Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9. Về Pháp Tu Thiền

01/02/201111:44(Xem: 8703)
9. Về Pháp Tu Thiền

CĂN BẢNPHẬT GIÁO
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TL. 2005 - PL. 2549
VềPháp Tu Thiền

BìnhAnson

---*---

Trướchết,chúng ta hãy thử tự trả lời câu hỏi: Thiền là gì?Một câu hỏi tuy đơn giản, nhưng có lẽ sẽ có nhiều lốitrả lời khác nhau.

Theongữ nguyên, Thiền là cách nói tắt của chữ "thiền-na",là lối phiên âm Hán Việt của chữ Phạn Jhana, hay Dhyanatrong Sanskrit. Thiền-na, trong kinh điển nguyên thủy, dùng đểchỉ mức độ an định đặc biệt khi luyện tâm.

Thiềncòn được dùng để dịch chữ BhàvanaSamadhi.Bhàvanacó thể được hiểu như là một sự tiến triển,phát triển tâm linh, sự tu tâm, luyện tâm. Tiếng Anh thườngdịch là Mental development. Samadhithường đượcdịch là Định, Thiền định, Tâm định. Tiếng Anh thườngdịch là Concentration, Meditation.

Ngaytrong ngôn ngữ Thái Lan, họ cũng không có một từ chuyên mônđể dịch. Thông thường, để chỉ công phu ngồi hành thiền,họ dùng chữ "Nắng Samadhi"("nắng"là ngồi),hay "Nắng Bhavana". Thỉnh thoảng, họ dùng chữ "NắngThang-nay"nghĩa là "ngồi và quay nhìn vào bên trong".

Theothiển ý, có thể dịch chữ "bhàvana"là: tu thiền,tu tâm, luyện tâm, lọc tâm, dưỡng tâm. Còn chữ "samadhi"thì tùy theo ngữ cảnh. Nếu được dùng trong nghĩa "chánhđịnh" (samma samadhi), một trong 8 chi phần của Bát ChánhĐạo, thì chữ nầy có liên quan đến các tầng thiền-na,và thường được xem như cùng nghĩa với "samatha-bhàvana",dịch là Thiền An Chỉ, hay Thiền Chỉ. Nếu được dùng trongnghĩa tam vô lậu học Giới Định Tuệ, thì có nghĩa là baogồm 3 chi: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định của BátChánh Đạo.

TheoTiến sĩ Muller, một học giả Bắc tông, tác giả quyển Tựđiển Thuật ngữ Phật học Đông Á (Dictionary of East AsianBuddhist Terms), Thiền Định là tiếng ghép đôi, từ chữPhạn là "Thiền" (từ "thiền-na") và chữ Hán là "Định",có nghĩa là quay nhìn vào bên trong, với trạng thái tĩnh lặng.

Cưsĩ Đoàn Trung Còn, một học giả Bắc tông khác, trong quyểnPhật học Từ điển, cho biết rằng Thiền là từ chữ "Thiền-na",phiên âm từ tiếng Phạn "Jhana, Dhyana". "Thiền định"dùng để dịch chữ "Samadhi", phiên âm là Tam-ma-địa,Tam-muội. Có khi dịch là "tĩnh lự", nghĩa là làm cho an tĩnhđể suy xét (tư lự).

TheoTự điển Phật Học Huệ Quang, Dhyànahay Jhàna,ngoài tiếng phiên âm là Thiền-na, còn được phiên âm làĐà-diễn-na, Trì-a-na; dịch là Tĩnh lự, Tư duy tu tập, nghĩalà tư duy trong sự vắng lặng.

*

VìThiền có liên quan đến Con Đường Tám Chánh đưa đến giácngộ giải thoát, ở đây, chúng ta cũng nên ôn lại lời Phậtdạy về 8 chi phần của con đường nầy.

TươngƯng Bộ, Tập 5, có ghi như sau:

"Nàycác vị Tỳ-khưu, thế nào là chánh tri kiến? Đó là sự thônghiểu về khổ, sự thông hiểu về nguyên nhân của khổ, sựthông hiểu về sự diệt khổ, và sự thông hiểu về con đườngdiệt khổ.

Thếnào là chánh tư duy? Đó là tư duy về sự xuất ly, tư duyvề vô sân, tư duy về vô hại.

Thếnào là chánh ngữ? Đó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hailưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm.

Thếnào chánh nghiệp? Đó là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy củakhông cho, từ bỏ hành động tà dâm.

Thếnào là chánh mạng? Đó là đoạn trừ tà mạng, nuôi sốngvới chánh mạng.

Thếnào là chánh tinh tấn? Đó là tinh tấn ngăn chận không chokhởi sanh các bất thiện pháp chưa sanh, tinh tấn trừ diệtcác bất thiện pháp đã sanh, tinh tấn phát khởi các thiệnpháp chưa sanh, và tinh tấn duy trì các thiện pháp đã sanh.

Thếnào là chánh niệm? Đó là sống quán thân trên thân, nhiệttâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trên đời; sốngquán thọ trên thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọitham ưu trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnhgiác, điều phục mọi tham ưu trên đời; sống quán pháp trêncác pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trênđời.

Thếnào là chánh định? Đó là ly dục, ly pháp bất thiện, chứngvà trú Thiền-na thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do lydục sanh, có tầm, có tứ; rồi làm cho tịnh chỉ tầm vàtứ, chứng và trú vào Thiền-na thứ hai, một trạng thái hỷlạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm;rồi ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sựlạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứngvà trú vào Thiền-na thứ ba; rồi xả lạc, xả khổ, diệthỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào Thiền-na thứtư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh."

Quađoạn kinh trên, có 2 điều quan trọng cần ghi nhận:

1)Chánh Định là công tác tu tập để đem tâm an trú vào 4 Thiền-na,sau khi đoạn trừ các dục, các bất thiện pháp - ở đâythường được hiểu là đoạn trừ 5 triền cái: tham dục,sân hận, hoài nghi, hôn trầm thụy miên, và trạo hối; vàthay thế bằng 5 thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.Sau đó lần lượt xả bỏ 4 thiền chi đầu: tầm, tứ, hỷ,lạc, chỉ còn giữ lại một trạng thái tâm chuyên nhất,thanh tịnh, và tỉnh thức ở tầng thiền-na thứ tư.

2)Nếu xem Định trong tam học Giới-Định-Tuệ là gồm 3 chicuối của Bát Chánh Đạo, thì Chánh Niệm và Chánh Địnhcần phải thực hành chung với nhau, dựa trên Chánh Tinh Tấn.

*

Tuthiền, hành thiền, định tâm là một công phu tu tập tốiquan trọng để phát khởi tuệ giải thoát, và thường đượcghi lại trong rất nhiều bài kinh giảng của Đức Phật. Địnhtrong Con Đường Tám Chánh đã được Đức Phật tuyên bốngay trong bài giảng đầu tiên sau khi Thành Đạo, bài kinh ChuyểnPháp Luân. Trong những ngày cuối cùng còn tại thế, Ngài tómtắt về các pháp tu tập qua 37 phần bồ đề, trong đó, "Định"được đề cập trong các nhóm: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giácchi, và Bát chánh đạo, như đã ghi lại trong kinh Đại BátNiết Bàn của Trường Bộ.

Ngoàira, theo Hòa thượng Thích Minh Châu, trong quyển "Hành Thiền",có bốn lợi ích hay bốn công năng của Thiền:

1)Thiền có khả năng đoạn trừ các tham dục qua mắt, tai, mũi,lưỡi, thân.

2)Thiền có khả năng đối trị sợ hãi, giúp hành giả có thểtu tập trong bất cứ hoàn cảnh nào.

3)Thiền đem lại hỷ lạc cho hành giả.

4)Thiền đưa đến thành tựu trí tuệ, đưa đến giác ngộgiải thoát, đưa đến Niết bàn.

TrongKinh Pháp Cú, kệ 282, Đức Phật dạy:

Tuthiền, trí tuệ sanh,
Bỏthiền, trí tuệ diệt.
Trongkệ 372, Ngài khuyên:Khôngtrí tuệ, không thiền,
Khôngthiền, không trí tuệ.

Ngườicó thiền, có tuệ,

Nhấtđịnh gần Niết Bàn.
TrongTương Ưng Bộ, Tập 5, Ngài dạy rằng Bát Chánh Đạo chínhlà cỗ xe tối thượng, là Pháp Thừa, để chiến thắng tham-sân-si:

-Này Ànanda, cần phải hiểu như thế này: "Cỗ xe thù thắng,cỗ xe pháp vô thượng - pháp thừa - là sự chinh phục trongchiến trận chống tham, sân, si. Cỗ xe pháp nầy chính là ConĐường Tám Chánh".

RồiĐức Thế Tôn dạy thêm rằng vật dụng để tạo cỗ xe đólà Giới luật, Thiền là trục bánh xe và Niệm là ngườiđánh xe.

*

TrongTrungbộ 24, Kinh "Trạm Xe", ngài Xá-lợi-phất giảng về 7trạm xe, ám chỉ 7 giai đoạn thanh tịnh hóa của một ngườitu Phật: Giới thanh tịnh, Tâm thanh tịnh, Kiếnthanh tịnh, Đoạn nghi thanh tịnh, Ðạo phi đạo tri kiến thanhtịnh, Ðạo tri kiến thanh tịnh,Tri kiến thanh tịnh.Trong đó:

1)"Giới thanh tịnh"là tuân giữ nghiêm túc các học giớiđã thọ.

2)"Tâm thanh tịnh"là nhiếp phục năm triền cái, đưatâm an trú vào các thiền-na.

3)"Kiến thanh tịnh"là phân biệt Danh-Sắc, sự thấy đúngdanh và sắc như vậy, một sự thấy đã được an lập trênsự không mê mờ, do đã vượt qua ảo tưởng về tự ngã.

4)"Đoạn nghi thanh tịnh"là thấy rõ quá trình tâm lývà vật lý tự phô bày sự thật Duyên khởi, sự tồntại và sự tan rã của các cảm thọ, các tưởng, không cònnghi ngờ gì nữa.

5)"Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh"là biết rõ cáccảm thọ hỉ, lạc đều là chướng ngại cho sự phát triểntrí tuệ rộng lớn, liền giác tỉnh, rồi khởi cảm thọ.Hành giả đắc được trí biết rõ cái gì là Đạo và cáigì là chướng đạo (hay Phi đạo). Bấy giờ, hành giảtự mình biết chắc rằng: giờ đây ta mới thực sự hạnhphúc.

6)"Đạo tri kiến thanh tịnh"là thấy rõ quá trình thựchành, tu tập; thấy rõ hiện tượng tan rã của các quá trìnhthân và tâm, thấy không có gì hiện hữu nữa; các đối tượngchú tâm đều tan rã. Hành giả thấy rõ ba pháp ấn: khổ,vô thường, vô ngã.

7)"Tri kiến thanh tịnh"là tâm hoàn toàn thanh tịnh do thấyvà biểt. Trong giai đoạn này, hành giả đi vào các tầng thánhĐạo-Quả (Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, và A-la-hán), sau khithành tựu Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát Chánh đạo.

Bảygiai đoạn thanh tịnh nầy được triển khai trong bộ luậnThanh Tịnh Đạo của ngài Phật Âm (Buddhaghosa), trong đó, có3 phần: Giới, Định, và Tuệ. Phần đầu là tu tập về Giới,để đưa đến thanh tịnh đầu tiên là Giới thanh tịnh.Tiếp đến là phần tu tập Định, có đề cập đến pháttriển các tầng thiền-na. Tu tập Định đưa đến Tâm thanhtịnh. Từ đó, làm nền tảng để tu tập Tuệ, ở phầnthứ 3 của bộ luận, để đưa đến các thanh tịnh kế tiếplà: Kiến thanh tịnh, Đoạn nghi thanh tịnh, Ðạo phi đạotri kiến thanh tịnh, Ðạo tri kiến thanh tịnh Trikiến thanh tịnh.

*

Trongbàikinh số 107, thuộc Trung Bộ, Đức Phật giảng cho ngườiBà-la-môn Ganaka Moggallàna, tóm tắt con đường tu tập, nhưsau:

-giữ gìn giới hạnh,
-hộ trì các căn,
-tiết độ ăn uống,
-chú tâm cảnh giác,
-thành tựu chánh niệm tỉnh giác,
-tìm nơi thanh vắng để hành thiền,
-loại trừ 5 triền cái,
-an trú vào 4 tầng thiền-na.Và cácbước tu tập này áp dụng cho bậc hữu học - tức là cácvị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai - lẫn các bậc vô học, tứclà các vị thánh A-la-hán giải thoát.

Thêmvàođó, theo kinh Sáu Thanh Tịnh, Trung Bộ 112, sau khi an trúvào 4 tầng thiền-na, Đức Phật khuyên các vị Tỳ-khưu hữuhọc phải tiếp tục hành trì, phát triển các tuệ minh vàtiến tới giải thoát:

Saukhi an trú trong Tứ Thiền, với tâm định tĩnh, thuần tịnh,không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướngtâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây làkhổ", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của khổ", biếtnhư thật: "Ðây là khổ diệt", biết như thật: "Ðây là conđường đưa đến khổ diệt", biết như thật: "Ðây là nhữnglậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậuhoặc", biết như thật: "Ðây là các lậu hoặc được đoạntrừ", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến cáclậu hoặc được diệt trừ".

Vịấy nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vịấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏivô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy,vị ấy khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát"". Vịấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cầnlàm đã làm; không còn trở lui trạng thái này nữa".

Cũngxin ghi nhận ở đây, ngay trong chương đầu tiên của bộ luậnThanh Tịnh Đạo, ngài Phật Âm trích lời Phật dạy trong TươngƯng, Tập 1:

Ngườitrú giới có trí
Tutập tâm và tuệ

Nhiệttâm và thận trọng

Tỳ-khưuấy thoát triền.
NgàiPhật Âm giải thích: "người trú giới có trí" là ngườicó giới thanh tịnh, có hiểu biết rõ ràng dựa trên vô tham,vô sân, vô si. "Tu tập tâm" ở đây là pháp hành thiền anchỉ, "tu tập tuệ" ám chỉ hành thiền minh quán , "tu tậptâm và tuệ" có nghĩa là hành thiền Chỉ-Quán, hay Chỉ-Quánđồng tu. "Nhiệt tâm và thận trọng" có nghĩa là có nhiềunghị lực, tinh tấn và tỉnh giác nhận thức. "Tỳ-khưu" -bhikkhu- ở đây mang một nghĩa rộng, không phải để chỉhàng tu sĩ, mà để chỉ người thấy được sự khốn khổcủa sinh tử luân hồi. "Thoát triền" là thoát khỏi mọi tróibuộc của sinh tử luân hồi. Như thế, qua câu kệ trên, ĐứcPhật dạy chúng ta phải an trú trong Giới, tu tập thiền Định,phát triển Tuệ quán, để giác ngộ giải thoát.

*

Đôikhi,trong kinh tạng, Đức Phật có đề cập đến hai phápthiền: (1) thiền an chỉ hay thiền chỉ (samatha-bhavana),và (2) thiền minh quán (vipassana-bhavana)hay thiền quán.Hai pháp Chỉ-Quán nầy cần phải được phát triển đồngđều, bổ túc cho nhau.

TrongTăng Chi Bộ, Chương Hai Pháp, Đức Phật dạy:

Cóhai pháp này, này các Tỳ-khưu, thuộc thành phần minh. Thếnào là hai? Chỉ và Quán. Chỉ được tu tập, sẽ được lợiích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, sẽ đượclợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận. Quánđược tu tập, sẽ được lợi ích gì? Tuệ được tu tập.Tuệ được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Cái gì thuộcvô minh được đoạn tận. Bị tham làm uế nhiễm, này cácTỳ-khưu, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uếnhiễm, tuệ không được tu tập. Vì vậy, do ly tham, là tâmgiải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát.

Trongkinh Kimsuka, Tương Ưng Bộ, Thiên Sáu Xứ, Ngài có ví dụ pháptu Chỉ-Quán như là hai vị thiên sứ cùng đến báo cáo chovị chủ một ngôi thành ở vùng biên giới về tình trạngan ninh, bảo vệ phòng chống quân địch. Vị chủ thành đólà Tâm Thức của chúng ta, và địch quân ở đây là các phiềnnão lậu hoặc. Người giữ cửa thành là Niệm, và thành cósáu cửa là sáu căn. Như thế, ta dùng Niệm để canh giữsáu căn, và nhờ có tu tập thiền Chỉ-Quán mà ta có thểngăn chận và phòng chống được các phiền não do lậu hoặcmang đến.

*

Tómlại,Thiền định là một pháp môn tu tập cần thiết củangười con Phật. Thiền định giúp tạo một khả năng bềnvững để có đời sống thiện, hướng thiện, và cứu cánhlà thiện. Thiền có thể được xem là một tiến trình huântập về cảm thọ, nuôi dưỡng các cảm thọ tốt đẹp nhưhỷ, lạc, xả, và từ bỏ các cảm thọ không tốt đẹp,như khổ, ưu. Đây là một sự giáo dục tâm lý, đoạn tậncác tâm lý không tốt đẹp như năm triền cái vốn bắt nguồntừ tham sân si, và thay thế bởi những tâm lý tốt đẹp lànăm thiền chi, có căn bản là không tham, không sân, và khôngsi. Thiền định là một giai đoạn tiếp theo việc vun bồiGiới đức, và là nền tảng để bước vào giai đoạn kếlà phát triển Tuệ giác.

Perth,Tây Úc, tháng 7-2004


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 76633)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 120490)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24342)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13205)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8506)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15405)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 18931)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17156)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34147)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
27/05/2013(Xem: 6463)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ,Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần (Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến chỗ đức Phật đảnh lễ rồi đứng một bên. Khi ấy, đức Phật hỏi: -Này Bà La La, có phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc,vui vẻ, sức mạnh, cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567