Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 10

03/05/201316:14(Xem: 3809)
Phần 10


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

PHẦN 10

ÐẠI SƯ THỨ 46

JALANDHARA

( Người được chọn)

Hãy tự ban phép lành

Gom cả ba thế giới

Nhốt vọng tưởng vào trong

Lalana bên phải

Rasana bên trái

Dưới cùng Avadhuti

Jalandhara,một người thuộc giai cấp Bà-la-môn,vì chán ghét cảnh đời nên thường hay ra nơi mộ địa để ngồi trầm tư về cuộc đời.Một hôm trong lúc mãi tư duy trong một trạng thái thanh tịnh,Jalandhara chợt nghe giọng nói của Kim Cương Thành Nữ từ trên không vọng xuống;

-Này con ! Ta chúc con có thể hiểu được chân lý rốt ráo.

Jalandhara lấy làm vui mừng nổ lực niệm danh hiệu của Thánh Nữ cho đến lúc bà hiện ra trước mặt Jalandhara và truyền cho ngài tâm pháp.Thánh nữ dạy rằng:

-Trước hết con hãy gom ba cõi và tất cả các pháp hữu vi cũng như vô vi,có tướngvàkhông tướng,nhốt chúng trong cái lồng làm bằng ba nghiệp (thân,khẩu,ý).Biến tất cả thành một khối tan chảy vào các luân xa.Chuyển hai luồng hoả hầu (lalana và rasana)vào trung tâm lực(Avadhuti)và cho thoát ra ở cổng thanh tịnh trên đỉnh đầu.Sau đó,quán tánh bất khả phân ly của các pháp và không tánh như tánh ướt không lìa khỏi nước.

Những lời dạy ẩn dụ thật là khó hiểu đối với một người bình thường nhưng Jalandhara được thiên nữ khai quang điểm nhãn nên ngài mau chóng hiểu nghĩa của pháp môn. Sau bảy năm tu tập miên mật thì ngài đắc thần thông Ðại Thủ Ấn.^

ÐẠI SƯ THỨ 47

RAHULA

(Con người lẩn thẩn)

Rahula,con người kỳ diệu

Là hành tinh rồng che khuất ánh sáng trăng

Rahula của Tri Kiến Giải Thoát và Bất Nhị

Che khuất vầng sáng của hiện tượng tương đối

Rahula sinh ra và lớn lên ở vùng Kamarupa.Tuổi già khiến ông trở nên lẩm cẩm và thường đau yếu.Ðiều này khiến mọi người trong gia đình thường phàn nàn và xem ông như một gánh nặng.Rahula cảm thấy khốn khổ và lo lắng về việc hậu sự.Ông vẫn hay lang thang ở khu mộ địa với hy vọng tìm được một chân sư để giúp ông tu tập hầu sau khi tái sinh có được một cuộc sống tốt đẹp hơn.Và dịp may đã đến,Rahula thố lộ nỗi lòng với vị sư du-già:

-Thưa thầy ! Thời thanh xuân của tôi đâ qua,cái già sồng sộc kéo đến,bệnh tật lúc nào cũng đe doạ,cái chết chưa biết đến lúc nào.Ðám con cái cháu chắt của tôi lại tỏ ra khinh nhờn,láo xược.Giờ tôi chỉ mong được bình yên đón chờ cái chết.

-Ðúng vậy ! Ðúng vậy! Nay ông đã già.Ba dòng thác Sinh,Già,Bệnh đã cuốn ông đi.Không bao lâu nữa bão chết sẽ cuốn ông.Chẳng hay ông có muốn đem theo gì trước khi vào cõi chết ?

-Thưa thầy,đó là sự bình an.

Sư khẽ hát:

Tâm không già,không chết

Tâm không mất,không còn

Tâm không đến,không đi

Muốn ngộ được bản tâm

Y pháp ta tu tập

Sư khai tâm cho Rahula và dạy:

-Hãy vận tâm quán tưởng chũng tự A ngay trên đỉnh đầu của người.Từ chũng tự ấy lưu xuất một đĩa sáng như trăng rằm và tưởng tượng các pháp đi vào đĩa mặt trăng.

Rahula nghe xong cung kính đảnh lễ sư.Từ đó,ông siêng năng tu tập cho đến khi đạt thần thông Ðại Thủ Ấn.^

ÐẠI SƯ THỨ 48

DHARMAPA

(Học giả)

Hãy rót dầu cảm xúc

Vào ngọn đèn hiện tượng

Thắp ngọn bấc sáu trần

Lửa thanh tịnh phi nhị

Ðốt ý tưởng vu vơ

Dharmapa là hiền triết xứ Bhodhinagar,dành toàn bộ cuộc đời để nghiên cứu và quảng bá phương pháp thiền định của riêng ông.Nhưng khi tuổi đã xế chiều,ông cảm thấy hình như bản thân ông còn thiếu sót một điều gì.Và có lẽ đó là một chân sư.Ông cứ ưu tư mãi về chuyện ấy.Một đêm nằm mộng,Dharmapa thấy một vị Kim Cương Thánh Nữ dạy cho kỹ thuật thiền định.Từ điềm lành ấy,ông nổ lực cầu nguyện và quán tưởng hảo tướng của vị thánh nữ ấy cho đến lúc bà hiện hình trước mặt ông.

Vị thánh nữ làm lễ quán đảnh cho ông và đọc bài kệ như sau:

Các pháp là ngọn đèn

Sắc ý là dầu,cảm thọ là bấc

Ðốt ngọn lửa trí huệ

Rót dầu vọng tưởng vào đèn ý

Ðốt bấc cảm thọ bằng lửa huệ

Ngọc như ý là đây

Sau sáu năm tu tập thì Dharmapa đắc thần thông Ðại Thủ Ấn.^

ÐẠI SƯ THỨ 49

DHOKARIPA

(Người mang bình bát)

Trời đất mông mênh,hề !

Chứa đầy trong bình bát

Trí giác là các pháp

Các pháp bất khả phân

Chân như là tuệ giác

Dhokaripa là hành khất ở thành Hoa Thị (Pataliputra).Ông luôn luôn mang theo bên mình một chiếc bình bát.Mỗi khi xin được thứ gì,Dhokaripa đều bỏ vào trong ấy.Một hôm đi khất thực suốt buổi nhưng Dhokaripa vẫn không có gì để bỏ vào bình bát,ông chán chường dừng chân,ngồi nghỉ dưới một gốc cây.Nơi đây xuất hiện một nhà du-già đến gần yêu cầu cầu ông chia xẻ một ít vật thực để lót dạ,nhưng Dhokaripa lấy làm tiếc vì khôngcó gì để cúng dường.Dù vậy,nhà sư vẫn hoan hỷ dạy:

Này Dhokaripa !

Hãy bỏ tất cả kiến thức của người

Vào trong bình bát rỗng

Và quán tưởng

Cả hai là một

Dhokaripa nhận được chân lý ấy,ngài tu tập theo lời dạy trong ba năm thì chứng đắc.Từ đó,ngài vẫn mang theo kè kè chiếc bình bát bên mình và mỗi khi có ai hỏi đến,ngài đều đáp:

Ðây là chiếc bình bát rỗng

Ta chỉ nhận của cúng dường thanh tịnh

Vì thanh tịnh là niềm vui của ta

Lành thay! Người biết được bí mật

Bí mật của Dhokaripa

Chỉ là chiếc bình bát rỗng^

ÐAI SƯ THỨ 50

MEDHINI

(Người nông dân mệt mõi)

Thông qua tuệ giác của sự hiểu biết bẩm sinh

Và phương tiện thiện xão của giáo pháp

Vì nền tảng ấy là bản chất thật của chúng sanh

Niềm lạc tịnh khởi lên,nghĩa là đến đích

Medhini là nông dân ở thành HoaThị,tình cờ gặp được chân sư của ngài nơi cánh đồng mà ông đang cày bừa.Sư truyền pháp cho ông,nhưng vì cuộc sống bận rộn khiến ông không thể thực hành thiền định như ý muốn.Medhini bèn tìm đến thầy bày tỏ trở ngại.

Sư nói:

Ý thức là cái cày

Cảm thọ là bò kéo

Cày cánh đồng nhân duyên

Gieo hạt giống trí huệ

Thu hoạch vui thanh tịnh

Medhini lảnh hội được ý của thầy bèn quay về tu tập mười hai năm thì chứng đắc./,

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2018(Xem: 6740)
Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã không chính thức giữ chức vụ này từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.
04/09/2018(Xem: 4823)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche Tu Viện Kopan, Nepal Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai, được tổ chức ở Tu Viện Kopan, Nepal, năm 1979. Bài này là trích đoạn trong Bài Thuyết Pháp thứ 9 trong khóa tu. Sandra Smith hiệu đính sơ.
03/09/2018(Xem: 7584)
Lama Zopa Rinpoche đã sáng tác một pháp tu Kim Cang Tát Đỏa ngắn, được ấn tốngtheo khổ sách bỏ túi. Nhờ vậy, bất cứkhi nào phạm giới, hay tạo ra bất kỳ nghiệp xấu ác nào khác thì ta có thểtịnh hóa điều tiêu cựcấy bằng bốn lực đối trị, không hề chậm trễ một phút giây.
15/03/2018(Xem: 14978)
Nhẫn nại là 10 pháp hành Ba la mật cho các vị Bồ Tát có ý nguyện trở thành Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác hoặc Phật Thinh Văn Giác. Những pháp hành đó là : 1- Bố thí 2- Trì giới 3- Xuất gia 4- Trí tuệ 5- Tinh tấn 6- NHẪN NẠI 7- Chân thật 8- Quyết tâm 9- Từ bi 10- Tâm xả
20/02/2018(Xem: 3941)
Đây là pho tượng đồng Tổ Sư Tống Khách Ba do Luật Sư Nguyễn Tân Hải (pháp danh: Thiện Vân) cúng dường Tu Viện Quảng Đức vào chiều ngày 19-02-2018 trong dịp Thượng Tọa Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng ghé nhà thăm Luật Sư vừa về nhà sau thời gian điều trị tại bệnh viện. Luật Sư Tân Hải là đệ tử của Hòa Thượng Chùa Phổ Quang, Phú Nhuận, anh có duyên tiếp cận và nghiên cứu về Phật Giáo Tây Tạng, Nhật Bản… do vậy mà anh sở hữu nhiều tài liệu và pháp khí quý hiếm, mà một trong số đó là pho tượng này (xem văn bản đính kèm). Thành tâm niệm ơn và tán thán công đức bảo vệ và hộ trì Chánh pháp của anh chị Luật Sư Tân Hải – Bích Thi. Nam Mô A Di Đà Phật
12/10/2017(Xem: 16024)
Cầm quyển sách trên tay với độ dày 340 trang khổ A5 do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-Trung Tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang ấn hành và nhà xuất bản Hồng Đức tái bản lần thứ 2 năm 2015. Sách này do Phật Tử Nguyên Đạo Văn Công Tuấn trao tay cho tôi tại khóa tu Phật Thất từ ngày 24 đến 31.09.2017 vừa qua tại chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc. Tôi rất vui mừng được đọc tác phẩm thứ hai của Giáo Sư Lê Tự Hỷ. Ngắm nhìn bìa sách cũng như cách in ấn của Việt Nam trong hiện tại đã tiến được 8 phần 10 so với Đài Loan hay Đức, nên tôi lại càng vui hơn nữa. Bởi lẽ từ năm 1975 đến cuối năm 2000 tất cả những kinh sách được in ấn tại Việt Nam, kể cả đóng bìa cứng cũng rất kém về kỹ thuật và mỹ thuật, nhưng nay sau hơn 40 năm, nghề in ấn Việt Nam đã bắt đầu có cơ ngơi vươn lên cùng với thế giới sách vở rồi và hy vọng rằng nghề ấn loát nầy sẽ không dừng lại ở đây.
20/08/2016(Xem: 11316)
Ai là người trí phải nên khéo điều phục cái tâm của mình phải luôn quán sát Tánh Không (sumyata) và Diệu Hữu (Amogha) của bản tâm và vạn pháp. Không ai có thể cứu chúng ta khỏi cảnh giới khổ đau, phiền não, nếu chính bản thân chúng ta cứ mãi bo bo ôm ấp, nâng niu chìu chuộng cái vỏ Ngã Pháp được tô điểm bởi Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà Kiến, và Đố kỵ.
28/04/2016(Xem: 16646)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
27/09/2015(Xem: 6358)
Phía trước, ở giữa biển mây phẩm vật cúng dường Đức Phổ Hiền, Nơi an trú của chư vị lama, Yidam, Tam Bảo và Hộ Pháp Cùng các đấng hiền thánh đã thành tựu chân lý; Xin hoan hỷ nhận mây cúng dường các phẩm vật này, và ban cho con chân lý tối thượng.
27/08/2015(Xem: 4268)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác: sự suy nghĩ truyền thống của Trung Hoa, và v.v… Có thể có sự hiểu biết sai lầm sinh khởi phổ quát hơn, qua những cảm xúc phiền não của mọi người. Có thể có sự hiểu biết sai lạc sinh khởi chỉ từ sự kiện rằng tài liệu thì khó để hiểu. Sự hiểu biết sai lạc có thể sinh khởi do bởi những vị thầy không giải thích mọi thứ một cách rõ ràng hay để những thứ hoàn toàn không được giải thích gì cả, vì thế chúng ta phóng chiếu vào chúng những gì chúng ta nghĩ chúng là như vậy. Cũng có thể là tự các vị thầy thấu hiểu sai lạc giáo huấn. Điều ấy đôi khi xảy ra. Bởi vì không phải tất cả những vị thầy đều
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567