Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Về Hạnh Bố Thí

01/02/201111:44(Xem: 9887)
3. Về Hạnh Bố Thí

CĂN BẢNPHẬT GIÁO
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TL. 2005 - PL. 2549
VềHạnh Bố Thí

BìnhAnson

---*---

BốThí là một đức hạnh cao quí thường được đề cập đếntrong cuộc sống tu tập của người con Phật, tu sĩ lẫn cưsĩ, trong mọi tông phái Phật Giáo.

Cólẽ đa số Phật tử chúng ta đều nghe biết nhiều về cáclời giảng trong kinh điển Bắc truyền, đều quen thuộc vớicác khái niệm hành trì như Lục độ Ba-la-mật và Tứ nhiếppháp của hàng Bồ-Tát. Về lục độ Ba-la-mật thì gồm có6 đức hạnh: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiềnđịnh, và Trí tuệ. Về Tứ nhiếp pháp thì gồm có: Bố thí,Ái ngữ, Lợi hành, và Đồng sự.

Trongkinh điển nguyên thủy, Bố Thí là một đức hạnh tối quantrọng mà Đức Phật thường giảng dạy và khuyên nhủ chúngta nên cố gắng tu tập. Tứ nhiếp pháp cũng được ghi lạitrong kinh điển. Thêm vào đó, trong khi kinh điển Bắc truyềncó ghi 6 pháp Ba-la-mật, kinh điển nguyên thủy đề cập đến10 pháp Ba-la-mật của hàng Bồ Tát, gồm: Bố thí, Trì giới,Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Kiên nhẫn, Chân thật, Chí nguyện,Từ tâm, và Xả ly. Cho nên, khái niệm về các hạnh Ba-la-mậttrong tất cả các tông phái đều rất giống nhau, đều đềcao Bố Thí như là đức hạnh đầu tiên cần phải đượctu tập.

Ởđây, chỉ xin trình bày tóm tắt, giới hạn trong phạm vi phápbố thí trong thế gian, về các lời dạy của Đức Phật chohàng đệ tử cư sĩ tại gia chúng ta, như đã ghi lại trongKinh Tạng Nikàya nguyên thủy.

*

"BốThí"là chữ Hán Việt, gồm chữ "Bố"và chữ "Thí"."Bố" là bày ra, ban rộng ra, trải đều ra; như trong nhữngchữ: ban bố, phân bố, tuyên bố, công bố, bố trí, bố cục,bố cáo, bày binh bố trận. "Thí" còn đọc một âm khác là"Thi", nghĩa là thực hiện, áp dụng, làm ra; như trong nhữngchữ: thí nghiệm, thí điểm, thí công (thi công)

"Bốthí" có nghĩa là làm cho rộng ra, trải rộng ra, phân chia cùngkhắp. Từ đó, Bố Thí mang một ý nghĩa là: chia xẻ, san sẻ.Tiếng Anh thường dịch là Giving, Donating, hay Sharing.Trong tiếng Pàli (Phạn ngữ), Bố Thí là Dàna, hay Càga.

"Dàna"thường được phiên âm là "Đàn-na", có khi chỉ gọi tắtlà "Đàn", như trong cụm từ "Đàn Ba-la-mật", có nghĩa là"Đàn-na Ba-la-mật", "Dàna Pàrami", hay là hạnh Ba-la-mậtvề sự Bố Thí.

Trongkinh sách, đôi khi chúng ta thấy có sự dùng chữ kết hợpâm tiếng Phạn và tiếng Hán. Thí dụ như chữ "Đàn chủ":Đàn là từ chữ Phạn "Dàna", Chủ là tiếng Hán. ĐànChủ là người đứng ra thực hiện việc bố thí cúng dường,tiếng Pali là "Dànapati".

"Đànchủ" cũng còn được gọi là "Thí Chủ". Chữ "Thí" ở đâylà nói tắt từ chữ "Bố Thí". Trong thuật ngữ Phật học,chữ "Thí" không còn mang nghĩa đen là "làm, thực hiện, hànhđộng", mà thường được hiểu như là chữ tắt của "BốThí". Ngoài chữ "Thí Chủ", chúng ta thường thấy các chữkhác như là: Đàn-na tín thí, nhà thương thí, thí thực, thícô hồn, tài thí, pháp thí, niệm thí, v.v. Tất cả đều cóhàm chứa ý nghĩa "Bố Thí".

*

TrongTrườngBộ, kinh 33; trong Kinh Phật Thuyết Như Vậy, ChươngBa Pháp; và trong Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Đức Phậtcó dạy 3 pháp hành để tạo căn bản phước báu trên đườngtu tập. Đó là: Bố thí (Dàna), Trì giới (Sìla), và Tu thiền(Bhàvanà): "Này các Tỳ-khưu, có ba phước nghiệp sự này.Đó là: Phước nghiệp sự do bố thí tác thành, phước nghiệpsự do giới tác thành, và phước nghiệp sự do tu thiền tácthành".

Bốthí là một trong 3 hạnh kiểm được người hiền trí, bậcthiện nhân tán thán. Đó là: Bố thí, Xuất gia, và Phụngdưỡng cha mẹ. "Xuất gia" (pabbajjà) ở đây có ý nghĩa làsự thiểu dục, sự thoát ly điều bận rộn phiền não, thọtrì pháp không não hại, sống chế ngự, điều phục và hòahợp. Trong Tăng Chi Bộ, Chương Ba Pháp, Đức Phật dạy: "Nàycác Tỳ-khưu, có ba pháp được người Hiền trí tuyên bố,được bậc Chân nhân tuyên bố. Đó là: Bố thí, Xuất gia,và Hầu hạ cha mẹ."

Bốthí cũng là một trong bốn pháp để thu phục nhân tâm, chungsống hài hòa trong gia đình cũng như trong Tăng chúng và trongxã hội. Tăng Chi Bộ, Chương 4 Pháp, có ghi lại lời khuyêncủa Đức Phật như sau:

-Này các Tỳ-khưu, có bốn nhiếp pháp này. Thế nào là bốn?

Bốthí và ái ngữ,
Lợihành và đồng sự

Hỡicác vị Tỳ-khưu,

Ðâylà bốn nhiếp pháp.

Bốthívà ái ngữ,
Lợihành và đồng sự,

Ðốivới những pháp này,

Ởđời đối xử nhau,

Chỗnày và chỗ kia,

Nhưvậy thật tương xứng.

Vàbốn nhiếp pháp này,
Nhưđỉnh đầu trục xe,

Nếuthiếu nhiếp pháp này,

Thờicả mẹ lẫn cha

Khôngđược các người con

Tôntrọng và cung kính..

Dovậy bậc Hiền trí,
Ðồngđẳng nhìn nhiếp pháp

Nhờvậy họ đạt được,

Sựcao lớn, tán thán.

Trongtruyền thống Nam tông, một trong những bài kinh mà chúng tathường được nghe tụng đọc là kinh Đại Hạnh Phúc (Mahà-MangalaSutta), thuộc Kinh Tập, Tiểu Bộ. Trong bài kinh nầy, ĐứcPhật giảng rằng Bố thí là một trong 38 điều mang lại hạnhphúc tối thượng cho người cư sĩ tại gia chúng ta. ĐứcPhật còn cho biết rằng Bố thí là một trong ba yếu tố đểbiết được một người có lòng tin trong sạch nơi Chánh Pháp,như đã ghi lại trong Tăng Chi Bộ, Chương Ba Pháp:

"Dobasự kiện, này các Tỳ-khưu, một người được biết làcó lòng tin. Thế nào là ba? (1) Ưa thấy người có giới hạnh,(2) ưa nghe diệu pháp, (3) với tâm ly cấu uế của xan tham,sống trong nhà, bố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, ưathích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, thích phân phátvật bố thí."

Mộtngười bố thí trong sạch như thế, theo lời Đức Phật, sẽtạo được một tài sản rất lớn, không bao giờ bị lửađốt cháy, lụt làm trôi mất, bị ăn trộm, bị chánh quyềntịch thu, hay bị kẻ thù địch lấy đi mất. Tài sản phướcbáu do hạnh Bố Thí tạo ra là một trong 7 loại tài sản caoquí nhất - gọi là thánh tài - mà chúng ta có thể tích lũyđược. Đức Phật dạy trong Tăng Chi Bộ, ChươngBảy Pháp:

Nàycác Tỳ-khưu, có bảy tài sản này. Thế nào là bảy? Tíntài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.(...) Và này các Tỳ-khưu, thế nào là thí tài? Ở đây, nàycác Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử với tâm từ bỏ cấu uếcủa xan tham, sống tại gia phóng xả, với bàn tay rộng mở,ưa thích xả bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa thíchsan sẻ vật bố thí. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là thí tài.

BốThí cũng được xem là một loại hương thơm cao quý, tỏara cùng khắp, theo mọi hướng, tạo ra nhiều tiếng lành, danhthơm cho xóm làng hay cộng đồng nơi chúng ta sinh hoạt. TrongTăng Chi Bộ, Chương Ba Pháp, Ngài Ananda hỏi Đức Phật:

-"BạchThế Tôn, loại cây hương gì có mùi hương bay thuận gió,có mùi hương bay ngược gió, có mùi hương bay thuận gió lẫnngược gió?

ĐứcPhật trả lời:

-"Ởđây, này Ananda, tại làng nào hay tại thị trấn nào, có nữnhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, tuângiữ 5 giới, tâm tánh hiền lương, sống trong nhà với tâmkhông nhiễm xan tham, bố thí không luyến tiếc với tay rộngmở, thích thú từ bỏ, sẵn sàng được yêu cầu, ưa thíchchia xẻ đồ bố thí. Người như vậy, được các Sa-môn,Bà-la-môn, Chư Thiên và các phi nhân đều tán thán. Và nhưthế, người đó là loại cây hương quý. Cây hương đó, nàyAnanda, có mùi hương bay thuận gió, có mùi hương bay ngượcgió, có mùi hương bay thuận gió lẫn ngược gió".

*

Tuynhiên,hạnh Bố Thí không phải là một điều dễ thực hiệnnhư nhiều người thường hiểu lầm. Đây là một pháp môntu tập đòi hỏi chúng ta phải tinh tấn, có chánh niệm vàtrí tuệ.

Trướchết, Đức Phật dạy rằng khi bố thí, chúng ta phải biếtnhận thức rõ ràng về vật cho, cách cho, và tâm ý cho. TrongTăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Ngài dạy:

"Nàycác Tỳ-khưu, có tám sự bố thí của bậc chân nhân. Thếnào là tám? Cho vật trong sạch; cho vật thù diệu; cho đúngthời; cho vật thích ứng; cho với sự cẩn thận; cho luônluôn; khi cho, tâm tịnh tín; sau khi cho, tâm luôn hoan hỷ".

Nhưthế, khi bố thí, vật cho phải là vật trong sạch, vật thùdiệu, vật thích ứng; cách cho phải là cho đúng thời, chovới sự cẩn thận, cho luôn luôn; và tâm ý cho phải là tâmtịnh tín khi cho, tâm luôn hoan hỷ sau khi cho.

TrongTăng Chi Bộ, Chương Năm Pháp, Đức Phật dạy: "Có nămloại bố thí xứng đáng bậc chân nhân: bố thí có lòng tin;bố thí có kính trọng; bố thí đúng thời, bố thí với tâmkhông gượng ép; bố thí không làm thương tổn mình và người."Ngài cũng dạy về năm loại khác là: "Có năm loại bốthí xứng đáng bậc chân nhân: bố thí có lòng cung kính; bốthí có suy nghĩ; bố thí tự tay mình; bố thí đồ không quăngbỏ; bố thí có suy nghĩ đến tương lai".

Vềbố thí cho đúng thời, Đức Phật nêu rõ có 5 loại:

-Bố thí cho người mới đến trú xứ của chúng ta.
-Bố thí cho người sắp ra đi, rời khỏi trú xứ của chúngta.

-Bố thí cho người đau bệnh.

-Bố thí trong thời đói.

-Phàm những hoa quả gì mới gặt hái được, dành chúng đầutiên để cúng dường các bậc giữ giới hạnh.
Nếuđược như thế, hạnh Bố Thí sẽ mang lại các lợi ích:"Tùy theo vật bố thí, tùy theo cung cách bố thí, kết quảsẽ đưa đến cho người bố thí với tài sản sung mãn, vớidung sắc thù thắng như hoa sen, với vợ con, các người làmcông tận tụy phục vụ tuân hành, với các vật dụng đếnđúng thời, đúng lúc, với năm dục công đức được thọhưởng đầy đủ, và với các tai nạn không hề xảy đến."

Trongcácđoạn kinh khác, Đức Phật dạy thêm về các lợi íchkhác:

"Nàycác Tỳ-khưu, có năm lợi ích này của bố thí. Thế nào lànăm?

-Được nhiều người ái mộ, ưa thích;
-Được bậc thiện nhân, chân nhân thân cận;

-Tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi,

-Không có sai lệch khi thuyết pháp;

-Khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cỏi lành thiên giới."
Về lợiích của bố thí thực phẩm: "Người bố thí bữa ăn, nàycác Tỳ-khưu, sẽ được hưởng năm kết quả: sống thọ,sắc diện tươi đẹp, sống an lạc, có sức khỏe, có biệntài".

Thêmvàođó, theo Chú Giải, để có kết quả to lớn, sự bốthí phải hội đủ 3 điều kiện thành tựu:

1.Thành tựu ruộng phước (khettasampatti), tức là nói đếnđối tượng thí, người thọ thí là bậc chánh hạnh, bậchội đủ các ân đức đặc biệt.

2.Thành tựu vật thí (deyyadhammasampatti), tức là có vậtthí đầy đủ, hợp pháp, thanh tịnh và thích hợp lợi íchcho người nhận.

3.Thành tựu tâm ý (cittasampatti), tức là tác ý bố thícó đầy đủ, có tâm tịnh tín, có tâm hoan hỷ trong ba thời:trước khi làm, đang khi làm và sau khi làm.

*

Có2 loại bố thí: bố thí tài vật (tiền bạc, thức ăn, vậtdụng) và bố thí pháp (giáo pháp, các điều hay, lẽ phải).Trong 2 loại nầy, bố thí pháp là cao quý và có nhiều lợilạc hơn, như đã dạy trong Kinh Pháp cú (354):"Bố thí Pháplà cao thượng hơn tất cả các pháp bố thí khác".

TrongKinh Phật Thuyết Như Vậy (kinh số 98), Đức Phật dạy: "Cóhai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Trong đó,bố thí Pháp là bố thí tối thượng. Có hai sự phân phát:Phân phát tài vật và phân phát Pháp. Trong đó, phân phát Pháplà phân phát tối thượng. Có hai loại giúp đỡ: giúp đỡbằng tài vật và giúp đỡ bằng Pháp. Trong đó, giúp đỡbằng Pháp là giúp đỡ tối thượng."

TrongTăng Chi Bộ, Chương Một Pháp: "Có hai loại bố thí: Bốthí tài vật và bố thí Pháp. Trong đó, bố thí Pháp là tốithắng."

TrongTương Ưng Bộ, Tập I, Chương I, có ghi lại câu chuyện trongmột đêm nọ, một vị thiên tử đến hỏi Đức Thế Tôn:

Chogì là cho lực?
Chogì là cho sắc?

Chogì là cho lạc?

Chogì là cho mắt?

Chogì cho tất cả?

Xinđáp điều con hỏi?
ĐứcThế Tôn trả lời:Choăn là cho lực,
Chomặc là cho sắc,

Choxe là cho lạc,

Chođèn là cho mắt.

Aicho chỗ trú xứ,

Vịấy cho tất cả.

Aigiảng dạy Chánh Pháp,

Vịấy cho bất tử.
Cũngcần ghi nhận ở đây là có nhiều người thường than phiềnrằng vì điều kiện sinh hoạt làm ăn khó khăn, hay vì hoàncảnh gia đình, nên họ không có dư tiền của để thực hiệnhạnh bố thí. Tuy nhiên, đó chỉ là các bố thí tài vật.Đức Phật có dạy rằng nếu người nào giữ lòng tịnh tín,quy y Tam Bảo và giữ tròn 5 giới căn bản, thì đó là đạibố thí, và là nguồn công đức vô lượng cho chúng sinh, vìngười ấy mang lại sự an vui, thương yêu hài hòa đến chomọi người, mọi loài sống chung quanh người ấy. Trong TăngChi Bộ, Chương Tám Pháp, Đức Phật dạy:

"Cótámnguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện, mónăn cho an lạc, làm nhân sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưađến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnhphúc, an lạc. Đó là:

-Quy y Phật, Pháp, Tăng là 3 nguồn nước đầu;

-5 nguồn nước kế là giữ tròn 5 giới căn bản. Đó cũnglà 5 đại bố thí, bởi vì làm được như thế, sẽ đem chosự không sợ hãi (vô úy) cho vô lượng chúng sanh, đem chosự không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho sự khônghại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh,không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ đượcsan sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại."

Cũngxin ghi nhận thêm là trong vài tài liệu kinh sách phát triểnvề sau nầy, ngoài Bố thí Tài và Bố thí Pháp, còn có đềcập đến một loại thứ ba là Bố thí Vô úy, tức là mangđến, san sẻ sự không sợ hãi, không hận thù, không hại.Theo thiển ý, có thể xem Bố thí Vô úy là kết quả củaTài thí và Pháp thí, không cần phải tách ra thành một phânloại riêng biệt.

*

Nếuchỉthực hành hạnh Bố Thí không thôi thì cũng chưa trònđủ. Trong Tăng Chi Bộ, Chương Năm Pháp, Ngài Xá Lợi Phấtcó dạy ông Cấp Cô Độc rằng cúng dường, bố thí tứ vậtdụng, tuy tạo nhiều phước báu, nhưng cũng chưa đủ. Ngườicư sĩ còn phải gắng tu tập thiền định, để được hỷlạc do tâm xả ly sinh ra. Lời khuyên nầy được Đức Phậtđồng ý và khen ngợi.

Dođó, kinh điển nguyên thủy còn ghi lại việc thực hành phápquán niệm về lòng Bố Thí, hay "Niệm Thí", như là một trong6 pháp tùy niệm cần phải tu tập. Trường Bộ, kinh 34, cóghi:

"Thếnào là sáu pháp cần phải tu tập? Đó là sáu tùy niệm xứ:Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, Giới tùy niệm,Thí tùy niệm, Thiên tùy niệm. Ðó là sáu pháp cần phảitu tập."

VàĐức Phật giải thích thêm cho ông Mahànàma về niệm Thínhư sau (Tăng Chi Bộ, Chương Mười Một Pháp):

"NàyMahànàma, Ông hãy niệm Thí như sau: "Thật là được lợicho ta! Thật là khéo được lợi cho ta! Vì rằng với quầnchúng bị cấu uế xan tham chi phối, ta sống trong gia đình,với tâm không bị cấu uế của xan tham chi phối, bố thírộng rãi, với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng,để được yêu cầu, ưa thích phân phát vật bố thí".

NàyMahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Thí, tâm củavị ấy không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh,tâm không bị si ám ảnh; trong khi ấy, tâm được chánh trựcnhờ duyên Thí. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma, với tâmchánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tínthọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan,hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân khinh an, cảmgiác lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh. NàyMahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạtđược bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạtđược vô sân với chúng sanh có sân, nhập được dòng lưucủa Chánh Pháp, và tu tập tùy niệm Thí."

TrongTăng Chi Bộ, Chương Một Pháp, ngoài 6 đề mục quán niệmnêu trên, còn ghi thêm 4 đề mục khác là niệm Hơi thở, niệmChết, niệm Thân, và niệm Tịch tịnh, như sau:

"Cómột pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm chosung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt,an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy làgì? Chính là niệm Phật... niệm Pháp... niệm Tăng... niệmGiới... niệm Thí... niệm Thiên... niệm Hơi thở... niệm Chết...niệm Thân... niệm Tịch tịnh. Chính một pháp này, này cácTỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đếnnhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắngtrí, giác ngộ, Niết-bàn".

Xingiải thích tóm tắt:

1.Niệm Phật (buddhànussati)là niệm tưởng mườiân đức của Phật.
2.Niệm Pháp(dhammànussati)là niệm tưởng sáu ânđức của giáo pháp.
3.Niệm Tăng(sanghànussati) là niệm tưởng chín ânđức của Tăng chúng.
4.Niệm Giới(sìlànussati)là niệm tưởng giớithanh tịnh của mình.
5.Niệm Thí(càgànussati)là niệm tưởng hạnh bốthí xả tài của mình.
6.Niệm Thiên(devatànussati)là niệm tưởng các cônghạnh tác thành chư thiên và xét lại công hạnh mình có.
7.Niệm Chết(maranàsati)là suy niệm sự chết đã,đang và sẽ đến với chúng sanh luôn cả ta, để làm cho tâmkhông dể duôi.
8.Niệm Thân hành(kàyagatàsati)là suy niệm thânnày cho thấy rằng bất tịnh, uế trược, ổ bệnh tật, khảố, thực tính thân này là như vậy, v.v. để từ bỏ sựluyến ái.
9.Niệm Hơi thở(ànàpànàsati)là niệm về hơithở vô, hơi thở ra, để trừ sự phóng tâm.
10.Niệm Tịch tịnh(upasamànussati)là suy niệm trạngthái Niết-bàn, nơi không còn phiền não và đau khổ, mộttrạng thái vắng lặng tuyệt đối.
Đểtu tập về pháp quán niệm lòng Bố Thí, có thể xem thêm cáchướng dẫn chi tiết của ngài Luận sư Phật Âm (Buddhaghosa)trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi-magga), do Ni sư TríHải dịch Việt, ở Chương VII, đoạn viết về Niệm Thí.

*

Tómlại,Bố Thí là một đức hạnh cao quý mà Đức Phật khuyêntất cả Phật tử chúng ta cần phải tu tập. Bố thí có 2loại: Bố thí Tài và Bố thí Pháp, trong đó, Bố thí Pháplà cao thượng hơn. Khi bố thí, chúng ta phải có chánh niệmvà trí tuệ để nhận thức rõ ràng về vật bố thí, cáchthức bố thí, đối tượng nhận bố thí, và tâm ý của chúngta khi làm chuyện bố thí. Bố thí cần phải phát nguồn từlòng tịnh tín nơi Tam Bảo và tròn đủ giới hạnh để đemlại sự an vui đến cho muôn loài. Cuối cùng, chúng ta cầnphải hành thiền, trong đó, quán niệm về lòng Bố thí làmột pháp môn quan trọng cần phải được tu tập.

Perth,tháng 7-2004

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 76819)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 121074)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24398)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13257)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8531)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15445)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 19066)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17200)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34525)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
27/05/2013(Xem: 6481)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ,Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần (Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến chỗ đức Phật đảnh lễ rồi đứng một bên. Khi ấy, đức Phật hỏi: -Này Bà La La, có phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc,vui vẻ, sức mạnh, cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567