Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Chùa Hải Ấn, Xã Vĩnh Phước, Thành Phố Nha Trang

10/02/202207:00(Xem: 5189)
06. Chùa Hải Ấn, Xã Vĩnh Phước, Thành Phố Nha Trang

CHÙA HẢI ẤN

 

        Chùa Hải Ấn còn được gọi là Chùa Hang, địa chỉ trước kia là Tổ 8 Song Thủy, nay là số 204 đường Ngô Đến, phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang.

       Năm 1968, Ni trưởng Thích Nữ Chánh Lượng, húy thượng Tâm hạ Hải, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 43,  đã mua lại khu đất đá rộng lớn ven chân núi Sạn, làng Cù Lao, khi nhận ra chính nơi đây đang sẵn có cảnh vật tĩnh mịch, địa thế phong quang, hòa hợp với núi sông mây gió thích hợp cho sự tu niệm và hoằng pháp lâu dài của người xuất gia, và bắt đầu tạo dựng một chốn già lam theo ý nguyện của mình.

        Đầu tiên, Ni trưởng lập một am thờ Phật ngay bên trong hang đá. Đây là một hang đá ăn sâu lên trên đỉnh núi, những bô lão sống quanh vùng kể rằng đó là hang cọp, sau này cọp đã bị săn đuổi bỏ đi, hang đã bị san lấp phía bên trên, Ni trưởng đã ở trong hang đá này suốt 2 năm liền. Hằng ngày, ngoài giờ tọa thiền, Ni trưởng còn trì tụng kinh Pháp Hoa, cứ mỗi chữ một lạy để cầu nguyện được lập nên một ngôi thiền tự. Năm 1971, được sự ủng hộ và khích lệ của tăng ni, đặc biệt là của Hòa thượng Thích Trí Thủ (Ngài đã viết giấy giới thiệu để Ni trưởng mở cuộc vận động quyên góp, và cũng là người đóng góp đầu tiên với số tiền 5.000 đồng), cũng như sự hưởng ứng đóng góp nhiệt thành của Phật tử, Ni trưởng đã khởi công xây dựng xong một ngôi chùa nhỏ, đặt tên là Hải Quang Tịnh Thất. Sau, nhân chuyến ghé thăm chùa, Hòa thượng Thích Trí Thủ đã đặt lại tên là Hải Ấn Tự. Từ đó, chùa chính thức mang tên là Hải Ấn, dân quanh vùng và Phật tử ở khắp nơi lại thường gọi bằng một cái tên gần gũi: Chùa Hang.

       

         Đặc biệt nhất là giếng nước trong khuôn viên chùa. Giếng nằm bên ngoài phía trước dãy nhà trù, trên một tảng đá xanh rì rất lớn, giữa nhưng cây mít thân to đã trên ba mươi tuổi. Những ngày đầu tạo dựng ngôi chùa, Ni trưởng đã cho đào một giếng nước, nhưng nước bị nhiễm mặn nên không sử dụng được, giếng này tuy đã được lấp kín nhưng đến nay vẫn còn lưu vết tích. Tất cả các giếng nước quanh vùng này đều lâm tình trạng chung như vậy vì ở gần cửa biển. Ni trưởng đã mời thầy thợ chuyên nghiệp đến để thăm dò tìm nguồn nước ngọt, nhưng ai cùng cho rằng tìm nguồn nước ngọt ở địa phận này là một chuyện hết sức vô lý. Không đầu hàng, Ni trưởng quyết định niệm trì “Ngũ Bách Phật Danh Kinh”(năm trăm danh hiệu Phật, cứ mỗi lần xưng tán một danh hiệu Phật thì phải đảnh lễ một lạy), phát nguyện cầu tìm nguồn nước ngọt cho chùa cũng như cho dân chúng trong vùng. Vào một ngày trời quang mây tạnh, Ni trưởng đã chỉ cho đám thợ khoan giếng địa điểm để lấy nguồn nước: ngay bên trên tảng đá khổng lồ. Thật kỳ diệu, thợ khoan sâu xuống lòng đá hơn mười mét thì gặp trúng mạch nước ngọt mát lạnh và trong vắt. Giếng nước ngọt được tìm thấy, nguồn nước tràn trề quanh năm, người dân quanh khu vực ngày đêm quẫy gánh xách thùng đến xin nước về dùng từ ngày ấy cho đến nay, và mọi người cung kính gọi đó là Giếng Phật. 

 

         Đến mùa hạ năm 1991, lúc 16 giờ 15 ngày mồng 9 tháng 5 năm Tân Mùi, Ni trưởng khai sơn viên tịch, trụ thế 78 năm, 38 tuổi đạo, được an nghỉ tại ngôi bảo tháp màu xanh của đá núi nằm bên phải của ngôi chánh điện do chính đôi bàn tay nhỏ nhắn và tâm nguyện lớn lao của Ni trưởng tạo lập nên.

 


Chua Hai An (2)Chua Hai An (3)Chua Hai An (4)Chua Hai An (5)Chua Hai An (6)Chua Hai An (7)Chua Hai An (8)Chua Hai An (9)Chua Hai An (10)Chua Hai An (11)Chua Hai An (12)Chua Hai An (13)Chua Hai An (14)Chua Hai An (15)Chua Hai An (16)Chua Hai An (17)Chua Hai An (18)Chua Hai An (19)Chua Hai An (20)Chua Hai An (21)
Chua Hai An (1)Chua Hai An (1)



         Kế thừa trụ trì là Ni sư Thích Nữ Tín Diệu, thời gian đầu được sự trợ lực của Ni sư Thích Nữ Tín Tâm (viên tịch vào năm 2011), chùa đã được tu bổ xây dựng thêm rất nhiều công trình mới, tạo nên một chốn thiền môn đầy hoa sắc, rộng rãi hơn, tráng lệ hơn và trở thành một ngôi đại tự của Phật giáo tỉnh nhà.

       Các công trình Chánh điện, Tổ đường, Ni xá, hành đường, tường thành, cổng Tam quan… đều đã được tu sửa nâng cấp ngày càng khang trang và tiện dụng hơn trước. Một “hang động nhân tạo” nho nhỏ cũng được thiết kế và bài trí ngay bên lối đi lên “hang động thiên tạo”, tạo thêm cảnh sắc núi non hoa lá hài hòa. Phía trước hang động, bên trái còn có một tượng Phật Di Đà uy nghiêm và nhân từ được an vị trên một tảng đá cao cao ngay vị trí mà trước kia đặt tháp xá lợi. Ngoài điện Quán thế Âm ngoài sân phía trước chánh điện, còn có một đài Quán Thế Âm khác trên một tảng đá lớn trên sườn núi với lối đi lên bằng những bậc cấp bên cạnh hang động. Tượng Quán Thế Âm này lộ thiên, lớn hơn, tay niêm ấn, tay cầm cam lồ thủy, đứng trên một quả địa cầu nhìn ra hướng biển Đông như luôn sẵn sàng “tầm thanh cứu khổ” cho chúng sanh trên những chuyến tàu ra khơi xa vốn luôn đầy gian nan trắc trở…

         Ngày hôm nay, “Hang Cọp” vẫn còn đó, nằm khép nép bên cạnh ngôi chùa nguy nga, hai bên cửa hang có bộ tượng “Khuyến Thiện –Trừng Ác” trấn giữ, vào bên trong hang có thể thấy những tượng thờ Di Lặc Tôn Phật, Bồ Tát Quán Thế Âm và Thiện Tài Đồng Tử, Bồ Đề Đạt Ma Sư Tổ, và tôn tượng thờ Cố Ni trưởng khai sơn lập tự do chúng đệ tử phụng lập để ghi nhớ công ơn và đạo hạnh của sư thầy.

        Đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của dân trong vùng giải tỏa nghĩa trang để tái định cư, nhà chùa cũng đã xây dựng nên “Vãng Sanh Đường”, với 2 dãy nhà ký giử linh cốt quanh năm ấm áp hương hỏa hoa đăng.

        Quanh sân vườn, chùa kiến tạo thêm những tiểu cảnh: vườn Lâm –Tỳ- Ni, tượng Thái tử cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt sông xuất gia cùng Xa Nặc theo hầu, và còn có những dãy bậc cấp dẫn lên tận phía trên đỉnh núi để đại chúng có thể chiêm bái những tượng đài Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, vườn Lộc Uyển, đức Phật thành đạo…

         Bãi lau sậy mà người xưa đồn rằng cọp trên hang động thường xuống uống nước, nằm bên kia con lộ phía trước cổng tam quan trở thành một ruộng lát của chùa tăng gia sản xuất, sau cho xưởng đóng tàu Song Thủy thuê, rồi khi hết hạn hợp đồng thì nơi này đã được nhà chùa xây dựng lên một giảng đường có sức chứa trên 400 người. Phật tử gần xa thường vân tập về đây để nghe chư tôn đức Tăng Ni giảng sư, giáo thọ được nhà chùa cung thỉnh đăng đàn thuyết pháp, mở những cuộc pháp thoại để hiểu biết rõ thêm về chánh pháp, về lịch sử Phật giáo…

 

 

Tâm Không Vĩnh Hữu





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2020(Xem: 4726)
Chùa Thanh Xuân thuộc địa danh làng Thanh Xuân Xã Triệu An, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, nằm dọc duyên hải miền trung bờ nam biển Cửa Việt; cuối nguồn hai nhánh sông Thạch Hãn, Vĩnh Định đổ ra biển. Theo dân làng kể lại, đời tổ tiên ông bà xuất phát ra lập làng từ đời triều Nguyễn ở Huế, hai họ Phan, họ Trần theo dòng Vĩnh Định ra Quảng Trị xuôi nguồn về đây. Lập tên làng Thanh Xuân, trong đó Xuân là lấy lại từ nguồn gốc thành Phú Xuân, cũng như các làng Xuân Thành, Dương Xuân vậy.
15/09/2020(Xem: 12276)
Chùa tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt chùa quay hướng Nam. Bên trái chùa, có chùa Linh Quang và đền thờ cụ Phan Bội Châu. Chùa được Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung dựng vào cuối thế kỷ 17 tại ngọn đồi thấp Hoàng Long Sơn, có tên thiền thất Ấn Tôn. Năm Nhâm Thìn (1712), ngài Thiệt Diệu Liễu Quán, quê ở Phú Yên là đệ tử đắc pháp của Sơ tổ Minh Hoằng Tử Dung, được ngài truyền tâm ấn, trở thành đệ nhị Tổ. Ngài Thiệt Diệu Liễu Quán đã phát triển dòng thiền Lâm Tế cho đến ngày nay.
13/09/2020(Xem: 13856)
Thiền viện tọa lạc dưới chân núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1.450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ trung bình 200C, Bạch Mã là nơi có khí hậu mát mẻ, lý tưởng cho việc tu tập của Tăng, Ni, Phật tử và các chuyến tham quan, chiêm bái của du khách. Tên thiền viện lấy theo tên núi Bạch Mã. Chữ “Trúc Lâm” hàm ý đến dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và mang tính nhập thế.
11/09/2020(Xem: 4696)
Chùa Hà Trung tọa lạc ở làng Hà Trung, xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 50 km. Chùa được lập vào thời Hậu Lê, gắn với hành trạng Thiền sư Nguyên Thiều. Thiền sư từ Quảng Đông, Trung Quốc sang Quy Nhơn lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau ra Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu cử ngài đến trụ trì chùa Hà Trung. Ngôi chùa ngày nay được trùng tu năm 1995, đại trùng tu năm 2009. Trụ trì chùa là Hòa thượng Thích Chơn Tế (trụ trì chùa Tường Vân, Huế kiêm nhiệm), Tri sự là Đại đức Thích Quảng Huệ.
11/09/2020(Xem: 5449)
Thông Điệp Của Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu (Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN thân gởi Chư Tôn Đức Tăng Ni và Đồng Bào Phật tử Hải Ngoại)
09/09/2020(Xem: 5012)
Chùa Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Hộ Thành (sông Gia Hội) số 110 Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa có diện tích hơn 10.000m2. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi. Đây là nơi Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời vào ngày 16/6/1807. Năm 1841, Hoàng tử lên ngôi vua ở kinh thành Huế, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
07/09/2020(Xem: 8668)
Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long (trên đất làng Thụy Lôi xưa, gần xóm Lịch Đợi), đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong (du tăng người Quảng Đông, Trung Quốc) dựng vào cuối thế kỷ 17, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714. Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc Chúa Nam Hà. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán. Kế thế trụ trì là các ngài Tế Ân, Trí Hải, Đại Trí …
05/09/2020(Xem: 9113)
Chùa Giác Lâm tọa lạc tại số 02 kiệt 56 đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nguyên là một thảo am do Tổ Giác Hải, người làng Trung Kiên, tỉnh Quảng Trị khai sáng vào ngày 16 tháng 3 năm Đinh Dậu (1897) trên một triền đồi, dưới chân núi Ngự Bình, đặt tên Duy Tôn Tự để truyền bá chánh pháp, đem đạo Phật phổ hóa vào những nơi xa xôi, hẻo lánh. Tổ có thế danh là Nguyễn Văn Cẩm, sinh trưởng trong một gia đình tín tâm với đạo Phật. Ngài là đệ tử của Tổ Tâm Tịnh, khai sáng Tổ đình Tây Thiên, Huế. Ngài có pháp danh là Trừng Nhã, tự Chí Thanh, hiệu Giác Hải.
30/08/2020(Xem: 5877)
Chùa Thiên Mụ thường gọi là chùa Linh Mụ, tọa lạc trên đồi Hà Khê, đường Nguyễn Phúc Nguyên, xã Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nằm ở bờ bắc sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế 5km. Sách Ô Châu cận lụccủa Tiến sĩ Dương Văn An cho biết chùa Thiên Mụ ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông. Chùa được chúa Tiên - Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu chùa khang trang. Năm 1695, Thiền sư Thạch Liêm, người Trung Quốc, được chúa Nguyễn mời làm trụ trì chùa. Từ chùa Thiên Mụ và chùa Khánh Vân (Huế), Ngài đã truyền bá Thiền phái Tào Động ở đàng Trong.Hòa thượng Thạch Liêm đã tả cảnh chùa Thiên Mụ: “Đêm 15 trời mưa, ra đến chùa Thiên Mụ. Chùa này tức Vương phủ ngày xưa (?) chung quanh có trồng nhiều cây cổ thụ, day mặt ra bờ sông; trước chùa ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo …” (1)
29/08/2020(Xem: 4947)
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang thường được gọi là Chùa Sắc Tứ,Tịnh Quang Tự, Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang, tọa lạc ở thôn Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa là một trong những ngôi tổ đình được xây dựng sớm và có ảnh hưởng lớn Phật giáo xứ Đàng Trong. Chùa ban đầu có tên là Am Tịnh Độ. Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam(1) cho biết chùa do Hòa thượng Tu Pháp, tự Chí Khả khai sáng vào năm 1739 đời Vua Lê Ý Tông (năm thứ hai đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát) với tên là Tịnh Nghiệp Tự. Đến đời Vua Gia Long, vua ban tên gọi là Tịnh Quang Tự. Chùa được trùng tu năm Minh Mạng thứ 21 (1941).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]