Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Về Bát Quan Trai Giới

01/02/201111:44(Xem: 9146)
7. Về Bát Quan Trai Giới

CĂN BẢNPHẬT GIÁO
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TL. 2005 - PL. 2549
VềBát Quan Trai Giới

BìnhAnson

---*---

Ngoàiviệcthọ trì, tuân giữ 5 điều giới căn bản trong đờisống hằng ngày, thỉnh thoảng, trong các ngày trai giới, cácdịp lễ lớn, hay trong các khóa tu thiền tịnh tâm, ngườiPhật tử cư sĩ chúng ta thường giữ thêm Bát Quan Trai Giới.Tám giới đó dựa vào năm giới căn bản, nhưng được khaitriển thêm để giúp tạo một đời sống tịnh hạnh, đơngiản, giúp tạo các điều kiện thuận lợi để tu dưỡngtâm trí. Đó là:

1)Không sát sanh.
2)Khôngtrộm cắp.
3)Khônghành dâm.
4)Khôngnói dối.
5)Khônguống rượu và dùng các chất say.
6)Khôngăn trái giờ (không ăn sau 12 giờ trưa).
7)Khôngtham gia múa hát, thổi kèn, đánh đàn, xem múa hát, ngheđàn, kèn, và không trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn vàđeo tràng hoa.
8)Khôngnằm ngồi nơi quá cao và nơi xinh đẹp.
Ngàytrai giới còn có tên gọi là ngày Bố-tát, phiên âm từ chữ"Uposatha". "Uposatha" có nghĩa là đi đến và lưu lạitại một ngôi chùa hay một tu viện. Theo phong tục Ấn Độngày xưa, các giáo sĩ Bà-la-môn thực hiện các nghi lễ thanhtịnh hóa, rồi rời gia đình, chọn một nơi thanh vắng đểsống độc cư trọn ngày, vào ngày trăng tròn (ngày rằm) vàngày đầu trăng (mồng 1). Trong bối cảnh đó, Đức Phậtcho phép các vị tu sĩ đệ tử của Ngài hội họp lại vàocác ngày đó để tụng giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Patimokkha,giới luật tu sĩ) và thuyết giảng cho hàng đệ tử cư sĩkhi họ đến lưu lại tại chùa. Ngoài ra, cộng đồng Phậttử thời đó còn có 2 ngày trai giới khác là ngày giữa tuầntrăng đầu (mồng 8) và ngày giữa tuần trăng sau (ngày 23).

Đólà bốn ngày trai giới căn bản của truyền thống Phật giáoNguyên thủy, vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay. Tuynhiên, tại Việt Nam, Phật tử cư sĩ thường thọ trì 6 ngàytrai giới trong tháng: 8, 14, 15, 23, 29, 30 (28, 29 cho tháng thiếu),hoặc 8 ngày: 5, 8, 14, 15, 20, 23, 29, 30 (28, 29 cho tháng thiếu).

*

Cácbàigiảng của Đức Phật có liên quan đến tám giới nầyđã được ghi lại trong Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Phẩm"Ngày Trai Giới". Đức Phật giảng rằng người nào thọ trìtám giới nghiêm túc với tâm trong sạch, người ấy sốngtịnh hạnh như một vị A-la-hán. Vì thế, các đệ tử củaNgài phải cố gắng giữ tám giới trong ngày Bố-tát. Ngàigiảng chi tiết cho bà Visakha như sau:

--"Thánhđệ tử ấy, này Visàkhà, suy tư như sau:

1)"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ sát sanh, tránhxa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòngtừ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúngsanh và loài hữu tình. Cũng vậy đêm nay và ngày nay, ta sốngtừ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm,biết tàm quí, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúccủa tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Về chi phần này,ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

2)"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ lấy của khôngcho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đãcho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cắp. Cũng vậy, đêmnay và ngày nay, ta sống từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấynhững vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sốngthanh tịnh, không có trộm cắp. Về chi phần này, ta theo gươngcác vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

3)"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ tà hạnh, tịnhtu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ.Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ tà hạnh, tịnhtu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ.Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thựchành trai giới".

4)"Chođến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ nói láo, tránh xanói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắcchắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lờihứa đối với đời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sốngtừ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật,y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừagạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Về chi phầnnày, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành traigiới".

5)"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ rượu men, rượunấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm chođắm say. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ rượumen, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượunấu làm cho đắm say. Về chi phần này, ta theo gương các vịA-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

6)"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán ăn một ngày một bữa,không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Cũng vậy, đêm nay vàngày nay, ta sống ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm,không ăn phi thời. Về chi phần này, ta theo gương các vịA-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

7)"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán tránh xa không xem múa,hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hươngliệu, dầu thoa và các thời trang. Cũng vậy, đêm nay và ngàynay, ta sống tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch,không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và cácthời trang. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hánvà ta sẽ thực hành trai giới".

8)"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ giường cao,giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Các vị ấynằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ.Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta từ bỏ giường cao, giườnglớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Ta nằm trên giườngthấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Về chi phần này,ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

"Nhưvậy, này Visàkhà, là Thánh trai giới, thực hành Thánh traigiới, này Visàkhà, có quả lớn, có lợi ích lớn, có chóisáng lớn, có ánh sáng lớn".

TrongTăng Chi Bộ, Chương Mười Pháp, Đức Phật cũng khuyên cáccư sĩ của bộ tộc Thích-ca (Sakya) trong các ngày Bố-tát phảinỗ lực hành trì bát quan trai giới, sống tinh cần, nhiệttâm, không phóng dật trọn ngày và trọn đêm. Những lợilạc do công phu tu tập đó còn to lớn hơn tài sản của cảimà họ có thể tích tụ được để sống sung túc cả trămnăm; vì công phu đó sẽ tạo thiện nghiệp đưa đến táisinh trong các cõi trời an lạc với tuổi thọ cả ngàn năm.Hơn thế nữa, kết quả đó sẽ giúp tạo điều kiện thuậnlợi để phát triển tuệ giác, đưa họ nhập dòng thánh giảithoát, qua các quả vị Dự lưu, Nhất lai, và Bất lai. Ngàinói:

--"Ởđây, này các Thích tử, đệ tử của Ta, trong 10 năm sốngkhông phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như lời Ta giảng dạy.Như vậy, vị ấy thực hành, vị ấy có thể sống trăm năm,ngàn năm, trăm ngàn năm được cảm thọ nhất hướng lạc.Vị ấy có thể chứng được quả Bất lai, quả Nhất laihay quả Dự lưu không có sai chạy.

Nàycác Thích tử, đâu phải là 10 năm! Ở đây, đệ tử củaTa trong 9 năm ... 8 năm, ... 1 năm ... 10 tháng ... 9 tháng ... 8tháng ... 1 tháng ... 10 đêm 10 ngày... 9 đêm 9 ngày... 8 đêm8 ngày ... trong 1 đêm 1 ngày sống không phóng dật, nhiệt tâm,tinh cần như lời Ta giảng dạy. Như vậy, vị ấy thực hành,vị ấy có thể sống trăm năm, ngàn năm, trăm ngàn năm đượccảm thọ nhất hướng lạc. Vị ấy có thể chứng quả Bấtlai, quả Nhất lai, hay quả Dự lưu không có sai chạy".

*

Theotruyềnthống, trong ngày trai giới, người cư sĩ Phật tửthức dậy sớm, sửa soạn thức ăn, rồi cúng dường đếncác vị Tăng sĩ đi khất thực trong xóm làng. Hoặc họ mangthức ăn đến chùa và cúng dường đến chư Tăng ở đó.Đồng thời, các vị Phật tử này xin chư Tăng đọc truyềnTam quy và Bát quan trai giới để được thọ trì trong suốtngày và đêm hôm đó. Có thể là sau đó, họ trở về nhà,sinh hoạt bình thường, nhưng vẫn tuân giữ tám giới cho đếnsáng hôm sau. Có thể là họ thu xếp để ở lại chùa trọnngày và trọn đêm hôm đó.

Tùytheo nếp sinh hoạt của mỗi chùa, chương trình có thể thayđổi. Có những nơi Phật tử lưu lại đó để đọc sách,nghe thuyết pháp, đóng góp vào các công tác Phật sự, làmcông quả tại chùa. Có những nơi chú trọng đến hành thiền,người Phật tử dành trọn ngày và đêm để tập sống quánniệm, tĩnh tâm, xen kẽ các buổi ngồi hành thiền và đi kinhhành, và đến gặp thiền sư để tham vấn riêng về các vấnđề có liên quan đến công phu tu tập của mình.

Cónhững chùa tổ chức đêm thọ đầu đà, với tham dự viênnguyện không ngủ hay nằm, tích cực tham gia vào các buổithuyết pháp và thảo luận về Phật pháp. Trong đêm đầutháng và giữa tháng, nếu tại chùa có trên 4 vị Tỳ-khưu,chư Tăng tụ họp tại chánh điện, nơi có kết giới Sima,để tụng đọc 227 điều giới bổn của hàng Tỳ-khưu, vàcuộc lễ này có thể kéo dài hơn một giờ.

*

Ngàynay,trong môi trường xã hội kinh tế hiện đại, khi chúngta phải sinh hoạt, làm việc theo lịch Tây phương, rất khómà tuân giữ các ngày Bố-tát đúng theo âm lịch. Khuynh hướngthông thường là dời ngày Bố-tát vào những ngày cuối tuần,khi mọi người được nghỉ ngơi, dễ thu xếp để gặp nhau,hay đi đến chùa, đến các thiền viện. Có những nhóm Phậttử đã linh hoạt tổ chức ngày "Tĩnh Tâm" hằng tháng, vàongày cuối tuần kề cận với đêm trăng rằm, thường làngày thứ Bảy và hành trì bát quan trai giới trọn ngày vàtrọn đêm đó cho đến sáng ngày Chủ nhật.

Nếucó chư Tăng Ni hiện diện, chúng ta thỉnh quý ngài truyềnquy giới. Ở những nơi không có Tăng Ni, chúng ta có thể mờimột vị cư sĩ lớn tuổi, có uy tín, tuyên đọc quy giới,mọi người cùng đọc theo, và tự nguyện thọ trì với tâmtrong sạch. Chương trình sinh hoạt thì tùy duyên, có thể làtổ chức các buổi thiền tập, tham cứu kinh sách, xen kẽvới các buổi thuyết pháp hoặc đàm luận về Phật pháp,hoặc cùng tụng đọc các bài kinh căn bản như kinh Từ Bi,Đại Hạnh Phúc, Châu Báu, Chuyển Pháp Luân, v.v., hoặc cùngnghe các bài giảng, các bài kinh tụng thu âm trong băng audio-cassettehay đĩa CD.

Tươngtự trong tinh thần đó, ở những nơi xa xôi, không có nhiềuPhật tử, ta vẫn có thể tự tổ chức một ngày trai giớitại nhà riêng, tự đọc lên lời nguyện quy y Tam Bảo vàhành trì Tám Giới, rồi lập ra một chương trình tịnh tucho riêng mình trong trọn ngày ấy.

Điềuquan trọng là làm sao giữ tâm thanh tịnh, nhu hòa, không bậnrộn, không lo âu tính toán, và lúc nào cũng cố gắng tỉnhgiác, chánh niệm, nhất tâm hướng về Phật Pháp trong suốtthời gian thọ trì bát quan trai giới.

Tháng9-2004


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 76890)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 121197)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24414)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13269)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8538)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15461)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 19077)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17214)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34535)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
27/05/2013(Xem: 6485)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ,Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần (Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến chỗ đức Phật đảnh lễ rồi đứng một bên. Khi ấy, đức Phật hỏi: -Này Bà La La, có phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc,vui vẻ, sức mạnh, cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567