Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 17

03/05/201316:30(Xem: 4370)
Phần 17


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

Phần 17


ÐẠI SƯ THỨ 81

ANANGAPA

(Kngngn)

Luân hồi là giấc mộng

Sắc thân tựa cầu vồng

Tham dục là tên độc

Cắm sâu da thịt người

Mê loạn cho là thật

Như đóm giữa hư không

Tỉnh giấc tàn mộng ảo.

Trong nhiều kiếp ở quá khứ, Anangapa tu hành từ bi và nhẫn nhục, do vậy khi tái sinh vào kiếp này, ông có được thân tướng đẹp đẽ và trang nghiêm. Mỗi khi sánh mình với kẻ khác, Anangapa thường tỏ ra rất tự cao tự đại.

Một hôm có một nhà sư Du-già đến gần bên Anangapa để xin của bố thí, ông hoan hỷ ngỏ ý mời nhà sư lưu lại tư gia của ông một ít hôm. Sư chấp nhận, Anangapa rửa chân cho Sư và chuẩn bị chỗ nghĩ ngơi, đoạn cúng dường vật thực. Anangapa hỏi:

- Cớ sao ngài tự đoạ đày bản thân của mình như thế ?

- Ðể tự mình giải thoát khỏi vòng sinh tử.

- Về cơ bản, có sự khác biệt nào về tính cách giữa ngài và tôi ?

- Một sự khác biệt rất lớn. Kiêu mạn là tính cách hiền hữu. Lòng kiêu hãnh không có năng lực sáng tạo . Tín trí là tính cách của tôi, và chỉ có niềm xác tín mới có thể tạo ra năng lực vô tận.

- Năng lực gì ? Thưa Ðại sư.

- Trước hết là năng lực tu tập Phật pháp để hoá giải những phiền não của cõi Nhơn Thiên, nhưng rốt ráo hơn cả là năng lực trở thành Phật dựa trên căn bản Tín trí.

- Kẻ phàm phu như tôi có thể đạt tới năng lực này không ?

- Nghề nghiệp chuyên môn của hiền hữu là gì ?

- Tôi không có một nghề nghiệp nào trong tay cả.

- Vậy, hiền hữu có thể ngồi yên để tu tập thiền định chăng ?

- Thưa Ðại sư, việc ấy tôi có thừa khả năng.

- Lành thay!

Sư nói, đoạn truyền pháp thiền định Samvara cho Anangapa. Nhờ căn tình thuần thục nên sau 6 tháng tu tập, Anangapa liễu ngộ được chân lý.^

ÐẠI SƯ THỨ 82

LAKSMINKARA

(Nàng công chúa điên loạn)

Thứ nhất, bậc Trí giả tạo hình ảnh giác ngộ

Thứ hai, bậc Trí giả thiền định một cách kiên trì về tính rỗng không của các pháp

Thứ ba, bậc Trí giả tự biết mình phải làm những gì cần làm.

Laksminkara vốn là em gái của vua Indrabhuti thuộc vương quốc Sambhola. Từ thuở hãy còn bé, vị Công nương này vẫn thường đến dự các buổi thuyết pháp, và bà có tâm hiểu biết sâu rộng về Mật giáo (Tantra) . Nhưng hoàng huynh của bà, Ðức vua Indrabhuti, đã hứa gả bà cho Hoàng tử xứ Jalendra, con vua Lankapuri.

Ðến kỳ hạn rước dâu, bà phải rời quê hương để về nhà chồng, nhưng khi đến nơi, bà từ chối không chịu vào hoàng cung:

- Hôm nay là ngày xấu, ta không thể nhập cung.

Ði dạo quanh bên ngoài, bà cảm thấy thất vọng ghê gớm vì dân chúng xứ này không là tín đồ đạo Phật. Liền sau đó, một Hoàng tử trẻ trung cùng đám tuỳ tùng đi ngang qua. Họ trở về từ một cuộc săn bắn với nhiều xác thú treo lủng lẳng trên yên ngựa. Một người trong họ bảo cho bà biết rằng vị Hoàng tử vừa mới đi qua chính là chồng sắp cưới của bà. Là một Phật tử thuần thành, Laksminkara cảm thấy mình như một kẻ bị bội thực. Bà than khóc vật vã đến ngất xỉu:

- Anh ta là con nhà Phật mà lại gởi thân ta đến chốn ác trược này.

Khi Laksminkara hồi tỉnh, bà đem tất cả của hồi môn phân phát cho dân nghèo trong thành phố trước khi vào hoàng cung.

Ðến nơi, bà tự giam mình trong căn phòng mà Hoàng tử dành riêng cho cô dâu mới và từ chối không cho ai vào trong mười ngày. Bà xé rách áo quần rồi lấy lọ nồi, bùn đất trét lên khắp người, tóc để bù xù và giả vờ điên dại. Với tướng mạo bề ngoài gớm ghiếc như một kẻ điên nhưng trong tâm bà luôn chú mục thiền định.

Quá thất vọng, vị hôn phu của bà cho vời các ngự y đến chữa trị nhưng không một ai có thể đến gần. Bà tấn công họ và ném vào họ bất cứ thứ gì mà bà vớ được.

Ít lâu sau, người trong hoàng cung không còn quan tâm đến bà Hoàng nửa điên, nửa dại. Ðây là cơ hội thuận tiện cho Laksminkara có thể trốn thoát.

Ban ngày, Laksminkara đi nhặt những thức ăn dư thừa mà người ta vất cho những con chó hoang. Ban đêm, bà ra chốn mộ địa để nghỉ ngơi. Bảy năm sau, Laksminkara đắc thần thông Ðại Thủ Ấn, bà truyền tâm pháp cho một vị đệ tử. Người này chỉ là kẻ quét dọn các hố xí trong hoàng cung. Và ông ta nhanh chóng đạt tới mục đích tu tập.

Cho đến một ngày nọ, Ðức vua Jalendra trong một cuộc đi săn bị lạc lối, ngài dừng chân để nghỉ ngơi nhưng ngủ quên trong cơn mệt mỏi. Khi Vua tỉnh giấc thì bóng đêm đã buông xuống khiến ngài không tìm thấy lối về. Khi đi ngang qua hang động, nơi nữ Du-già Laksminkara trú ngụ, Vua tò mò nhìn vào bên trong, ngài thấy một vị nữ Du-già toàn thân phát sáng và chung quanh có vô số thiên nữ đứng hầu. Một niềm ngưỡng mộ khởi lên trong tâm nhà vua, ông không nghĩ đến chuyện tìm đường quay về hoàng cung nữa. Nhà vua bước vào cung kính đảnh lễ trước vị Thánh nữ và xin nương tựa vào giáo pháp của bà.

Laksminkara bảo:

- Ngươi không nhất thiết phải trở thành môn đệ của ta. Chân sư đích thực của ngươi chính là một trong những người phụ trách quét dọn hố xí trong hoàng cung. Vị ấy là một bậc chứng đắc.

- Trong hoàng cung có rất nhiều người làm công việc này. Làm sao có thể nhận biết vị Chân sư ấy ?

- Vị ấy chình là người sau khi hoàn tất bổn phận của mình thường hay bố thí vật thực cho kẻ nghèo khó.

Theo lời chỉ dẫn, Ðức vua tìm thấy vị Chân sư của mình. Nhà vua mời vị ấy đến bệ rồng, đặt ngài lên ngai vàng và cung kính đảnh lễ, cầu xin truyền pháp. Vua được làm phép quán đảnh để khai tâm và lãnh thọ pháp thiền định Kim cang Varahi.^


ÐẠI SƯ THỨ 83

SAMUDRA

(Thợ mò ngọc trai)

Nhận ra cái “không sinh” mà không trải qua tu tập

Nhà Du-già kia là một kẻ ăn thịt đồng loại với đứa bé ẵm trên tay

Nếu pháp thiền định của y lìa bản chất của chính mình

Khác nào con voi kia kẹt dưới vũng lầy.

Samudra làm nghề thợ lặn ở Sarvatira. Thường ngày, ông dong thuyền tận xa khơi, lặn xuống đáy đại dương để mò trai lấy ngọc rồi đem ra chợ bán.

Một bữa nọ, sau một ngày ngâm mình dưới làn nước sâu lạnh lẽo, Samudra không tìm được một viên ngọc trai nào, ông ta đi thơ thẩn đến nơi mộ địa, lòng buồn bực và than thầm cho số phận.

Ðại sư Acintapa thấy người thợ lặn đang rầu rĩ nên khuyên lơn ông ta:

- Tất cả chúng sinh đều bị chi phối bởi luật nhân quả. Kiếp trước ngươi gieo hạt giống gì, kiếp này ngươi hưởng loại trái cây ấy. Hãy cam chịu!

Nhưng Samudra nài nĩ:

- Thưa thầy! Cầu mong thầy rủ lòng từ bi chỉ cho tôi lối thoát ra khỏi tình cảnh này.

Sư giảng giải cho Samudra về Tứ vô lượng tâm và Tứ an lạc.

Lòng từ bi che chắn Bát phong

Vui hoà hợp khiến tâm thanh thản

Ðầu lưu xuất một luồng an lạc

Bốn niềm vui tụ ở bốn luân xa

Quán “Không tính” chẳng lời an lạc

Thời khổ đau không thể đến gần.

Samudra hiểu được yếu lý của lời dạy, ngài thiền định trong 3 năm thời đắc thần thông Ðại Thủ Ấn.^


ÐẠI SƯ THỨ 84

VYALIPA

(Nhà luyện kim thuật)

Hình ảnh của thực thể rốt ráo

Là hình ảnh của vị Chân sư có quyền năng vô song

Nơi tịch tĩnh nhất là để ngắm nhìn Không tính.

Hoà hợp trọn vẹn là nhận ra bản chất của sự chứng đắc

Và khi bạn nốc một hơi cạn hết sữa trời

Nghĩa là bạn đang tồn tại đấy.

Kẻ Bà-la-môn giàu có kia tên gọi là Vyalipa có ước vọng muốn được trường sinh bất tử. Ông ta mua một lượng thuỷ ngân rất lớn, đoạn thêm các dược thảo vào thuỷ ngân để nấu thành một thứ cao đặc sệt. Nhưng vì còn thiếu một loại dược liệu nên thứ cao dang dở ấy không có công hiệu.Trong cơn giận dữ, ông ta ném quyển cẩm nang bào chế Trường –sinh-dược xuống dòng sông Hằng. Lúc bấy giờ, Vyalipa luyện tập pháp thiền định của đạo Bà-la-môn được 13 năm nên dương vật teo lại như chưa từng có. Ông sống như một kẻ hành khất lang thang khắp nơi.

Một ngày nọ, ông thấy mình đang ở trong một ngôi làng bên bờ sông Hằng. Gần đấy là ngôi đền Ramacandra. Tại đây ông gặp một cô gái lầu xanh. Cô kỷ nữ này khoe với ông một quyển sách mà cô đã nhặt được trong khi đi tắm trên sông. Vyalipa cười ngất khi xem nó, vì đó chính là quyển sách trước đây ông đã ném xuống dòng sông Hằng. Ðoạn ông kể tự sự cho cô gái nghe. Cô cảm thấy bị cuống hút bởi ý tưởng được sống lâu bèn có nhã ý tặng cho Vyalipa ba mươi lạng vàng để tiếp tục công việc điều chế thuốc. Bản thân Vyalipa còn hồ nghi và không dám tin rằng công việc nghiên cứu sẽ mang lại kết quả. Nhưng cô gái tỏ ra hết sức khích lệ, và một lần nữa Vyalipa mua một số lượng thuỷ ngân đem về tiếp tục điều chế thuốc. Sau một năm miệt mài làm việc, vẫn không có một dấu hiệu nào nói lên sự thành công, vì còn thiếu một loại đào hồng (Myrobalan).

Tuy nhiên, sau một hôm cô gái đi tắm về, một cánh hoa bé tí ngẫu nhiên dính trên đầu ngón tay, và khi cô ta vẫy nhẹ, nó rơi vào bình thuốc của Vyalipa. Lập tức có những dấu hiệu của sự thành công. Cô vội vàng báo cho Vyalipa. Ông lo ngại là bí mật này lộ ra ngoài, nhưng cô gái đoán chắc chưa hề để tiết lộ điều quan trọng này cho một ai.

Ðêm hôm ấy, cô gái rưới một ít cỏ chát (Chiraita) lên thức ăn của Vyalipa. Trước đây, Vyalipa không thể ăn được loại rau chát ngắt này, nhưng giờ đây ông có thể thưởng thức một cách ngon lành. Cô cho rằng đây là hiệu quả của tiên dược. Vyalipa giải thích:

- Dấu hiệu thành công căn bản của công phu điều chế tiên dược gồm có tám điềm lành kết tụ thành hình tròn xoay chuyển từ phía tả sang phía hữu, bay liệng trên không trung. Ấy là một cái lọng quý, hai con cá vàng, một bình đựng ngọc, một đoá hoa Kamala, một tấm đệm trắng, một viên kim cương, một lá phướn và một luân xa có tám nang.

Vyalipa cùng cô gái và một con thỏ đồng uống tiên dược, và cả ba trở nên bất tử. Với tính ích kỷ, Vyalipa từ chối không cho ai khác biết đến công thức chế biến loại tiên dược này. Sau đó, họ đến các cõi Trời để trú ngụ, nhưng chư Thiên xua đuổi không cho họ vào cõi Tiên giới. Vì vậy họ đành phải quay về trần gian và sống tại xứ Kilampara. Tại đây họ dựng một ngôi nhà trên đỉnh núi đá cao chót vót, bao bọc xung quanh là một đầm lầy. Ðịa thế vô cùng hiểm trở như vậy nên khó một ai có thể bén mảng đến nơi họ ở.

Arya Nagarjuna tức Long Thọ Bồ Tát sau khi đắc phép thần túc (power of flight) nguyện tìm cho ra phép luyện thuốc trường sinh đã thất truyền từ lâu tại đất Ấn. Ngài vận thần thông bay lên trên đỉnh núi đá, dấu bớt một chiếc giày, rồi đến vái chào vị Ðạo sĩ Bà-la-môn Vyalipa. Vyalipa sững sờ vì sự xuất hiện của kẻ lạ. Arya Nagarjuna thừa nhận rằng nhờ chiếc giày mà Nagarjuna mới có thể đến chốn này. Ngài đồng ý đánh đổi chiếc giày ấy để lấy công thức bào chế thuốc trường sinh. Sau cuộc trao đổi với Vyalipa, ngài Nagarjuna trở về Ấn Ðộ với chiếc giày còn lại và ở trên vùng núi Sri Parvata, ngài tiếp tục tu luyện để cứu độ chúng sinh.^

TRUYỀN THUYẾT

Về 84 vị Thánh tăng Mật giáo

Trong Phật giáo Tây Tạng, Ðại Thủ Ấn (Mahamudra) tiêu biểu cho mức độ thành tựu cao nhất của Chân đế. Ðó là sự kết hợp bất khả phân ly giữa Bi và Trí, giữa tánh Không và Phương tiện.

Tám mươi tư vị Thánh tăng trong tác phẩm này là những Ðạo sư tiêu biểu đã tu tập đến mức thành tựu. Họ sống vào thế kỷ thứ 8 và thứ 12 tại Ấn Ðộ. Trong số các bậc thầy vĩ đại này có những vị sống một lối sống vượt thoát ra khỏi tập tục truyền thống như Tilopa, Naropa và Marpa.

Sau nhiều năm dày công nghiên cứu, Keith Dowman đã sưu tập và dịch ra Anh-ngữ những bài đạo ca và các truyền thuyết về các Ðạo sư này. Nhờ sự hỗ trợ và chỉ dẫn của các bậc thầy, Keith Dowman đã viết chú giải về cuộc đời và cách tu của các vị Ðạo sư này.

Trong phần giới thiệu, Dowman ghi lại một số ý niệm cơ bản về Ðại Thủ Ấn. Bằng một giọng văn sống động, giàu ảnh tượng, Keith Dowman đã giải mã những đoạn văn kỳ bí của Mật giáo khiến độc giả dễ dàng thâm nhập vào thế giới của Huyền Thuật.

Keith Dowman đã có những tác phẩm thành công và có giá trị như: Thiên Nữ (Sky-Dancer), cuộc đời bí ẩn và những bài đạo ca của Nữ Ðạo Sư Yeshe Sogyel (The secret and songs of the Lady Yeshe Sogyel), Truyền thuyết về Ðại Thánh Ðường (The Legend of the great stupa).

Hiện nay tác giả đang sống và tu tập tại Kathmandu thuộc quốc gia Nepal.

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2018(Xem: 6713)
Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã không chính thức giữ chức vụ này từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.
04/09/2018(Xem: 4815)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche Tu Viện Kopan, Nepal Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai, được tổ chức ở Tu Viện Kopan, Nepal, năm 1979. Bài này là trích đoạn trong Bài Thuyết Pháp thứ 9 trong khóa tu. Sandra Smith hiệu đính sơ.
03/09/2018(Xem: 7576)
Lama Zopa Rinpoche đã sáng tác một pháp tu Kim Cang Tát Đỏa ngắn, được ấn tốngtheo khổ sách bỏ túi. Nhờ vậy, bất cứkhi nào phạm giới, hay tạo ra bất kỳ nghiệp xấu ác nào khác thì ta có thểtịnh hóa điều tiêu cựcấy bằng bốn lực đối trị, không hề chậm trễ một phút giây.
15/03/2018(Xem: 14950)
Nhẫn nại là 10 pháp hành Ba la mật cho các vị Bồ Tát có ý nguyện trở thành Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác hoặc Phật Thinh Văn Giác. Những pháp hành đó là : 1- Bố thí 2- Trì giới 3- Xuất gia 4- Trí tuệ 5- Tinh tấn 6- NHẪN NẠI 7- Chân thật 8- Quyết tâm 9- Từ bi 10- Tâm xả
20/02/2018(Xem: 3938)
Đây là pho tượng đồng Tổ Sư Tống Khách Ba do Luật Sư Nguyễn Tân Hải (pháp danh: Thiện Vân) cúng dường Tu Viện Quảng Đức vào chiều ngày 19-02-2018 trong dịp Thượng Tọa Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng ghé nhà thăm Luật Sư vừa về nhà sau thời gian điều trị tại bệnh viện. Luật Sư Tân Hải là đệ tử của Hòa Thượng Chùa Phổ Quang, Phú Nhuận, anh có duyên tiếp cận và nghiên cứu về Phật Giáo Tây Tạng, Nhật Bản… do vậy mà anh sở hữu nhiều tài liệu và pháp khí quý hiếm, mà một trong số đó là pho tượng này (xem văn bản đính kèm). Thành tâm niệm ơn và tán thán công đức bảo vệ và hộ trì Chánh pháp của anh chị Luật Sư Tân Hải – Bích Thi. Nam Mô A Di Đà Phật
12/10/2017(Xem: 16008)
Cầm quyển sách trên tay với độ dày 340 trang khổ A5 do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-Trung Tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang ấn hành và nhà xuất bản Hồng Đức tái bản lần thứ 2 năm 2015. Sách này do Phật Tử Nguyên Đạo Văn Công Tuấn trao tay cho tôi tại khóa tu Phật Thất từ ngày 24 đến 31.09.2017 vừa qua tại chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc. Tôi rất vui mừng được đọc tác phẩm thứ hai của Giáo Sư Lê Tự Hỷ. Ngắm nhìn bìa sách cũng như cách in ấn của Việt Nam trong hiện tại đã tiến được 8 phần 10 so với Đài Loan hay Đức, nên tôi lại càng vui hơn nữa. Bởi lẽ từ năm 1975 đến cuối năm 2000 tất cả những kinh sách được in ấn tại Việt Nam, kể cả đóng bìa cứng cũng rất kém về kỹ thuật và mỹ thuật, nhưng nay sau hơn 40 năm, nghề in ấn Việt Nam đã bắt đầu có cơ ngơi vươn lên cùng với thế giới sách vở rồi và hy vọng rằng nghề ấn loát nầy sẽ không dừng lại ở đây.
20/08/2016(Xem: 11306)
Ai là người trí phải nên khéo điều phục cái tâm của mình phải luôn quán sát Tánh Không (sumyata) và Diệu Hữu (Amogha) của bản tâm và vạn pháp. Không ai có thể cứu chúng ta khỏi cảnh giới khổ đau, phiền não, nếu chính bản thân chúng ta cứ mãi bo bo ôm ấp, nâng niu chìu chuộng cái vỏ Ngã Pháp được tô điểm bởi Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà Kiến, và Đố kỵ.
28/04/2016(Xem: 16628)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
27/09/2015(Xem: 6351)
Phía trước, ở giữa biển mây phẩm vật cúng dường Đức Phổ Hiền, Nơi an trú của chư vị lama, Yidam, Tam Bảo và Hộ Pháp Cùng các đấng hiền thánh đã thành tựu chân lý; Xin hoan hỷ nhận mây cúng dường các phẩm vật này, và ban cho con chân lý tối thượng.
27/08/2015(Xem: 4252)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác: sự suy nghĩ truyền thống của Trung Hoa, và v.v… Có thể có sự hiểu biết sai lầm sinh khởi phổ quát hơn, qua những cảm xúc phiền não của mọi người. Có thể có sự hiểu biết sai lạc sinh khởi chỉ từ sự kiện rằng tài liệu thì khó để hiểu. Sự hiểu biết sai lạc có thể sinh khởi do bởi những vị thầy không giải thích mọi thứ một cách rõ ràng hay để những thứ hoàn toàn không được giải thích gì cả, vì thế chúng ta phóng chiếu vào chúng những gì chúng ta nghĩ chúng là như vậy. Cũng có thể là tự các vị thầy thấu hiểu sai lạc giáo huấn. Điều ấy đôi khi xảy ra. Bởi vì không phải tất cả những vị thầy đều
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567