chùa được lập vào thời Hậu Lê, gắn với hành trạng Thiền sư Nguyên Thiều. Thiền sư từ Quảng Đông, Trung Quốc sang Quy Nhơn lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau ra Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu cử ngài đến trụ trì chùa Hà Trung. Ngôi chùa ngày nay được trùng tu năm 1995, đại trùng tu năm 2009. Trụ trì chùa là Hòa thượng Thích Chơn Tế (trụ trì chùa Tường Vân, Huế kiêm nhiệm), Tri sự là Đại đức Thích Quảng Huệ.
11/09/2020(Xem: 5510)
Thông Điệp Của Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu (Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN thân gởi Chư Tôn Đức Tăng Ni và Đồng Bào Phật tử Hải Ngoại)
09/09/2020(Xem: 5068)
Chùa Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Hộ Thành (sông Gia Hội) số 110 Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa có diện tích hơn 10.000m2. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi. Đây là nơi Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời vào ngày 16/6/1807. Năm 1841, Hoàng tử lên ngôi vua ở kinh thành Huế, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
07/09/2020(Xem: 8799)
Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long (trên đất làng Thụy Lôi xưa, gần xóm Lịch Đợi), đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong (du tăng người Quảng Đông, Trung Quốc) dựng vào cuối thế kỷ 17, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714. Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc Chúa Nam Hà. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán. Kế thế trụ trì là các ngài Tế Ân, Trí Hải, Đại Trí …
05/09/2020(Xem: 9248)
Chùa Giác Lâm tọa lạc tại số 02 kiệt 56 đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nguyên là một thảo am do Tổ Giác Hải, người làng Trung Kiên, tỉnh Quảng Trị khai sáng vào ngày 16 tháng 3 năm Đinh Dậu (1897) trên một triền đồi, dưới chân núi Ngự Bình, đặt tên Duy Tôn Tự để truyền bá chánh pháp, đem đạo Phật phổ hóa vào những nơi xa xôi, hẻo lánh. Tổ có thế danh là Nguyễn Văn Cẩm, sinh trưởng trong một gia đình tín tâm với đạo Phật. Ngài là đệ tử của Tổ Tâm Tịnh, khai sáng Tổ đình Tây Thiên, Huế. Ngài có pháp danh là Trừng Nhã, tự Chí Thanh, hiệu Giác Hải.
30/08/2020(Xem: 5950)
Chùa Thiên Mụ thường gọi là chùa Linh Mụ, tọa lạc trên đồi Hà Khê, đường Nguyễn Phúc Nguyên, xã Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nằm ở bờ bắc sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế 5km. Sách Ô Châu cận lụccủa Tiến sĩ Dương Văn An cho biết chùa Thiên Mụ ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông. Chùa được chúa Tiên - Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu chùa khang trang. Năm 1695, Thiền sư Thạch Liêm, người Trung Quốc, được chúa Nguyễn mời làm trụ trì chùa. Từ chùa Thiên Mụ và chùa Khánh Vân (Huế), Ngài đã truyền bá Thiền phái Tào Động ở đàng Trong.Hòa thượng Thạch Liêm đã tả cảnh chùa Thiên Mụ: “Đêm 15 trời mưa, ra đến chùa Thiên Mụ. Chùa này tức Vương phủ ngày xưa (?) chung quanh có trồng nhiều cây cổ thụ, day mặt ra bờ sông; trước chùa ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo …” (1)
29/08/2020(Xem: 5022)
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang thường được gọi là Chùa Sắc Tứ,Tịnh Quang Tự, Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang, tọa lạc ở thôn Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa là một trong những ngôi tổ đình được xây dựng sớm và có ảnh hưởng lớn Phật giáo xứ Đàng Trong. Chùa ban đầu có tên là Am Tịnh Độ. Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam(1) cho biết chùa do Hòa thượng Tu Pháp, tự Chí Khả khai sáng vào năm 1739 đời Vua Lê Ý Tông (năm thứ hai đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát) với tên là Tịnh Nghiệp Tự. Đến đời Vua Gia Long, vua ban tên gọi là Tịnh Quang Tự. Chùa được trùng tu năm Minh Mạng thứ 21 (1941).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]