Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Tổ đình Sắc tứ Hội Phước, Nha Trang

15/11/202217:00(Xem: 2758)
26. Tổ đình Sắc tứ Hội Phước, Nha Trang

TỔ ĐÌNH SẮC TỨ HỘI PHƯỚC

 

         Tổ đình Sắc tứ Hội Phước, còn được gọi với tên dân gian gần gũi là Chùa Cát, tọa lạc tại 153/2 đường Hoàng Văn Thụ, phường Phương Sài, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

 

         Ngày xưa, chùa ở trên đồi Hoa Sơn (Núi Một) với tên là Phước Am, do Tổ Phật Ấn và Tịch Viễn khai sáng năm 1680, là một trong những chùa cổ nhất ở tỉnh Khánh Hòa.

         Hai Ngài Phật Ấn và Tịch Viễn thuộc Thiền phái Lâm Tế, dòng Đạo Mân-Mộc Trần và dòng Trí Thắng Bích Dung, đời thứ 35. Ban đầu, hai Ngài dựng một am tranh để tu hành và đặt tên là Phước Am.

         Đến năm 1742, ngài Đại Thông (Tổ thứ tư) đã dời chùa xuống đất bằng, cách đồi Hoa Sơn khoảng 500m đường chim bay về hướng Bắc, trên một bãi cát mênh mông nên người dân thường gọi là Chùa Cát. Sau, chùa được đổi tên, an danh là Hội Phước.

          Cùng với chùa Hải Đức vào thời kỳ xa xưa đó, hai ngôi chùa nằm hai bên con lộ nhỏ chạy cắt ngang qua, được người Pháp đặt tên là “Rue des deux Pagodes”, có nghĩa là "đường Hai Chùa" (sau năm 1975, đường đổi tên thành Tô Vĩnh Diện).

        Năm 1940, Tổ đình được sắc phong “Sắc tứ Hội Phước tự” năm Bảo Đại thứ 15.

        Sau hơn 340 năm xây dựng và phát triển, Tổ đình được truyền thừa qua các đời Tổ Sư trụ trì:

Tổ thứ 3: Tế Điền - Như Bổn (1716-1741),

Tổ thứ 4: Đại Thông - Chánh Niệm (1741-1810),

Tổ thứ 5: Đạo An - Phổ Nhuận (1810-1841),

Tổ thứ 6: Tánh Minh - Trí Quang (1841-1853),

Tổ thứ 7: Như Huệ - Thiền Tâm(1895-1905),

Tổ thứ 8: Thanh Minh- Huệ Châu (1905-1914),

Tổ thứ 9: Chơn Hương- Thiên Quang (1915-1917).

Tổ thứ 10: Thanh Chánh – Phước Tường (1917-1920), bổn sư của Bồ tát Thích Quảng Đức.

Tổ thứ 11: Thị Thọ - Nhơn Hiền (1920-1929),

Tổ thứ 12: Ấn Ngân - Tín Thành (1929-1949),

Tổ thứ 13: Đồng Kỉnh - Tín Quả (1949-1978).

       Năm 1977, Ngài Đồng Kính - Tín Quả chính thức truyền cử thầy Chúc Thọ kế thế trụ trì, qua năm 1978 thì Ngài viên tịch.

      Thầy Chúc Thọ - Quảng Thiện trụ trì từ năm 1978 đến nay.

 

        Chùa Hội Phước trải qua các cuộc trùng tu: Ngài Tánh Minh – Trí Quang trùng tu vào nửa đầu thế kỷ XIX, Ngài Phước Tường trùng tu vào năm 1917,  Hoà thượng Chúc Thọ - Quảng Thiện có công lớn trong việc đại trùng tu qua thời gian hơn 30 năm kể từ năm khởi công 1994.

        Sau bao biến đổi thăng trầm, đất chùa ngày xưa đã thu hẹp lại do bị lấn chiếm bởi dân cư ngày càng đông đúc, cổng tam quan hai tầng mái của chùa hiện nay nằm sâu vào bên trong một con hẻm hẹp, nhà chùa phải dựng một cổng chào phía ngoài mặt tiền đầu hẻm. Qua cổng tam quan vào sân là chiêm bái được tôn tượng đức Quán Thế Âm lộ thiên, phía sau kế tiếp là hai bên dãy nhà Đông, nhà Tây, ở giữa là ngôi Chánh điện tạo thành hình chữ U. Ngôi bửu điện 3 tầng: tầng trệt là Tổ đường thờ chư Tổ và chư vị trụ trì qua các đời; tầng 2 là Chánh điện thờ Đức Bổn Sư Thích Ca ở giữa, nhị vị Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí hai bên tả hữu, phía trước thiết đặt hương án thờ dức Phật A Di Đà tĩnh toạ kích cỡ nhỏ với nhị vị Hộ Pháp đứng hầu hai bên, ngoài ra còn có hương án tôn trí hai tượng lớn của Tiêu Diện Đại Sĩ và Vi Đà Hộ Pháp trấn hai bên bên trong cửa chính của điện; tầng 3 là cổ lầu thờ đức Phật A Di Đà, và tôn trí pho tượng Phật Di Lặc ở phía mặt trước hướng ra cổng tam quan.

         Nằm ở góc phải trong khuôn viên chùa là ngôi "Bảo Tháp Liên Hoa" với 7 tầng được hoàn thành vào năm 1997 thờ xá lợi (linh cốt) của chư lịch đại Tổ sư được cung di từ các bảo tháp xưa an trí trong đất chùa, cũng như nằm xen lẫn giữa nhà dân nhập về an vị nơi trang nghiêm trường tồn, là ngôi bảo tháp đầu tiên và cao nhất nằm trong lòng thành phố Nha Trang. Tầng trệt của bảo tháp có thiết đặt hương án thờ thánh tượng của Quan Công, là pho tượng của các đời Tổ xưa truyền lại.

         Tổ đình Sắc tứ Hội Phước hiện còn lưu giữ nhiều tượng Phật quý và chuông cổ từ thời Hậu Lê và Minh Mạng, cùng các pháp khí cổ như:

         - Chuông báo chúng được chú tạo vào năm Nhâm Tuất, Gia Long nguyên niên (1802), cao 0,63m, đường kính ở miệng chuông là 0,25m.

         - Chuông báo chúng không rõ niên đại, có khắc chữ nổi “Hội Phước Tự Thọ”, với chiều cao 0,62m, đường kính ở miệng là 0.6m. Trên chuông có 2 mặt trượng trưng cho ngày và đêm và điêu khắc nổi theo hình lưỡng nghi.

         - Đại hồng chung được Tổ Đạo An - Phổ Nhuận chú tạo vào năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 3 và Tổ Như Huệ-Thiền Tâm tái tạo vào năm Nhâm Dần, niên hiệu Thành Thái thứ 14 (1902), với chiều cao 1,15m, đường kính ở miệng chuông là 0,5m.

         - Văn bản đồng có kích thước 0.41m x 0.41m có khắc chữ Phạn-đàn, không ghi năm chú tạo nên chưa xác định được niên đại.

         - Bảng hiệu chùa được sắc phong năm Canh Thìn, niên hiệu Bảo Đại thứ 15 (1940), với kích thước 1,98m x 0,80m, giữa bảng ghi “Sắc tứ Hội Phước tự”, hàng chữ bên trái ghi “Lễ công bộ đại thần Tôn Thất Quảng nhật tạo”, hàng chữ bên phải ghi: “Bảo Đại thập ngũ niên, kiết nguyệt nhật tạo”.

         Ngoài ra, chùa còn bảo tồn được một số “Chánh pháp Nhãn tạng” của chư Tổ sư lâu đời, như:

-       Tổ Đạo An-Phổ Nhuận phó chúc cho Tổ Tánh Lý-Trí Minh kế thế trụ trì chùa Linh Sơn (tức chùa Tân Long) ở Diên Khánh.

-       Tổ Hải Hội phó chúc cho Tổ Thanh Minh- Huệ Châu.

-       Tổ Chơn Hương phó chúc cho Tổ Đồng Kỉnh- Hoằng Đạo.

-       Tổ Phước Tường phó chúc cho Tổ Nhơn Hiền- Thị Thọ.

-       Tổ Nhơn Hiền phó chúc cho Tổ Chúc Nghiêm-Tín Liên.

-       Tổ Nhơn Hiền phó chúc cho Tổ Đồng Kỉnh-Tín Quả.

-       Tổ Đồng Kỉnh- Tín Quả phó chúc cho Hoà thượng Quảng Thiện- Chúc Thọ.

… cùng một số Chánh pháp Nhãn tạng khác đều còn nguyên vẹn, rõ chữ rõ danh.

 

         Qua bao đời của chư Tổ, pháp môn chủ đạo Thiền-Tịnh-Mật được truyền đạt và hành trì miên mật, vận dụng hiệu quả để đối trị với các căn bệnh về tâm linh mang tính huyền bí, mang lại sự an lành cho cuộc sống, làm cho biết bao người tín thành gần xa tìm đến được giải nghiệp cho thân hết tật bệnh, tâm được bình an, nên ngôi chùa như một đàn tràng giải nghiệp oan khiên. Với đạo hạnh và năng lực của mình, chư Tổ bao đời đã làm lợi lạc cho đời và tạo mối quan hệ thân thiết giữa đạo và đời, qua từng năm tháng, qua từng đời trụ trì, thiện nam tín nữ khắp nơi đã về Tổ đình Hội Phước để quý kính phụng sự Tam Bảo, xin thế phát xuất gia tu học, cũng như xin quy y thọ tam quy ngũ giới, trở thành những người cọn Phật thuần thành dưới sự hộ trì và hướng dẫn tu tập của chư Tổ chư Tăng.

        Đặc biệt nhất, Chùa Cát trở thành cái nôi gìn giữ sự bình an cho hàng nghìn, hàng vạn trẻ em khó nuôi từ khắp nơi được các bậc phụ huynh mang đến chùa để thỉnh cầu chư Tăng hộ trì kinh chú, cho trẻ được nghe tiếng chuông chùa truyền âm vào tâm thức mà giải trừ bớt nghiệp chướng…

        Năm 1995, Chùa được Bộ Văn hóa công nhận là "Di tích Lịch sử Văn hóa cấm xâm phạm”!

 

Tâm Không Vĩnh Hữu

 



chua hoi phuoc  (1)chua hoi phuoc  (2)chua hoi phuoc  (3)chua hoi phuoc  (4)chua hoi phuoc  (5)chua hoi phuoc  (6)chua hoi phuoc  (7)chua hoi phuoc  (8)chua hoi phuoc  (9)chua hoi phuoc  (10)chua hoi phuoc  (11)chua hoi phuoc  (12)chua hoi phuoc  (13)chua hoi phuoc  (14)chua hoi phuoc  (15)chua hoi phuoc  (16)chua hoi phuoc  (17)chua hoi phuoc  (18)chua hoi phuoc  (19)chua hoi phuoc  (20)chua hoi phuoc  (21)chua hoi phuoc  (22)chua hoi phuoc  (23)chua hoi phuoc  (24)chua hoi phuoc  (25)chua hoi phuoc  (26)chua hoi phuoc  (27)chua hoi phuoc  (28)chua hoi phuoc  (29)chua hoi phuoc  (30)chua hoi phuoc  (31)chua hoi phuoc  (32)chua hoi phuoc  (33)chua hoi phuoc  (34)chua hoi phuoc  (35)chua hoi phuoc  (36)chua hoi phuoc  (37)chua hoi phuoc  (38)chua hoi phuoc  (39)chua hoi phuoc  (40)chua hoi phuoc  (41)chua hoi phuoc  (42)chua hoi phuoc  (43)chua hoi phuoc  (44)chua hoi phuoc  (45)chua hoi phuoc  (46)chua hoi phuoc  (47)chua hoi phuoc  (48)chua hoi phuoc  (49)chua hoi phuoc  (50)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/10/2020(Xem: 5194)
Chùa An Dưỡng, Xã Vĩnh Thái, Nha Trang
26/09/2020(Xem: 12435)
Những Ngôi Chùa Nổi Tiếng tại Cố Đô Huế
20/09/2020(Xem: 6031)
Chùa Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại thôn ĐồngChầm (Hòn Vượn), phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 14 km về hướng Tây. Chùa thuộc Hệ phái Phât giáo Nam Tông (Kinh). Chùa do Tỳ khưu Giới Đức, bút hiệu Minh Đức Triều Tâm Ảnh thành lập. Năm 1988, hưởng ứng chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc của tỉnh, chùa đã làm đơn xin được 50,4 hecta để trồng cây gây rừng. Qua năm 1989, các sư đã vào lập trang trại, đào giếng, ươm cây giống …và xây dựng các công trình ở hai khu ngoại viện và nội viện. Chùa thiết kế thành 2 khu vực chính:
19/09/2020(Xem: 5234)
Chùa Huyền Không còn gọi là chùa Huyền Không 1, chùa Huyền Không Sơn Trung để phân biệt với chùa Huyền Không 2, chùa Huyền Không Sơn Thượng ở Huế. Chùa tọa lạc ở thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, thành phố Huế (cách chùa Thiên Mụ 3 km về phía tây) với diện tích khoảng 6.000 m2. Chùa thuộc Hệ phái Phật giáo Nam Tông (Kinh). Chùa Huyền Không được Sư Viên Minh, Sư Tịnh Pháp, Sư Trí Thâm và Sư Tấn Cănxây dựng vào năm 1973 tại Lăng Cô, bên chân đèo Hải Vân, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngôi chùa bấy giờ nhỏ, dựng bằng tre nứa.
18/09/2020(Xem: 3925)
Chùa Thanh Xuân thuộc địa danh làng Thanh Xuân Xã Triệu An, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, nằm dọc duyên hải miền trung bờ nam biển Cửa Việt; cuối nguồn hai nhánh sông Thạch Hãn, Vĩnh Định đổ ra biển. Theo dân làng kể lại, đời tổ tiên ông bà xuất phát ra lập làng từ đời triều Nguyễn ở Huế, hai họ Phan, họ Trần theo dòng Vĩnh Định ra Quảng Trị xuôi nguồn về đây. Lập tên làng Thanh Xuân, trong đó Xuân là lấy lại từ nguồn gốc thành Phú Xuân, cũng như các làng Xuân Thành, Dương Xuân vậy.
15/09/2020(Xem: 9923)
Chùa tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt chùa quay hướng Nam. Bên trái chùa, có chùa Linh Quang và đền thờ cụ Phan Bội Châu. Chùa được Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung dựng vào cuối thế kỷ 17 tại ngọn đồi thấp Hoàng Long Sơn, có tên thiền thất Ấn Tôn. Năm Nhâm Thìn (1712), ngài Thiệt Diệu Liễu Quán, quê ở Phú Yên là đệ tử đắc pháp của Sơ tổ Minh Hoằng Tử Dung, được ngài truyền tâm ấn, trở thành đệ nhị Tổ. Ngài Thiệt Diệu Liễu Quán đã phát triển dòng thiền Lâm Tế cho đến ngày nay.
13/09/2020(Xem: 11209)
Thiền viện tọa lạc dưới chân núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1.450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ trung bình 200C, Bạch Mã là nơi có khí hậu mát mẻ, lý tưởng cho việc tu tập của Tăng, Ni, Phật tử và các chuyến tham quan, chiêm bái của du khách. Tên thiền viện lấy theo tên núi Bạch Mã. Chữ “Trúc Lâm” hàm ý đến dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và mang tính nhập thế.
11/09/2020(Xem: 4066)
Chùa Hà Trung tọa lạc ở làng Hà Trung, xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 50 km. Chùa được lập vào thời Hậu Lê, gắn với hành trạng Thiền sư Nguyên Thiều. Thiền sư từ Quảng Đông, Trung Quốc sang Quy Nhơn lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau ra Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu cử ngài đến trụ trì chùa Hà Trung. Ngôi chùa ngày nay được trùng tu năm 1995, đại trùng tu năm 2009. Trụ trì chùa là Hòa thượng Thích Chơn Tế (trụ trì chùa Tường Vân, Huế kiêm nhiệm), Tri sự là Đại đức Thích Quảng Huệ.
11/09/2020(Xem: 4637)
Thông Điệp Của Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu (Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN thân gởi Chư Tôn Đức Tăng Ni và Đồng Bào Phật tử Hải Ngoại)
09/09/2020(Xem: 4256)
Chùa Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Hộ Thành (sông Gia Hội) số 110 Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa có diện tích hơn 10.000m2. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi. Đây là nơi Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời vào ngày 16/6/1807. Năm 1841, Hoàng tử lên ngôi vua ở kinh thành Huế, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567