Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới Thiệu

15/12/201015:21(Xem: 12067)
Giới Thiệu

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

GiớiThiệu

Trong giới thiệu tổng quát vềPhật Pháp, như được thực hành bởi những người Tây Tạng, tôi đưa ra một cáchchung rằng Phật Pháp mà chúng tôi thực hành là một hình thức phối hợp từ phần hạcủa giáo lý, Bồ-tát thừa và Kim Cương thừa, gồm có những lộ trình như Đại thủ ấn.Do bởi hầu như mọi người đã tiếp nhận quán đảnh, giáo lý và v.v…họ có thể tìmthấy lợi lạc để có một sự giải thích về cấu trúc hoàn toàn [của đạo pháp tu tập].

Chúng ta nếm trải đời sốngmình một cách thật bận rộn. Cho dù chúng ta cư xử tốt hay xấu, thời gian khôngbao giờ chờ đợi chúng ta, mà nó tiếp diễn thay đổi mãi mãi. Thêm nữa, đời sốngcủa chính chúng ta tương tục đi tới, cho nên nếu điều gì đó lầm lỡ xảy đến, chúngta không thể làm lại. Cuộc đời thì luôn không đủ thời gian. Do thế, điều rấtquan trọng là thẩm tra thái độ tinh thần của mình. Chúng ta cũng cần liên tụcthẩm tra chính mình trong đời sống ngày qua ngày, điều ấy rất lợi ích để cung cấpcho chính chúng ta những sự hướng dẫn. Nếu chúng ta sống mỗi ngày với tỉnh thứcvà chính niệm[1],chúng ta có thể giữ một sự kiểm soát trên động cơ và thái độ của mình. Chúng tacó thể cải thiện và chuyển hóa chính mình. Mặc dù tôi đã thay đổi và cải thiệnchính mình rất nhiều, tôi có một mong ước tiếp tục để làm như thế. Và trong đờisống hằng ngày của chính tôi, tôi đã tìm thấy nó rất lợi ích để giữ gìn một sựkiểm soát động cơ của chính tôi từ buổi sáng cho đến tối.

Trong thời gian giảng dạynày, những gì tôi diễn tả sẽ là công cụ thiết yếu mà chúng ta nhờ đấy để cảithiện chính mình. Giống như chúng ta có thể mang não bộ của mình đến một phòngthí nghiệm để kiểm tra những chức năng tinh thần của chúng ta một cách sâu sắchơn, vì thế chúng ta có thể làm đổi mới chúng trong một phương cách tích cựchơn. Cố gắng để thay đổi chính mình tốt đẹp hơn là quan điểm mà một hành giả Phậttử nên tiếp nhận.

Người thuộc các truyền thốngtôn giáo khác, gồm những ai có một sự hứng thú với Phật giáo và những ai tìm thấycác đặc trưng của sự thực hành Phật giáo như những kỹ năng thiền [thiền tập]cho việc phát triển đặc tính hấp dẫn của từ ái và bi mẫn, đều có thể lợi lạc bằngviệc phối hợp chúng vào trong truyền thống và sự thực tập của chính họ.

Trong những kinh luận Phậtgiáo, nhiều hệ thống về tín tâm và truyền thống được giải thích. Những hệ thốngnày là những cổ xe [thừa], những cổ xe của trời và người [thiên thừa và nhân thừa]và cổ xe thấp [Tiểu thừa], những cổ xe lớn [Đại thừa], và cổ xe của Mật thừa[Kim cương thừa].

Những cổ xe của trời và ngườiở đây là hệ thống mà nó phát họa những phương pháp [phương tiện] và kỹ năng choviệc mang đến một sự cải thiện tốt hơn nội trong đời sống này hay đạt đến một sựtái sinh thuận lợi hơn trong tương lai như một con người hay một vị trời. Một hệthống như thế nhấn mạnh tầm quan trọng đến việc duy trì một thái độ tốt lành. Bằngsự thực hành những hành động thiện nghiệp và tránh xa những hành vi tiêu cực,chúng ta có thể hướng dẫn đời sống giới đức của mình và có khả năng đạt đến mộtsự tái sinh thuận lợi trong tương lai.

Đức Phật cũng nói về một cổxe đặc trưng khác, Phạm-thiên thừa, mà nó bao gồm những kỹ năng của thiền tậpmà nhờ đấy một người có thể thu rút sự chú ý của mình khỏi những đối tượng bênngoài và đưa tâm thức vào bên trong, cố gắng cải thiện sự tập trung nhất tâm.Qua những kỹ năng như thế chúng ta có thể đạt đến một hình thức cao nhất khả dĩcủa sự sống trong vòng luân hồi.

Từ quan điểm của Đạo Phật,do bởi những hệ thống khác nhau đem đến lợi ích lớn lao cho nhiều chúng sinh,nên tất cả đều đáng được tôn trọng. Tuy thế, những hệ thống này không cung ứngbất cứ một phương pháp nào để đạt đến giải thoát, đấy là, sự giải thoát khỏi khổđau và sinh tử luân hồi. Những phương pháp để đạt đến một thể trạng giải thoátnhư thế có thể làm cho chúng ta vượt thắng si mê, là nguyên nhân cội rể của sựtrôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi của chúng ta. Và hệ thống bao hàm nhữngphương pháp cho việc đạt đến tự do khỏi vòng sinh tử được gọi là Thinh Văn thừahay Độc Giác thừa.

Trong hệ thống này, quan điểmvề vô ngã được giải thích chỉ trong dạng thức của con người [nhân vô ngã] khôngphải đối với hiện tượng, trái lại trong Đại thừa, quan niệm về vô ngã không chỉgiới hạn trong con người mà thôi, mà bao quát trong tất cả mọi hiện tượng [phápvô ngã]. Khi quan điểm về vô ngã này làm sinh khởi một sự thấu hiểu thậm thâm,thì chúng ta có thể loại trừ không chỉ vô minh và những cảm xúc phiền não sinhkhởi từ chúng, mà kể cả những dấu vết nghiệp [tập khí nghiệp] lưu lại cũng đượcxóa sạch. Hệ thống này được gọi là Đại thừa hay cổ xe lớn.

tongquan-02
Ảnh: Phật Thích-ca Mâu-ni

Cổ xe cao cấp nhất được biếtlà Kim Cương thừa bao gồm không chỉ những kỹ năng cho sự tăng cường sự thực chứngcủa chính chúng ta về tính Không hay tâm giác ngộ [Bồ-đề tâm], mà còn gồm những kỹ năng xác địnhcho sự thâm nhập [khai mở] nhữngđiểm [huyệt hay luân xa] quan trọng của thân thể. Bằng việc sử dụng những yếu tốvật lý của thân thể, chúng ta có thể đẩy nhanh tiến trình thực chứng, loại trừvô minh và những dấu vết của nó. Đây là chức năng chính của Kim Cương thừa.

Tôi sẽ giải thích những điểm này trong chi tiếtsâu rộng hơn từ một quan điểm tiến hóa hay lịch sử.

Theo quan điểm của KashmiriPandit Shakyashri, người đã đến Tây Tạng, thì đức Thế Tôn đã sống ở Ấn Độ hơn2.500 năm trước đây. Điều này căn cứ trên quan điểm phổ biến củaPhật giáo Nguyên Thủy, nhưng theo một số học giả Tây Tạng, đức Phật xuất hiệntrên thế gian này hơn 3.000 năm trước. Một nhóm khác nói rằng hơn 2.800 năm. Nhữngngười đề xuất khác biệt này cố gắng hỗ trợ giả thuyết của họ với những lý dokhác nhau, nhưng cuối cùng họ hầu như mơ hồ.

Cá nhân tôi cảm thấy rất hổthẹn rằng không ai, kể cả trong những Phật tử biết vị Thầy của chúng ta, đức ThếTôn Thích-ca Mâu-ni thực sự sống vào lúc nào. Tôi đã từng quan tâm một cáchnghiêm chỉnh rằng liệu có một nhà khoa học nào khả dĩ làm sáng tỏ điều này haykhông. Những ngọc xá lợi sẳn có ở Ấn Độ và Tây Tạng, mà vốn mọi người tin tưởnglà phát xuất từ chính đức Phật. Viên ngọc xá lợi này được kiểm nghiệm với nhữngkỹ thuật hiện đại, chúng ta có thể xác lập được các ngày tháng chính xác, điềunày sẽ rất hữu ích.

Chúng ta biết một cách lịchsử rằng đức Phật đã sinh ra như một con người bình thường như chính chúng ta.Ngài đã lớn lên như một hoàng tử, kết hôn và có một con trai. Rồi thì, sau khiquán sát sự khổ đau của con người, tuổi già, bệnh tật, và chết chóc, Ngài hoàntoàn từ bỏ lối sống thế tục. Ngài đã trải qua những khổ hạnh cực kỳ khốc liệtvà với một nổ lực to lớn thực hành thiền định dài lâu, cuối cùng Ngài đã giácngộ hoàn toàn.

Tôi cảm thấy rằng cung cáchmà Ngài đã chứng minh làm thế nào để trở nên hoàn toàn giác ngộ đã làm nên mộtthí dụ tuyệt hảo cho môn đồ của Ngài, vì đây là cung cách mà qua đó chúng tanên theo đuổi lộ trình tâm linh của chính mình. Tịnh hóa tâm thức của chínhchúng ta là điều hoàn toàn không dễ; nó cần rất nhiều thời gian và thực hànhchăm chỉ. Do thế, nếu chọn lựa để đi theo giáo huấn này, chúng ta cần năng lựcý chí vô vàn và quyết định đúng đắn ngay từ lúc khởi đầu, chấp nhận rằng sẽ có rất,rất nhiều chướng ngại, và giải quyết điều đó bất chấp tất cả chướng ngại, chúngta sẽ tiếp tục sự thực hành. Loại quyết tâm này là rất quan trọng. Đôi khi, tưởngchừng như đối với chúng ta thì do đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt đến giác ngộqua những sự hy sinh và thực hành gian khó vô cùng, chúng ta, các môn đệ củaNgài, có thể đạt đến giác ngộ Phật quả mà không phải qua những gian khổ cùngkhó khăn như Ngài đã trải qua. Do vậy, tôi nghĩ rằng chính câu chuyện của đứcPhật đã nói lên điều gì đấy với chúng ta.

Theo truyền thuyết được nhiều người biết tới, saukhi Ngài hoàn toàn giác ngộ, đức Phật đã không thuyết giảng gì trong bốn mươichín ngày. Ngài đã ban bố sự thuyết pháp lần đầu tiên cho năm người nguyên từnglà bạn đồng tu khi ngài sống như một khất sĩ. Vì Ngài đã bỏ ngang khổ hạnh, họđã từ bỏ Ngài và ngay cả khi Ngài đã trở thành một vị giác ngộ hoàn toàn, họcũng không nghĩ đến sự hòa hiệp đối với Ngài. Tuy vậy, gặp gở đức Phật trongcung cách của Ngài, họ tự nhiên và tự động bày tỏ sự tôn kính đối với Ngài, nhưmột kết quả Ngài đã chuyển pháp luân lần đầu tiên để giáo hóa họ.

tongquan-03
Tháp Dhamekh tại vườn Lộc Uyển được xây dựng từ thời vua A-Dục(249 TCN)
đánh dấu nơi đức Thích-ca chuyển Pháp Luân lần thứ nhất.



[1]Chính niệm[toàn tâm] ở đây được hiểu như là kỹ năng trong đó sự chú ý của hành giả khôngbị phân tán khỏi sự vật nào vốn nó có được như là đối tượng ban đầu.

“The Great Treaties onthe Stage of the Path to Enlightenment”. Vol3. P48. Tsongkhapa. The LamrimChenmo Committee. Tibetan Buddhist Learning Center. 2002. ISBN 1559391669

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2024(Xem: 226)
Cư sĩ Huyền Thanh, thế danh là Nguyễn Vũ Tài, sinh ngày 01/04/1958 tại Thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Thân phụ tên là Nguyễn Vũ Nhan, nguyên quán tại làng Xối Đông, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Thân mẫu tên là Vũ Thị Ni, nguyên quán tại làng Lịch Diệp, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ Nguyễn Vũ Tài đã Quy Y với Hòa Thượng Thích Thanh Chiên, Trụ trì chùa Hải Vân ở khu Ấp Chợ, xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định và được Thầy ban cho Pháp Danh là Huyền Thanh. Năm 1978, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm khoa Toán Lý và đi dạy môn Toán cấp II từ năm 1979 cho đến năm 2003 thì chuyển qua làm công tác Giám Thị ở các trường Trung học Cơ sở Ngô Quyền quận Tân Bình, trường Trung học Cơ Sở Hoàng Hoa Thám quận Tân Bình, và trường Trung học Cơ Sở Nguyễn Gia Thiều quận Tân Bình cho đến khi chấm dứt công tác vào năm 2010.
25/03/2022(Xem: 5020)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 16543)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 31306)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 16884)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 38635)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8177)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 6449)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4427)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
24/05/2019(Xem: 5452)
Sau 12 năm học tập và làm việc tại nước Nga, năm 1995 tôi về Việt Nam và vào làm việc tại công ty FPT. Chân ướt chân ráo chưa hiểu nhiều về công việc và cuộc sống trong nước, may thay tôi được anh Phan Ngô Tống Hưng, lúc đó là phó Chủ tịch HĐQT kiêm phó Tổng giám đốc dẫn đi đảnh lễ Thượng tọa Thích Viên Thành. Và thế là Thượng tọa trở thành người thầy sơ tâm đầu tiên của tôi cho đến ngày Thầy viên tịch năm Nhâm Ngọ -2002. Thượng tọa Thích Viên Thành là Tổ thứ 11 của Tùng Lâm Hương Sơn và luôn là người thầy tôn kính của tôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567