Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 08

03/05/201316:10(Xem: 3937)
Phần 08


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

PHẦN 8

ÐẠI SƯ THỨ 36
DHARMAPA
(Kẻ không ngừng học hỏi)

Dễ xúc cảm với nọc độc nhị phân

Tâm thông thái bị đánh độc bởi sự phân tích

Lời chú nguyện của một Chân Sư

Chữa lành bệnh luân hồi trong ba cõi

Dharmapa là một thưsinh chăm chỉ.Ông đọc sách không biết chán,nhưng tiếc một điều là ông không có óc phân tích và tính nhạy bén trong việc tiếp thu các kiến thức của thầy dạy.Vì vậy ông không thể áp dụng những điều đã học vào cuộc sống thực tiễn.Ngoài ra,ông vừa học xong thì lại quên ngay.Một ngày nọ,ông gặp một nhà Du-già và thố lộ trở ngại ấy.Sư thương tình điểm đạo và truyền nội lực của một Chân sư cho Dharmapa và dạy:

Hãy như thợ rèn kia

Nấu kim loại sắt,thép

Tan chảy thành một khối

Hãy đốt cháy kiến thức

Tan vào tâm hư vô.

Dharmapa nghe qua,chợt hiểu ý của sư,ngài nhận biết rằng những điều ngài đã học cũng ở ngay trong chính bản tâm (nature of mind).^

ÐẠI SƯ THỨ 37
MAHIPA
(Con người vĩ đại)

Ngọn núi kiêu hãnh vô minh

Chôn vùi viên ngọc như ý

Giờ đây

Sự mầu nhiệm của hành vi giác ngộ

Ðã thoả đáp những điều mong ước

Kẻ nào nếm được vị giải thoát này

Nghĩa là hoàn toàn thành tựu.

Mahipa là cư dân vùng Magadha (Ma kiệt đà). Ông có một thân hình cường tráng,lực lưỡng và sức khoẻ.Vì vậy,ông thường tự ca ngợi bản thân:”Ta là kẻ khoẻ nhất mà không ai trên đời này có thể địch lại”

Một ngày nọ,Mahipa tình cờ gặp nhà sư Du-già trên đường đi vào thành,sư dừng lại nhìn ông một cách chăm chú và hỏi:

-Ngươi đang nghĩ gì trong đầu của ngươi vậy?

-Không!Không!Tôi chẳng suy nghĩ gì cả!Mahipa thối lui một bước.

-Không đâu!ngươi đang thầm nghĩ :”Ta là kẻ bất khả chiến bại”.

Nghe sư đoán đúng ý nghĩ của mình,Mahipa chợt rùng mình,tâm tư bàng hoàng, trở nên khiêm cung và rạp mình đảnh lễ Sư.

-Hãy từ bỏ lòng kêu mạn!

-Vâng!Cúi xin đại sư chỉ dạy.

Nhà sư làm phép điểm đạo và khai tâm cho Mahipa,rồi đọc bài kệnhư sau:

Các pháp tự tâm sinh

Thiền định không ngừng nghĩ

Tức thời tâm không sinh

Niết bàn thường tịch tịnh

Trừng tâm là tối hậu

Nghe xong,Mahipa thưa:

-Thưa thầy,con không hiểu.

Sư lại nói:

-Không-tính là sức mạnh vô biên.Người có sức mạnh vô biên là người thấu đạt không-tính.

Mahipa nghĩ rằng những lời dạy của sư chẳng gợi lên một vấn đề gì là khó khăn cả. Nhưng mỗi làn ông muốn nắm bắt đối tượng của thiền định thì lại thất bại,và muốn nắm bắt ý thức thì nó trơn tuột.Sau cùng,Mahipa hiểu rằng chân lý không ngằn mé, bao la như bầu trời.^

ÐẠI SƯ THỨ 38
ACINTA
(Ẩn sĩ tham lam)

Trong Thủ Aán không có đối tượng,,không có hình ảnh

Mười ngàn vọng tưởng cũng là không

Bởi chưng,các pháp là Tịnh thức

Tịnh thức cho nên ngộ lý này.

Acinta là một tiều phu ở xứ Dhanirupa,vì sự nghèo khổ bức bách của cuộc sống hàng ngày nên ông luôn luôn mơ ước đến sự giàu sang phú quí bất luận ngày đêm.Trong tâm trí lúc nào Acinpa cũng nghĩ đến cách làm thế nào để được giàu có.Khổ thay!Lực bất tòng tâm.Acinta cảm thấy đau khổ,tuyệt vọng,và không muốn tiếp xúc với người đời vì mặc cảm nghèo khó.Ông đi đến một nơi hẻo lánh để ẩn cư.Nhưng chính nơi ấy, ông gặp được Kambala.

-Người nghĩ gì mà lại xa lánh mọi người như thế?

-Tâm trí tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi sự giàu sang nên không thanh thản được

-Có một cách để từ bỏ sự tham đắm ấy.Nếu ngươi phát nguyện tu tập ta sẽ truyền cho

Acinta lấy làm hoan hỷ,cầu xin:

-Tôn sư từ bi hoá độ cho đệ tử.

Sư nói:

Tham đắm mà làm chi

Khác gì gái lỡ thì

Hãy gạn lọc Tâm,ý

Quán “Thân” như cõi trời

Quán “Ý”là tinh tú

Tài thần tự hiện ra.

Cúng dường bậc hiền giả.

Acinta vâng mệnh tu tập theo lời thầy dạy.Những ý tưởng tham đắm vật chất thế gian biến thành ánh sáng của các tinh tú,và các tinh tú ấy tan biến vào bầu không gian vô tận,ngài ngộ được chân lý và đem trình bày sở đắc ấy với Chân sư của mình.

Sư dạy:

Bản chất của bầu trời

Là hư vô,không tận

Làm sao ngươi nắm bắt

Cái không tận,hư vô?

Chẳng sắc,màu,hình tướng

Mà ngươi mãi tham đắm

Ði tìm kiếm quẩn quanh. 


ÐẠI SƯ THỨ 39
BABHAHA
(Kẻ khao khát tự do)

Ôi niềm vui! Niềm vui!Niềm vui không ngăn ngại

Niềm vui không tham dục,niềm vui không si mê

Mỗi niệm tưởng chính là niềm vui đó

Ôi,niềm vui kỳ ảo,niềm vui bí mật,

Niềm vui không nắm bắt được.

Babhaha vốn là hoàng tử xứ Dhanjur,môït con người tham đắm sắc dục.Một hôm,nhân một nhà sư Du-già đến hoàng cung để khất thực,vị hoàng tử trẻ tuổi đem lòng ngưỡng mộ vị sư thông thái này và hỏi rằng với bản tính ưa thích lạc thú dục tình như ngài thì có thể tu tập thiền định được chăng.Sư nói:

-Bồ-đề-tâm hay Ðại nguyện (Samayas) là nguồn gốc căn bản để có thể chứng đắc các pháp bí mật.Chân sư là nguồn gốc để thành tựu các pháp.Nay,Hoàng tử phát nguyện tu tập tức là gieo nhân lành,ắt sẽ thành tựu.Trong khi tận hưởng dục lạc thế gian,ngài kuôn quán niệm rằng mọi lạc thú không tách rời khỏi tính không (Synyta)

Kế đó,Sư làm phép khai tâm cho Hoàng tử và truyền cho tâm pháp.Hoàng tử y theo lời dạy của Sư tu tập trong 12 năm thời ám muội trong tâm dần dần biến mất.^

ÐẠI SƯ THỨ 40
NALINAPA
(Kẻ tự lực cánh sinh)

Ðoá sen nơi đỉnh đầu

Aån chứa mầm lạc tịnh

Ở luân xa nơi cổ là niềm vui siêu tuyệt

Ở luân xa nơi tim là niềm vui xả bỏ

Luân xa nơi đan điền là niềm vui tự tại

Và ta đã đạt tới

.... Cái bất khả đạt.

Nalinapa là một ông hoàng bị thất sũng nên cuộc sống trở nên khó khăn,đến nỗi ông phải kiếm sống bằng cách nhặt củ sen ở một cái hồ.

Một ngày nọ,Nalinapa tình cờ gặp một nhà sư Du-già và được sư giảng giải về nỗi khổ sinh tử,cùng chỉ rõ sự vi diệu của cảnh giới Niết bàn,Nalinapa bèn động tâm cầu sư dạy cho con đường giải thoát.Sư hoan hỷ nhận Nalinapa làm môn đệ và truyền cho tâm pháp.

-Hãy quán chữ HAM một màn trắng thanh tịnh,xuất hiện trên vương miện.

Và ở yết hầu một chữ BAM sáng chói làm tan chảy chữ HAM trên đầu.

Và hành giả tắm mình trong niềm an lạc vô biên,

Bỏ lại cấu uế của sáu cõi,

Và chỉ còn là niềm vui thanh tịnh

Ðầy giải thoát mà thôi.

Nalinapa tu tập trong 9 năm thời đắc đại thần thông,tâm trí không còn bị phiền não quấy động;giống như một đoá sen vươn lên khỏi mặt hồ.Ngài độ vô số chúng ở thành Pataliputra,thọ 400 năm,sau cùng 450 môn đệ đến trụ ở cảnh giới kim cang Du-già Nữ.

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2018(Xem: 6707)
Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã không chính thức giữ chức vụ này từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.
04/09/2018(Xem: 4809)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche Tu Viện Kopan, Nepal Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai, được tổ chức ở Tu Viện Kopan, Nepal, năm 1979. Bài này là trích đoạn trong Bài Thuyết Pháp thứ 9 trong khóa tu. Sandra Smith hiệu đính sơ.
03/09/2018(Xem: 7571)
Lama Zopa Rinpoche đã sáng tác một pháp tu Kim Cang Tát Đỏa ngắn, được ấn tốngtheo khổ sách bỏ túi. Nhờ vậy, bất cứkhi nào phạm giới, hay tạo ra bất kỳ nghiệp xấu ác nào khác thì ta có thểtịnh hóa điều tiêu cựcấy bằng bốn lực đối trị, không hề chậm trễ một phút giây.
15/03/2018(Xem: 14937)
Nhẫn nại là 10 pháp hành Ba la mật cho các vị Bồ Tát có ý nguyện trở thành Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác hoặc Phật Thinh Văn Giác. Những pháp hành đó là : 1- Bố thí 2- Trì giới 3- Xuất gia 4- Trí tuệ 5- Tinh tấn 6- NHẪN NẠI 7- Chân thật 8- Quyết tâm 9- Từ bi 10- Tâm xả
20/02/2018(Xem: 3935)
Đây là pho tượng đồng Tổ Sư Tống Khách Ba do Luật Sư Nguyễn Tân Hải (pháp danh: Thiện Vân) cúng dường Tu Viện Quảng Đức vào chiều ngày 19-02-2018 trong dịp Thượng Tọa Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng ghé nhà thăm Luật Sư vừa về nhà sau thời gian điều trị tại bệnh viện. Luật Sư Tân Hải là đệ tử của Hòa Thượng Chùa Phổ Quang, Phú Nhuận, anh có duyên tiếp cận và nghiên cứu về Phật Giáo Tây Tạng, Nhật Bản… do vậy mà anh sở hữu nhiều tài liệu và pháp khí quý hiếm, mà một trong số đó là pho tượng này (xem văn bản đính kèm). Thành tâm niệm ơn và tán thán công đức bảo vệ và hộ trì Chánh pháp của anh chị Luật Sư Tân Hải – Bích Thi. Nam Mô A Di Đà Phật
12/10/2017(Xem: 16001)
Cầm quyển sách trên tay với độ dày 340 trang khổ A5 do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-Trung Tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang ấn hành và nhà xuất bản Hồng Đức tái bản lần thứ 2 năm 2015. Sách này do Phật Tử Nguyên Đạo Văn Công Tuấn trao tay cho tôi tại khóa tu Phật Thất từ ngày 24 đến 31.09.2017 vừa qua tại chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc. Tôi rất vui mừng được đọc tác phẩm thứ hai của Giáo Sư Lê Tự Hỷ. Ngắm nhìn bìa sách cũng như cách in ấn của Việt Nam trong hiện tại đã tiến được 8 phần 10 so với Đài Loan hay Đức, nên tôi lại càng vui hơn nữa. Bởi lẽ từ năm 1975 đến cuối năm 2000 tất cả những kinh sách được in ấn tại Việt Nam, kể cả đóng bìa cứng cũng rất kém về kỹ thuật và mỹ thuật, nhưng nay sau hơn 40 năm, nghề in ấn Việt Nam đã bắt đầu có cơ ngơi vươn lên cùng với thế giới sách vở rồi và hy vọng rằng nghề ấn loát nầy sẽ không dừng lại ở đây.
20/08/2016(Xem: 11301)
Ai là người trí phải nên khéo điều phục cái tâm của mình phải luôn quán sát Tánh Không (sumyata) và Diệu Hữu (Amogha) của bản tâm và vạn pháp. Không ai có thể cứu chúng ta khỏi cảnh giới khổ đau, phiền não, nếu chính bản thân chúng ta cứ mãi bo bo ôm ấp, nâng niu chìu chuộng cái vỏ Ngã Pháp được tô điểm bởi Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà Kiến, và Đố kỵ.
28/04/2016(Xem: 16616)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
27/09/2015(Xem: 6348)
Phía trước, ở giữa biển mây phẩm vật cúng dường Đức Phổ Hiền, Nơi an trú của chư vị lama, Yidam, Tam Bảo và Hộ Pháp Cùng các đấng hiền thánh đã thành tựu chân lý; Xin hoan hỷ nhận mây cúng dường các phẩm vật này, và ban cho con chân lý tối thượng.
27/08/2015(Xem: 4250)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác: sự suy nghĩ truyền thống của Trung Hoa, và v.v… Có thể có sự hiểu biết sai lầm sinh khởi phổ quát hơn, qua những cảm xúc phiền não của mọi người. Có thể có sự hiểu biết sai lạc sinh khởi chỉ từ sự kiện rằng tài liệu thì khó để hiểu. Sự hiểu biết sai lạc có thể sinh khởi do bởi những vị thầy không giải thích mọi thứ một cách rõ ràng hay để những thứ hoàn toàn không được giải thích gì cả, vì thế chúng ta phóng chiếu vào chúng những gì chúng ta nghĩ chúng là như vậy. Cũng có thể là tự các vị thầy thấu hiểu sai lạc giáo huấn. Điều ấy đôi khi xảy ra. Bởi vì không phải tất cả những vị thầy đều
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567