Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Tám Pháp Thế Gian

01/02/201111:44(Xem: 8183)
2. Tám Pháp Thế Gian

CĂN BẢNPHẬT GIÁO
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TL. 2005 - PL. 2549
TámPháp Thế Gian

BìnhAnson

---*---

Bàinầy viết dựa theo tập sách "The Eight Worldly Conditions", doHòa thượng Nàrada viết năm 1970, và bác Phạm Kim Khánh dịchnăm 1972 với tựa đề "Những Bước Thăng Trầm".
*

TiếngPalicủa "tám pháp thế gian" là "atthalokadhamma". "Attha"là tám, "loka"là thế gian, và "dhamma"là pháp.Atthalokadhammacòn được dịch là Bát Pháp, hay Bát Phong,là tám ngọn gió làm rung chuyển thế gian. Đó là: được(làbha) và mất (alàbha), danh thơm (yasa) vàtiếng xấu (ayasa), ca tụng (pasamsà) và khiển trách(nindà), hạnh phúc (sukha) và đau khổ (dukkha).

Trongkinh "Tùy Chuyển Thế Giới", Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp,Đức Phật dạy:

Nàycác Tỳ-khưu, có tám pháp thế gian làm tùy chuyển thế giới.Thế nào là tám? Đó là: lợi dưỡng và không lợi dưỡng,danh vọng và không danh vọng, tán thán và chỉ trích, an lạcvà đau khổ.

Sauđó, Ngài nói lên bài kệ:

Lợidưỡng, không lợi dưỡng,
Danhvọng, không danh vọng

Tánthán và chỉ trích

Anlạc và đau khổ

Nhữngphápnày vô thường
Khôngthường hằng, biến diệt

Biếtchúng, giữ chánh niệm

Bậctrí quán biến diệt

Phápkhả ái, không động
Khôngkhả ái, không sân

Cácpháp thuận hay nghịch

Ðượctiêu tan không còn.

Saukhi biết con đường
Khôngtrần cấu, không sầu

Chơnchánh biết sanh hữu

Ðiđến bờ bên kia.

Ngàigiảng rằng khi chúng ta gặp phải một trong tám sự kiệnấy (lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, không danh vọng,tán thán, chỉ trích, an lạc, đau khổ), chúng ta không nênbám theo các điều thuận lợi như: lợi dưỡng, danh vọng,tán thán, an lạc; và chúng ta cũng không nên sân hận vớicác điều bất thuận lợi như: không lợi dưỡng, không danhvọng, chỉ trích, đau khổ. Chúng ta không nên để các điềuđó ngự trị và lấn áp tâm trí. Trái lại, chúng ta nên nhậnbiết rõ ràng rằng: "Sự kiện này đang khởi lên nơi ta. Tuynhiên, sự kiện ấy là vô thường, khổ, biến hoại", đểcó một thái độ bình thản, tỉnh giác. Vị Thánh đệ tửnào đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng như vậy, sẽ đượcgiải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, não. Từ đó,vị ấy thoát khỏi mọi ô nhiễm ràng buộc, và tiến đếnbờ giải thoát.

*

1.Ðượcvà Mất (LàbhaAlàbha)

Trênđường đời, chúng ta thường phải gặp cả hai điều: đượcvà mất, hay nói cách khác, lợi lộc và lỗ lã. Dĩ nhiên,khi được lợi thì người ta thỏa thích, vui mừng. Nhưng đếnkhi lỗ lã thì phiền não bắt đầu khởi phát. Nhiều trườnghợp lỗ lã quan trọng làm cho người ta loạn trí, lắm khiđưa đến cảnh quyên sinh mạng sống, nếu không còn chịuđựng được nữa. Chính trong những hoàn cảnh tương tợ,ta phải biểu dương tinh thần dũng cảm và giữ tâm bình thản,không để quá chao động. Trong lúc vật lộn với đời sống,tất cả mọi người đều phải gặp những lúc thăng, lúctrầm, và chúng ta phải sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng đốiphó, nhất là trong nghịch cảnh.

Mấtmột vật gì, tất nhiên ta cảm thấy buồn. Nhưng chính cáibuồn ấy không giúp ta tìm lại được vật đã mất. Ta phảinghĩ rằng ai đó có thể hưởng vật kia, mặc dầu họ hưởngmột cách bất chánh. Ước mong người ấy được vui vẻ,an lành và hạnh phúc. Hoặc giả ta có thể tự an ủi: "Ðâychỉ là một mất mát nhỏ nhen, không quan trọng." Hoặc giảta có thể chấp nhận một thái độ triết lý cao thượng:"Không có gì là 'Ta', không có cái gì là 'Của Ta'".

Taphải dũng cảm chịu đựng những lỗ lã, thua thiệt, mấtmát. Phải đương đầu với nó, và như câu "họa vô đơnchí"diễn tả, nó có thể đến một cách đột ngột,từng đoàn, từng đám đông, chớ không đơn độc. Ta phảiđiềm tĩnh đối phó, với tâm Xả (upekkhà) hoàn toàn,và nghĩ rằng: đây là cơ hội vàng ngọc để thực hành đứctánh Xả ly cao thượng nầy.

*

2.DanhThơm và Tiếng Xấu (YasaAyasa)

Danhthơm và tiếng xấu là cặp thăng trầm khác mà ta phải đốiphó hàng ngày.

Danhthơm, chúng ta hoan hỷ đón mừng. Tiếng xấu thì chúng ta khôngthích. Danh thơm làm phấn khởi tinh thần. Tiếng xấu làm chota phiền muộn, khổ đau. Chúng ta thích được trứ danh. Chúngta rất thỏa thích thấy những hoạt động của mình, dầukhông đáng kể, được tường thuật và được nhiều ngườinhắc nhở, nhiều người biết đến. Lắm khi ta cũng cố gắng,một cách bất chánh, làm cho người ta chú ý đến mình.

Thậtra, chúng ta không cần chạy theo danh thơm, tiếng tốt. Nếuta xứng đáng, ắt nó sẽ đến mà không cần tìm. Khi hoa đượmmật đầy đủ thì ong, bướm sẽ đến. Hoa không cần mờiong, hay mời bướm.

Còntiếng xấu thì sao? Chúng ta không thích nghe, hay nghĩ đến.Chắc chắn là khi những lời nói xấu lọt vào tai, nó sẽlàm cho tâm ta bàng hoàng, khó chịu. Nỗi khổ tâm càng sâuđậm hơn, nếu những lời gọi là tường thuật hay báo cáoấy tỏ ra bất công và hoàn toàn sai lạc.

Nhưngcũng nên nhớ rằng cho dù ta có thể sống đời đạo đứctrong sạch như một vị Phật, ta cũng không thể tránh nhữnglời chỉ trích, tấn công và nguyền rủa. Ðức Phật là vịgiáo chủ trứ danh nhất thời bấy giờ mà cũng thường bịnhững người ác ý tìm cách vu oan, ám hại, nói xấu.

Takhông nên phung phí thì giờ để đính chánh những lời đồnđãi sai lạc, nếu hoàn cảnh không bắt buộc ta phải làmsáng tỏ vấn đề. Kẻ thù nghịch sẽ lấy làm thỏa thíchmà thấy ta bực bội vì lời nói của họ. Ðó chính là điềumà họ mong muốn. Nếu ta thản nhiên, lời vu oan sẽ rơi vàotai điếc.

GiáoPháp có dạy:

"Hãynhư sư tử, không run sợ trước tiếng động.
Hãynhư luồng gió, không dính mắc trong màn lưới.

Hãynhư hoa sen, từ bùn nhơ nước đục mọc lên,

Nhưngkhông bị nước đục và bùn nhơ làm ô nhiễm.

Hãyvững bước, đơn độc một mình, như con tê giác."
Là chúasơn lâm, sư tử không sợ hãi. Bẩm chất thiên nhiên củasư tử là không run rẩy giựt mình khi nghe tiếng gầm thétcủa các loài thú khác. Trên thế gian nầy, chúng ta thườngnghe thuật lại những câu chuyện trái tai, bất lợi, nhữnglời buộc tội giả mạo, những tiếng vu oan phỉ báng đêhèn. Như sư tử, ta không cần để tâm đến.

Chúngtađang sống trong thế gian bùn nhơ, nước đục. Nhiều đóahoa sen đã từ đó vượt lên, tô điểm đời sống, mà khôngbị nước đục và bùn nhơ làm hoen ố. Chúng ta phải cốgắng sống như hoa sen, một cuộc đời trong sạch và cao quý,không màng quan tâm đến bùn nhơ mà người khác có thể némvào ta. Phải sẵn sàng đón nhận bùn nhơ, mà người kháccó thể ném vào mình, thay vì mong đợi những đóa hoa hồngmà người ta có thể tặng. Như thế, ta sẽ không thất vọng.

Mặcdầu là điều khó khăn, chúng ta phải cố gắng trau giồihạnh từ khước, buông bỏ, không luyến ái. Không cần đểý đến nọc độc của những lời nói ác ý. Ðơn độc mộtmình, chúng ta hãy ra đi đó đây, tận lực phục vụ và tạoan lành cho kẻ khác.

*

3.CaTụng và Khiển Trách (PasamsàNindà)

Ðượcca tụng và bị khiển trách là hai hoàn cảnh thăng trầm khác,hằng ảnh hưởng đến nhân loại. Lẽ dĩ nhiên, khi đượcca tụng thì ta nở mặt nở mày, hân hoan thỏa thích. Lúc bịkhiển trách thì tinh thần suy sụp, ủ dột buồn rầu. ÐứcPhật dạy rằng giữa những lời ca tụng hay khiển trách,bậc thiện trí không thỏa thích, cũng không ủ dột ưu phiền,mà tựa hồ như tảng đá vững chắc, không lay chuyển dướicơn bão táp phong ba của đời sống. Nếu chúng ta xứng đáng,những lời khen tặng quả thật êm tai. Nhưng nếu ta khôngxứng đáng, như trường hợp có người nịnh bợ, thì nhữnglời ấy dù có êm tai, cũng sẽ làm cho ta thất vọng, và làmột tai hại.

Ngườithực hành Giáo Pháp thì không tin vào những lời nịnh bợ,cũng không muốn được nịnh bợ. Khi khen tặng ai xứng đáng,người Hiền trí thật lòng khen tặng mà không ẩn ý ganh tị.Khi khiển trách, các Ngài khiển trách mà không ẩn ý khinhkhi. Các Ngài chỉ khiển trách vì lòng bi mẫn, muốn cải thiệnngười lầm đường lạc nẻo.

Cònkhiển trách thì sao? Ðức Phật dạy: "Người nói nhiềubị khiển trách. Người nói ít bị khiển trách. Người lặngthinh cũng bị khiển trách."

ÐứcPhật cũng nói: "Người thế gian phần đông sống khôngkỷ luật. Như voi chiến ở trận địa, hứng lãnh lằn tênmũi đạn từ mọi hướng dồn dập bắn đến, cùng thế ấy,Như Lai hứng chịu mọi nguyền rủa của thế gian."

Kẻsi mê lầm lạc chỉ tìm cái xấu, cái hư của người khácmà không nhìn cái tốt cái đẹp của ai. Ngoại trừ ÐứcPhật, không có ai hoàn toàn tốt lành. Cũng không có ai hoàntoàn xấu ác. Giữa chúng ta, bên trong con người tốt nhất,cũng có phần hư hỏng. Trong con người xấu nhất, cũng cóđiểm tốt đẹp. Ðức Phật dạy rằng người nào biết câmlặng như cái mõ bể khi bị tấn công, nguyền rủa, chửimắng, thì, mặc dầu chưa chứng ngộ Niết Bàn, người ấycũng đã đứng trước Niết Bàn.

*

4.HạnhPhúc và Ðau Khổ (SukhaDukkha)

Hạnhphúc và đau khổ là cặp thăng trầm cuối cùng. Nó cũng cónhiều năng lực nhất, ảnh hưởng đến đời sống nhân loại.

Ðiềugì làm được dễ dàng là hạnh phúc. Cái gì khó chịu đựnglà đau khổ. Thông thường, thỏa mãn điều mong ước là hạnhphúc. Nhưng, liền khi vừa đạt được điều mong ước ấy,ta đã ước mong một loại hạnh phúc khác. Phần đông chúngta thỏa thích trong sự thọ hưởng những lạc thú của đờisống. Nhưng cũng có hạng người thỏa thích trong sự từkhước, buông bỏ các lạc thú ấy. Không luyến ái, hay vượtlên trên mọi khoái lạc vật chất, là hạnh phúc đối vớingười đạo đức. Hạnh phúc Niết Bàn -- tức trạng tháithoát ra khỏi mọi đau khổ -- là hình thức hạnh phúc caothượng nhất.

Chúngta vui vẻ đón mừng hạnh phúc. Nhưng đau khổ thì không đượcniềm nở tiếp nhận. Ðau đớn (vật chất) và phiền muộn(tinh thần) đến với ta dưới nhiều hình thức. Chúng ta đaukhổ khi phải chịu bệnh hoạn, già yếu, đó là lẽ tự nhiên.Phải điềm tĩnh chịu đựng những khổ đau đó.

Lắmkhi chúng ta phải xa lìa thân bằng, quyến thuộc. Cảnh biệtly vô cùng đau khổ. Chúng ta phải nhận thức rằng mọi kếthợp đều phải chấm dứt trong cảnh biệt ly. Đó là luậtVô thường, và đây là cơ hội quý báu để ta thực hànhtâm Xả.

Trênbước thênh thang trong vòng luân hồi, chết là mối ưu phiềntrọng đại nhất mà chúng ta phải đối phó. Ðôi khi cáichết không đến lẻ loi cho một người thân, mà đến trùnghợp cho nhiều người thân trong một lúc. Cái chết không thểtránh, đến với tất cả mọi người, không trừ ai. Và taphải bình thản đối phó.

*

ÐứcPhậtdạy rằng:

"Cũngnhư trên đất, ta có thể vứt bất luận vật gì, dầu chua,dầu ngọt, dầu sạch, dầu dơ. Ðất vẫn thản nhiên mộtmực trơ trơ, không giận cũng không thương. Vậy, cùng thếấy, trong hạnh phúc, trong phiền muộn, lúc thăng lúc trầm,ta phải giữ tâm bình thản như đất."

Trướcnhững thăng trầm của thế gian, tâm của các vị Thánh A-la-hánkhông bao giờ chao động. Vì vậy, noi theo gương các Ngài,giữa những hoàn cảnh được và mất, danh thơm và tiếngxấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ, chúngta hãy cố gắng giữ tâm bình thản.

Perth,Tây Úc, tháng 8-2004


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 76707)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 120842)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24365)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13220)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8517)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15417)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 19026)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17174)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34163)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
27/05/2013(Xem: 6468)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ,Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần (Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến chỗ đức Phật đảnh lễ rồi đứng một bên. Khi ấy, đức Phật hỏi: -Này Bà La La, có phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc,vui vẻ, sức mạnh, cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567