Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Kinh Tệ-Tú

12/03/201211:11(Xem: 6081)
07. Kinh Tệ-Tú

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

PHẦNII

7.KINH TỆ-TÚ

Lúcbấy giờ, Đồng nữ Ca-diếp cùng năm Tỳ-kheo du hành từnước Câu-tát-la lần đến thôn Bà-la-môn tên là Tư-bà-hê.Rồi Đồng nữ Ca-diếp nghỉ tại phía Bắc rừng Thi-xá-bà.Lúc đó có người Bà-la-môn tên Tệ-tú, xưa nay ở thôn Tư-bà-hê,một thôn giàu vui, nhân dân đông đúc, cây cối sầm uấtdo vua Ba-tư-nặc đã phong riêng cho Bà-la-môn Tệ-tú coi nhưlà một ân điển. Bà-la-môn Tệ-tú là người thường chấpgiữ dị kiến và dạy mọi người rằng: “Không có thếgiới khác, cũng không có hóa sinh , không quả báo thiện ác”..”

Lúcbấy giờ, người trong thôn Tư-bà-hê nghe có Đồng nữ Ca-diếpcùng năm Tỳ-kheo từ nước Câu-tát-la đi lần đến nghỉtại rừng Thi-xá-bà, bàn nhau rằng: “Vị Đồng nữ Ca-diếpnày có tiếng tăm lớn, đã chứng A-la-hán, kỳ cựu trưởngtúc, đa văn, quảng bác, thông minh duệ trí, biện tài ứngcơ, giỏi cách nghị luận, nếu chúng ta gặp được thì haylắm”. Rồi người trong thôn cứ ngày ngày thay nhau tìm đếnCa-diếp. Bấy giờ Tệ-tú đang đứng trên lầu cao trông thấymọi người từng đoàn nối nhau kéo đi mà chẳng biết điđâu, mới hỏi người cầm lọng hầu rằng:

“Nhữngngười kia vì sao họp thành đoàn nối nhau như thế?”

Ngườihầu đáp:

“Tôinghe nói Đồng nữ Ca-diếp cùng năm trăm Tỳ-kheo từ nướcCâu-tát-la đến nghỉ tại rừng Thi-xá-bà. Lại nghe đồnngười ấy có tiếng tăm lớn, đã chứng La-hán, kỳ cựutrưởng túc, đa văn quảng bác, thông minh duệ trí, biện tàiứng cơ, giỏi cách nghị luận. Những người kia họp thànhđoàn nối nhau là đoàn muốn đêến gặp Ca-diếp đấy”.”

Tệ-túliền sai người hầu:

“Ngươihãy mau tới nói mấy người ấy, bảo hãy dừng lại, chờta cùng đi đến gặp với. Vì sao? Vì người kia ngu si, nhầmlẫn, lừa dối thế gian, nói có thế giới khác, có hóa sinh,có quả báo thiện ác. Song kỳ thật không có thế giới khác,không có hóa sinh, không có quả báo thiện ác”.”

Ngườihầu vâng lời đến nói với người thôn Tư-bà-hê kia rằng:

“ÔngBà-la-môn bảo các người hãy dừng lại chờ, để cùng đigặp gỡ”.”

Ngườitrong thôn đáp:

“Haylắm, nếu muốn đi, chúng ta hãy cùng đi”.”

Ngườihầu về thưa lại:

“Nhữngngười kia đang dừng lại đợi. Đi được thì đi mau”.”

Tệ-túliền xuống lầu, sai người hầu sắp sửa xe cộ, rồi vớiđoàn người trong thôn vây quanh nhau, ông đi đến rừng Thi-xá-bà.Khi đến nơi, ai nấy đều xuống xe đi bộ đến chỗ ngàiCa-diếp, hỏi han xong ngồi lại một bên. Người trong thônấy, Bà-la-môn có, cư sĩ có, có người lễ bái Ca-diếp rồimới ngồi, có người hỏi han rồi ngồi, có người tự xưngtên mình rồi ngồi, có người chắp tay xá rồi ngồi, cóngười chỉ lặng lẽ ngồi xuống.

Bấygiờ Bà-la-môn Tệ-tú nói với Ca-diếp:

“Naytôi có điều muốn hỏi. Ngài có rỗi rảnh cho phép đượchỏi không?”.

Ca-diếpđáp:

“Tùytheo chỗ ông hỏi, nghe rồi mới biết”.”

Tệ-túnói:

“Luậnthuyết của tôi là không có thế giới khác, không có hóasinh, không có quả báo tội phước. Luận thuyết của ngàithế nào?”

Ca-diếpđáp:

“Naytôi hỏi ông. Ông hãy trả lời theo ý nghĩ của mình. Hiệnmặt trời, mặt trăng ở trên kia thuộc về thế giới nàyhay thế giới khác? Thuộc về trời hay về người?”

Bà-la-mônđáp:

“Mặttrời, mặt trăng là thuộc về thế giới khác chớ không phảithế giới này; thuộc về trời chớ không phải người”.”

Ca-diếpnói:

“Nhưvậy có thể biết tất phải có thế giới khác, phải cóhóa sinh, phải có quả báo thiện ác”.”

Bà-la-mônnói:

“Tuyngài nói có thế giới khác, có hóa sinh, có quả báo thiệnác, nhưng theo ý tôi thì không tất cả”.”

Ca-diếphỏi:

“Cónhân duyên gì để biết không có thế giới khác, không cóhóa sinh, không có quả báo thiện ác?”

“Cónhân duyên”.”

“Nhânduyên gì để nói biết không có thế giới khác, không cóhóa sinh, không có quả báo thiện ác?”

Bà-la-mônnói:

“NàyCa-diếp, nguyên tôi có người bà con quen biết, mắc phảibệnh ngặt, tôi đến nói hỏi rằng: Các Sa-môn, Bà-la-mônthường chấp theo dị kiến, cho rằng những người sát sinh,trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi, nói dối, nói thêu dệt, xantham, tật đố, tà kiến, sau khi chết đều bị đọa địangục. Nhưng tôi không tin vì tôi chưa hề thấy người nàochết rồi trở lại nói cho biết chỗ họ đọa vào. Nếucó người trở lại nói cho biết chỗ họ đọa vào, thì tôitin ngay. Nay anh là chỗ thân thuộc của tôi. Anh đã tạo đủmười điều ác. Nếu quả như lời Sa-môn nói thì anh chếtchắc phải sa vào địa ngục. Nay tôi tin ở anh, tùy theo anhđể quyết định. Nếu xét có cảnh địa ngục thật, anhhãy trở lại nói cho tôi biết. Sau đó tôi sẽ tin. Nhưng,này Ca-diếp, từ khi người ấy chết đến nay biệt mất khônghề trở lại. Người ấy là người thân của tôi, không lẽdối tôi, hứa rồi không trở lại. Do đó tôi biết chắckhông có thế giới khác”.”

Ca-diếptrả lời:

“Nhữngkẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tôi sẽ dẫn ví dụ đểgiải bày. Ví như một tên đạo tặc, thường ôm lòng giantrá, vi phạm phép cấm nhà vua, bị rình bắt đem đến vuavà tâu: Người này là giặc cướp, xin vua trị nó. Vua liềnhạ lệnh tả hữu bắt trói kẻ kia bêu rêu khắp các ngõđường, rồi chở ra khỏi thành, giao cho đao phủ xử hình.Khi tả hữu mang tên cướp đó giao cho đao phủ, tên giặccướp ấy dùng lời mềm mỏng xin với thị vệ rằng: Xinông thả cho tôi về thăm bà con xóm làng để nói vài lờitừ biệt, xong tôi trở lại. Này Bà-la-môn, ông nghĩ sao, thịvệ kia có chịu thả không?”

Đáp:“Không”.

Ca-diếpnói:

“Họlà người cùng loại, ở cùng một đời hiện tại, còn khôngchịu thả huống gì bà con ông tạo đủ mười điều ác,chết tất đọa địa ngục. Ngục quỷ không có từ tâm, lạikhông cùng một loại, thế giới chết sống khác nhau. Khi đóbà con ông nếu lấy lời ngon ngọt xin quỷ ngục rằng: Ngươihãy tạm tha ta, để ta trở lại nhân gian thăm bà con, từbiệt vài lời xong ta sẽ trở lại. Người ấy có đượcthả không?”

Đáp:“Không”.

Ca-diếpnói:

“Cứso sánh theo đó đủ biết. Tại sao ngươi còn giữ chặt chỗmê lầm, sinh điều tà kiến như thế?”

Tệ-túnói:

“Tuyngài dẫn dụ bảo có thế giới khác, nhưng tôi vẫn cho làkhông có”.”

Ca-diếphỏi:

“Ôngcòn duyên cớ gì khác để biết không có thế giới khác?”

“Códuyên cớ khác để biết không có thế giới khác”.”

“Duyêncớ gì?”

“NàyCa-diếp, nguyên tôi có người bà con mắc phải bệnh nặng,tôi đến nói với nó rằng: Các Sa-môn, Bà-la-môn, chấp theodị kiến bảo có thế giới khác. Rằng ai không giết, khôngtrộm, không tà dâm, không dối, không hai lưỡi, không nóidữ, không vọng ngữ, không nói thêu dệt, không tham lam, khôngtật đố, không tà kiến, thì khi chết được sinh lên cõitrời. Tôi trước kia không tin điều đó, vì từ trước tôichưa từng thấy người nào chết rồi trở lại nói cho biếtchỗ họ đã sinh tới. Nếu có ai trở lại nói cho biết chỗhọ sinh đến thì tôi tin ngay. Nay anh là chỗ bà con tôi, anhđã tạo đủ mười điều lành. Nếu quả như lời Sa-môn,Bà-la-môn nói thì anh chết rồi sẽ được sanh lên cõi trời.Bây giờ tôi tin anh để quyết định. Vậy nếu xét thậtcó quả báo cõi trời, anh phải nhớ trở lại nói cho tôibiết để tôi tin. Nhưng, này Ca-diếp, từ ngày anh ta chếtđến nay không hề trở lại. Anh ta là người thân của tôi,không thể dối tôi, hứa rồi không trở lại. Nên chắc khôngcó thế giới khác”.”

Ca-diếpnói:

“Nhữngkẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ ngươirõ. Ví như có người bị rớt xuống hầm xí, đầu mình chìmnghỉm. May được vua cho người vớt lên. Lấy tre làm lược,cạo trên thân người ấy ba lần, rồi lấy nước tháo đậu,tro sạch rửa lần.; Sau lại lấy nước thơm tắm gội, lấycác thứ bột hương xoa khắp mình và bảo thợ cạo sạchrâu tóc cho. Lại cho người tắm gội thêm ba lần như thế,lấy nước thơm rửa, lấy bột hương xoa mình và lấy áotốt mặc cho, làm đẹp thân thể người ấy. Tiếp đến,người ta đem thức ngon vị ngọt cho ăn rồi đưa đến ởngôi nhà cao đẹp cho hưởng thú ngũ dục. Này Tệ-tú, vềsau người kia có muốn rớt xuống hầm xí nữa không?”

“Không.Chỗ dơ thối đó, còn trở lại làm gì”.”

“ChưThiên cũng thế. Họ cho cõi Diêm-phù này là nơi tanh hôi bấttịnh. Họ ở cách trên xa hàng trăm do-tuần còn nghe mùi hôicủa nhân gian xông lên không khác hầm xí. Như vậy, này Bà-la-môn,bà con của ông đầy đủ thập thiện, tất nhiên sanh thiên,hưởng thú ngũ dục, khoái lạc vô cùng, phỏng có chịu trởlại cõi Diêm-phù hầm xí này không?”

Đáp:“Không”.

“Cứso sánh theo đó đủ biết, tại sao ông còn giữ chặt mê lầm,sinh điều tà kiến thế!”

Bà-la-mônnói:

“Tuyngài dẫn dụ nói có thế giới khác, song tôi vẫn cho là khôngcó”.”

Ca-diếphỏi:

“Ôngcòn duyên cớ gì khác để biết không có thế giới khác?”

“Códuyên cớ khác”.”

“Duyêncớ gì?”

“NàyCa-diếp, nguyên tôi có người bà con mắc bệnh trầm trọng,tôi đến nói rằng: Các Sa-môn, Bà-la-môn, chấp theo dị kiến,bảo có đời sau. Rằng người nào không sát, không trộm cắp,không tà dâm, không dối, không uống rượu thì khi chết đượcsinh lên cõi trời Đao-lợi. Nhưng tôi không tin vì tôi chưatừng thấy có ai chết rồi trở lại nói cho biết chỗ họđã sanh tới. Nếu có ai trở lại cho biết thì tôi tin ngay.Nay anh là bà con tôi, anh tu đủ ngũ giới, chết rồi chắcđược sinh lên cõi Đao-lợi. Giờ tôi chỉ còn tin anh đểquyết định. Vậy nếu quả có cõi thiên phước, anh hãy trởlại nói cho tôi biết để tôi tin. Nhưng này Ca-diếp, từngày anh ta chết đến nay không hề trở lại. Anh ta là bàcon tôi, không lẽ dối tôi, hứa rồi không lại? Nên chắckhông có đời sau”.”

Ca-diếpđáp:

“Ởcõi này một trăm năm chỉ bằng một ngày một đêm ở cõitrời Đao-lợi. Cõi Đao-lợi cũng lấy ba mươi ngày làm mộttháng, mười hai tháng làm một năm, mà người ở cõi trờikia lại sống lâu một ngàn năm như thế. Bà-la-môn, ông nghĩthế nào? Khi người bà con ông giữ gìn đủ ngũ giới, chếtđược sinh lên cõi trời Đao-lợi thì nghĩ rằng: Ta đã đượcsinh lên đây, ta hãy vui chơi trong hai, ba ngày, sau trở lạibáo tin cho bà con ta hay. Như thế, chừng có gặp được không?”

“Không.Khi ấy tôi đã chết mất lâu rồi, làm sao gặp được. Nhưngtôi không tin; ai đã nói với ngài cõi trời Đao-lợi có sựsống lâu như thế.?”

“Nhữngkẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ ngươirõ. Ví như có người sinh ra đã bị đui, không hiểu năm màuxanh, vàng, đỏ, trắng, thô, tế, dài, vắn; cũng không thấymặt trời, mặt trăng, sao, gò nổng, ngòi, rãnh gì gì cả.Nếu có ai hỏi nó xanh, vàng, đỏ, trắng như thế nào, thìnó trả lời ngay: Không có năm màu sắc. Cũng vậy, nếu hỏiđến thô, tế, dài, vắn, mặt trời, mặt trăng, sao, gò, nổng,ngòi, rãnh, thì nó cũng trả lời không có. Bà-la-môn, ôngnghĩ thế nào, người mù trả lời như thế có đúng không?”

“Khôngđúng. Vì sao? Thế gian hiện có năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng,thô, tế, dài, vắn, mà người mù bảo không”.”

“NàyBà-la-môn, ông cũng như thế. Sự sống lâu của trời Đao-lợicó thật, không hư dối; chỉ vì ngươi không thấy nên ngươimới nói không có thôi”.”

Bà-la-mônnói:

“Tuyngài nói có, nhưng tôi vẫn không tin”.”

Ca-diếphỏi:

“Ôngcòn có duyên cớ gì mà cho là không có đời sau?”

“NàyCa-diếp, nguyên ngườii trong phong ấp của tôi có kẻ ăn cướpbị rình bắt được đem đến tôi và nói: Người này làgiặc cướp, xin ông trị nó. Tôi liền bảo trói người ấylại bỏ vào trong một cái vạc, đậy nắp trét kín với mộtlớp bùn dày, không để cho cái gì tiết ra được, rồi lấylửa vây đốt. Lúc đó tôi cố tìm thử thần thức ngườiấy thoát ra chỗ nào, nên khiến kẻ thị tùng bao quanh cáivạc nhìn kỹ, song không ai thấy chỗ thần thức chui ra ởđâu. Sau tôi lại bổ cái vạc ra tìm, cũng chẳng thấy chỗnào là chỗ thần thức qua lại. Vì duyên cớ đó nên tôibiết chắc không có thế giới khác”.”

Ca-diếpnói:

“Naytôi hỏi ông, nếu trả lời được thì tùy ý mà trả lời.

“NàyBà-la-môn, khi ông nằm ngủ trên lầu cao, có lúc nào ông ngủmộng thấy núi, rừng, sông, ngòi, vườn quán, ao hồ, quốcấp, đường sá không?”

Đáp:“Có mộng thấy”.

“NàyBà-la-môn, lúc ông đang nằm mộng, quyến thuộc trong nhà cóhầu quanh ông không?”

Đáp:“Có hầu”.

“Quyếnthuộc của ông khi đó có thấy thần thức ông đi ra đi vàokhông?”

“Khôngthấy”.”

“Ônghiện còn sống mà thần thức ra vào còn không thấy được,huống nơi người chết. Ngươi không thể chỉ dựa vào việctrước mắt mà quán sát chúng sanh.

“NàyBà-la-môn, có những vị Tỳ-kheo, từ đầu đêm chí cuốiđêm không ngủ, tinh cần chuyên niệm đạo phẩm, lấy sứctam-muội mà tịnh tu thiên nhãn. Rồi bằng năng lực thiênnhãn mà quán thấy chúng sanh chết chỗ này sinh chỗ kia, chếtchỗ kia sinh chỗ này, sống lâu hay chết yểu, nhan sắc tốthay xấu, tùy hành vi mà thọ báo ở cảnh giới tốt hay xấu,đều thấy biết hết. Ông không nên vì lẽ con mắt thịtuế trược không nhìn thấy suốt chỗ thú hướng của chúngsanh mà vội cho là không có. Này Bà-la-môn, do đó có thểbiết chắc chắn có thế giới khác”.”

Bà-la-mônnói:

“TuyNgài dẫn dụ nói có thế giới khác, nhưng theo chỗ tôi biếtthì hẳn không có”.”

Ca-diếphỏi:

“Ôngcòn có duyên cớ gì cho là không có thế giới khác?”

Đáp:“Có”.

“Duyêncớ gì?”

Bà-la-mônnói:

“Nguyênngười ở thôn tôi, có kẻ làm giặc cướp, bị rình bắtđược đem đến tôi và nói: Người này làm giặc cướp,xin ông trị nó. Tôi liền sai tả hữu bắt trói người ấylại, để sống vậy mà lột da tìm thần thức. Nhưng khôngtrông thấy gì cả. Lại sai tả hữu cắt thịt ra tìm thầnthức, cũng chẳng thấy. Lại sai xẻ xương, gân, vạch ra tìmcũng chẳng thấy. Lại sai đập xương tìm trong tủy, cũngchẳng thấy. Này Ca-diếp, vì cớ đó, tôi biết chắc khôngcó thế giới khác”.”

Ca-diếpnói:

“Nhữngkẻ có trí nhờ thí dụ mà được rõ. Để tôi dẫn chuyệnnày cho ông rõ. Vào thời quá khứ xa xưa, có một quốc độbị điêu tàn hoang phế chưa hồi phục. Bấy giờ có đoànlái buôn gồm năm trăm cỗ xe đi ngang qua quốc độ này, gặpmột người Phạm- chí thờ phụng thần Lửa thường nghỉtại một khu rừng. Các người lái buôn mới đến xin ngủtrọ. Sáng ngày, sau khi bọn lái buôn đi, ông Phạm chí thầmnghĩ: Ta hãy đến chỗ mấy người lái buôn ngủ khi đêm xemthử họ có bỏ sót gì chăng? Ông liền đến xem thì khôngthấy gì trừ một đứa con nít mới sanh độ một năm, đangngồi một mình. Ông Phạm chí nghĩ: Ta đâu có thể nhẫn tâmthấy đứa nhỏ này chết trước mặt mình. Ta có nên mangđứa nhỏ này về chỗ mình để nuôi chăng? Ông liền bồngvề chỗ mình ở mà nuôi. Đứa trẻ mỗi ngày mỗi lớn, đượcmười tuổi hơn. Lúc đó ông Phạm chí có chút việc muốnđi vào nhân gian, mới dặn đứa nhỏ: Ta có chút việc, tạmđi khỏi ít hôm. Ngươi khéo giữ gìn ngọn lửa này chớ đểtắt. Nếu lửa có tắt, thì hãy lấy hai thanh củi cọ lạivới nhau mà lấy lửa đốt lên. Dặn xong, Phạm chí ra đi.Sau khi ông đi, đứa nhỏ ham chơi, không chịu coi lửa cho thường,để lửa tắt. Đứa nhỏ hết chơi trở về thấy lửa đãtắt, áo não than thầm: “Ta làm hỏng rồi! Cha ta khi đi códặn bảo ta phải trông coi ngọn lửa này đừng để tắt.Nay ta ham chơi, để cho lửa tắt. Phải làm gì đây? Nó liềnthổi tro tìm lửa. Chẳng thấy lửa đâu. Lại lấy búa chẻcủi ra tìm, cũng chẳng thấy. Lại chặt củi thành khúc bỏvào cối giã để tìm. Cũng chẳng thấy. Sau đó Phạm chítừ ngoài trở về, đến khu rừng mà ông trú ngụ, hỏi đứanhỏ: Trước khi đi ta đã dặn ngươi coi lửa. Lửa có tắtkhông?. Đứa nhỏ đáp: “Vừa rồi con chạy ra ngoài chơi,không coi lửa thường, nên lửa đã tắt. Phạm chí lại hỏi:Người làm cách nào để lấy lửa lại? Đứa nhỏ đáp: Lửaphát ra từ củi. Con lấy búa bửa củi ra tìm mà chẳng thấy.Lại chặt nhỏ bỏ trong cối giã để tìm, cùng chẳng thấy.Ông Phạm chí liền lấy hai thanh củi cọ nhau, bỗng phát ralửa. Ông chất củi lên đốt và bảo đứa nhỏ: Muốn tìmlửa phải làm đúng cách này. Không nên chẻ củi, giã nátcủi ra mà tìm.

“NàyBà-la-môn, ông cũng giống như thế. Chẳng có phương phápnào đi lột da người chết ra mà tìm thần thức. Ông khôngthể dựa vào việc hiện trước mắt mà xem xét chúng sanh.

“NàyBà-la-môn, có những vị Tỳ-kheo, từ đầu đêm đến cuốiđêm không ngủ, tinh cần chuyên niệm đạo phẩm, lấy sứctam-muội mà tịnh tu thiên nhãn. Rồi bằng năng lực thiênnhãn mà quán thấy chúng sanh chết chỗ này sinh chỗ kia, chếtchỗ kia sinh chỗ này, sống lâu hay chết yểu, nhan sắc tốthay xấu, tùy hành vi mà thọ báo ở cảnh giới tốt hay xấu,đều thấy biết hết. Ông không nên vì lẽ con mắt thịtuế trược không nhìn thấy suốt chỗ thú hướng của chúngsanh mà vội cho là không có.

“NàyBà-la-môn, do đó có thể biết, tất phải có thế giới khácvậy”.”

Tệ-túnói:

“Tuyngài dẫn dụ nói có thế giới khác, song theo chỗ tôi biếtthì hẳn không có”.”

Ca-diếphỏi:

“Ôngcòn có duyên cớ gì cho là không có thế giới khác?”

“Có”.”

“Duyêncớ gì?”

Bà-la-mônnói:

“Ởphong ấp của tôi, có kẻ làm giặc cướp, bị rình bắt được,đem đến tôi và nói: Người này làm giặc, xin ông trị nó.Tôi liền sai tả hữu đem người ấy ra cân. Người hầu vângmạng, đem nó đi cân. Tôi lại bảo người hầu: Ngươi mangngười này đi giết từ từ, êm thấm, không làm hao tổn lấymột chút da thịt. Người hầu vâng lệnh giết mà không đểchút hao hụt. Tôi sai tả hữu đem xác người ấy cân lại.Nó lại nặng hơn trước.

“NàyCa-diếp, thân người ấy khi sống, thần thức đang còn, nhansắc tốt tươi, còn nói năng được mà đem cân thì nhẹ.Đến khi chết, thần thức đã mất, nhan sắc không còn tươitốt, không nói năng được; mà đem cân thì lại thấy nặng.Vì cớ đó nên tôi biết không có đời sau”.”

Ca-diếpnói:

“Tôinay hỏi ông. Tùy ý trả lời.

“Vínhư người cân sắt. Khi sắt còn nguội đem cân thì nặng.Sau đốt đỏ đem cân lại nhẹ. Tại sao khi sắt nóng, mềm,có màu đỏ sáng mà nhẹ, khi sắt nguội, cứng, không màuđỏ sáng mà lại nặng?”

Bà-la-mônnói:

“Sắtnóngchín có màu đỏ và mềm, nên nhẹ; sắt nguội không màuđỏ mà cứng, nên nặng”.”

Ca-diếpnói:

“Conngười cũng thế. Khi sống có nhan sắc, mềm mại mà nhẹ.Khi chết không nhan sắc, cứng đơ mà nặng. Do đây mà biếttất có thế giới khác”.”

Tệ-túnói:

“Tuyngài dẫn dụ nói có thế giới khác. Nhưng theo tôi biết thìkhông có thế giới khác”.”

Ca-diếphỏi:

“Ôngcòn có duyên cớ gì mà cho là không có thế giới khác?”

“Có.Nguyên tôi có người bà con mắc bệnh nặng. Tôi đến thăm,bảo người đỡ nằm nghiêng tay mặt. Người ấy liếc ngó,co duỗi, nói năng như thường. Tôi lại bảo đỡ nằm nghiêngtay trái, người ấy cũng còn liếc ngó, co duỗi, nói năngnhư thường. Rồi nó chết. Tôi lại bảo đỡ xác ngườiấy nằm nghiêng tay mặt, tay trái, lật sấp, lật ngửa,xem kỹ thì không thấy người ấy co duỗi, liếc ngó, nóinăng chi cả. Do đó tôi biết chắc không có thế giới khác”.”

Ca-diếpnói:

“Ngườitrí nhờ thí dụ mà được rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ cho ôngrõ.

“Xưacó một quốc độ không ai từng nghe tiếng tù và. Hôm nọcó người thổi tù và giỏi, đến nước đó, đi vào trongmột thôn nọ, cầm tù và thổi ba tiếng rồi bỏ xuống đất.Khi ấy, trai gái trong thôn nghe tiếng lạ kinh động, rủ nhauđến hỏi: Thứ tiếng gì mà trong trẻo hòa dịu như thế?Người chủ chỉ vào tù và mà nói Tiếng của cái đó. Ngườitrong thôn liền lấy tay vỗ vào tù và, nói: Ngươi kêu lên,ngươi kêu lên. Nhưng tù và bặt không kêu. Người chủ lạicầm tù và lên thổi thêm ba tiếng rồi bỏ xuống đất. Ngườitrong thôn nói: Cái thứ tiếng hay ho ta nghe khi nãy chẳng phảido sức tù và làm, mà cần có tay, có miệng, có hơi thổi,nó mới kêu. Con người cũng thế. Phải có thọ mạng, cóthần thức và hơi thở mới co duỗi, liếc ngó, nói năng được.Không thọ, không thức, không hơi thở thời không thể co duỗi,liếc ngó, nói năng được”.”

Ca-diếplại khuyên:

“Ôngnên từ bỏ cái ác tà kiến đó. Chớ giữ nó suốt đời,chỉ có thêm khổ não”.”

Bà-la-mônnói:

“Tôikhông thể bỏ được. Vì sao? Tôi từ sinh ra đến giờ đãtụng đọc, luyện tập kiên cố. Đâu có bỏ được”.”

Ca-diếpnói:

“Nhữngkẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tôi nay sẽ dẫn ví dụthêm cho ông rõ.

“Thuởxa xưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân điêutàn. Trong nước có hai người, một anh trí và một anh ngu,bảo nhau: Tôi là bạn anh. Chúng ta hãy cùng nhau ra ngoài thànhbứt lúa mọc hoang về làm của. Rồi họ cùng đi. Khi đếnmột xóm hoang, thấy có cây gai mọc đầy đất, người tríbảo người ngu chung nhau lấy đem về, mỗi người mỗi gánh.Sau đi ngang xóm trước, họ thấy có đám chỉ gai. Ngườitrí nói: Chỉ gai này đã làm thành, nhỏ và mịn, đáng lấyhơn. Người kia nói: Tôi đã lấy cây gai bó buộc chặt chẽrồi, không thể bỏ được. Người trí một mình lấy mộtgánh nặng chỉ gai đem về. Họ cùng nhau đi, bỗng lại gặpcó đám vải gai. Người trí nói: Vải gai này đã làm thành,nhẹ và mịn đáng lấy hơn. Người kia nói: Tôi đã lấy câygai đó buộc chặt chẽ rồi, nay không bỏ được. Ngườitrí liền bỏ gánh chỉ gai mà lấy vải gai làm một gánh nặng.Họ lại cùng nhau đi tới. Bỗng lại gặp đống bông gòn. Người trí nói: Bông gòn có giá, nhẹ và mịn, đáng lấyhơn. Người kia nói: Tôi đã lấy cây gai, bó buộc chắc chắn,gánh đi đã xa đường rồi nay không bỏ được. Người trímột mình bỏ vải gai mà lấy bông gòn gánh đi. Lần lữahọ gặp chỉ bông, gặp vải bông; rồi gặp đồng trắng,rồi gặp bạc, gặp vàng. Người trí nói: Nếu không vàngta hãy lấy bạc, không bạc ta hãy lấy đồng, hay ta hãy lấychỉ gai, nếu không chỉ gai ta mới lấy cây gai, nhưng nay tạithôn này có nhiều vàng, là thứ quý hơn các bảo vật khác,ngươi nên bỏ cây gai, ta sẽ bỏ bạc để chung nhau lấy vàng,mỗi người gánh lấy gánh nặng đem về. Nhưng người kianói: Tôi đã lấy cây gai bó buộc chắc chắn gánh đi đãxa, nay không thể bỏ được. Ngươi muốn lấy vàng thì lấy,tùy ý. Người trí liền bỏ bạc mà lấy vàng, gánh một gánhnặng đem về. Đến nhà, bà con người trí vừa thấy bónganh ta gánh nhiều vàng thì hoan hỷ nghinh đón. Người trí thấyđược bà con nghinh đón lại càng vui mừng hơn. Người ngugánh cây gai về, bà con trông thấy không chút vui mừng, khôngthèm nghinh đón. Người ngu gánh gai cũng càng thêm buồn vàhổỗ thẹn.

“NàyBà-la-môn, ông nên rời bỏ cái xu hướng ác tà kiến ấyđi, chớ để suốt đời chuốc thêm khổ não. Như ngườigánh cây gai, cứ chấp chặt ý ngu, không chịu lấy vàng, lạicứ gánh gai đem về, luống chịu lao nhọc, bà con không vui,suốt đời nghèo cùng, tự mang thêm khổ sở”.”

Bà-la-mônđáp:

“Tôikhông bao giờ bỏ kiến thức sẵn có của tôi được. Vìsao? Vì tôi nhờ thứ kiến thức đó mà dạy vẽ cho nhiềungười, đem lại nhiều ích lợi, vua chúa tứ phương đềunghe danh tôi, đều biết rõ tôi là nhà học giả chủ trươngđoạn diệt cả rồi”.”

Ca-diếplại nói:

“Nhữngkẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tôi nay sẽ dẫn ví dụthêm cho ông rõ.

“Thuởxa xưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân đềuđiêu tàn. Lúc đó có một đoàn buôn gồm một ngàn cỗ xeđi ngang qua nước đó. Vì không đủ nước, thóc, củi vàcỏ, thương chủ bèn nghĩ: Bọn ta đông người, không thểtự lo đủ nước, thóc, củi và cỏ. Nay ta hãy chia đòàanthành hai bộ phận. Một bộ phận lên đường trước. Ngườidẫn đạo của toán đi đầu gặp một người thân thể tolớn, mắt đỏ, mặt đen, mình mẩẫy dính đầy bùn. Trôngthấy người ấy từ xa đi lại, người dẫn đầu toán bènhỏi: Ông từ đâu lại? Đáp: Tôi từ xóm phía trước lại.Lại hỏi: Chỗ đó có nhiều nước, thóc, củi và cỏ không?Đáp: Chỗ ấy có rất nhiều nước, thóc, củi và cỏ, khôngthiếu. Tôi giữa đường gặp mưa lớn. Chỗ ấy nước nhiềumà củi, cỏ cũng nhiều. Lại bảo thương chủ: Trên xe cácông, nếu có thóc và cỏ, có thể bỏ hết đi. Đằng kia dưdã, không cần chở nặng xe. Rồi thương chủ ấy nói vớicác thương nhân rằng: Tôi có gặp một người thân thể tolớn, mắt đỏ mặt đen, xoa bùn khắp mình, từ đàng xa đilại, tôi hỏi: Ông từ đâu lại? Thì người đó trả lời:“Từ thôn đàng trước kia lại”. Tôi hỏi: Ở thôn đócó nước gạo củi cỏ nhiều không? Người đó trả lời:Thôn ấy giàu có, nước gạo củi cỏ không thiếu. Lại bảotôi: Tôi vừa đi giữa đường thì gặp trời mưa lớn. Chỗnày có nhiều nước; và củi cỏ cũng nhiều. Rồi ông ta lạibảo tôi: Nếu trên xe bọn người có chở thóc cỏ gì thìnên bỏ xuống hết. Thôn kia giàu có, không cần chở xe nặnglàm chi. Vậy các bạn nên bỏ thóc cỏ đi cho nhẹ xe. Rồinhư lời ấy, cả toán bỏ hết thóc cỏ xuống để cho xenhẹ đi mau tới. Đi như thế một ngày, chẳng thấy cỏ nướcđâu. Đi hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày cũng không thấyđâu. Bọn người buôn phải khốn cùng nơi đầm vắng vàbị ác quỷ bắt ăn thịt hết.

“Toánthứ hai tiếp tục lên đường. Người chủ buôn đi đầu,lại gặp một người to lớn mắt đỏ, mặt đen, mình mẩydính đầy bùn. Trông thấy người ấy từ xa đi lại, ngườidẫn đầu hỏi: Ông từ đâu lại? Người kia đáp: Tôi từxóm trước lại. Lại hỏi: Chỗ đó có nhiều nước, thóc,củi và cỏ không? Đáp: Chỗ ấy có rất nhiều. Rồi lạibảo thương chủ: Tôi ở giữa đường gặp cơn mưa lớn.Chỗ ấy nước nhiều, cũng có nhiều củi, cỏ. Lại bảothương chủ: Trên xe các ông, nếu có thóc, cỏ thì có thểbỏ đi. Đằng kia dư dả; không cần chở nặng xe làm gì.Khi ấy, thương chủ trở lại nói với mọi người: Ta vừađến phía trước, gặp một người; y nói với ta rằng: Trênxe các ông, nếu có thóc cỏ thì có thể vứt bỏ hết đi.Đằng kia dư dã, không cần chở nặng xe. Rồi thương chủdặn: Thóc, cỏ; các ngươi hãy cẩn thận chớ vất bỏ đi.Bao giờ được có cái mới rồi hãy bỏ. Vì sao? Cái mới,cái cũ nối tiếp luôn mới mong qua khỏi bãi hoang. Cả đoànbuôn cứ chở xe nặng mà đi. Đi được một ngày, chẳng thấycỏ nước đâu. Đi hai ngày, ba ngày đến bảy ngày cũng chẳngthấy đâu, chỉ thấy xương cốt ngổn ngang của toán ngườiđi trước bị quỷ bắt ăn thịt để lại.

“NàyBà-la-môn, người mặt đỏ mặt đen kia chính là quỷ La-sát.Những người nghe theo lời nó, suốt đời chịu khổ, chẳngkhác toán buôn đầâu vì vô trí nghe theo người dẫn đườngmà phải thiệt mạng. Những Sa-môn, Bà-la-môn tinh tấn, trítuệ, họ có dạy gì, ai nghe theo thời suốt đời được anổn như toán buôn sau, nhờ có trí nên khỏi bị tai nạn.

“NàyBà-la-môn, ông hãy bỏ thứ ác kiến đó đi, chớ để suốtđời chỉ chuốc thêm khổ não”.”

Bà-la-mônnói:

“Tôikhông thể nào bỏ kiến thức đó được. Nếu có ai đếncan tôi lắm, thì chỉ làm tôi phát giận chớ tôi quyết khôngbao giờ bỏ”.”

Ca-diếptiếp:

“Nhữngkẻ có trí nhờ thí dụ mà được rõ. Tôi sẽ dẫn ví dụcho ông.

“Thuởxưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân đềuđiêu tàn. Lúc đó có một người thích nuôi heo. Nhân anh tađi đến một thôn vắng, thấy có nhiều phân khô, mới nghĩthầm: Chỗ này nhiều phân, mà heo ta ở nhà đang đói. Ta nênlấy cỏ gói phân này đội trên đầu đem về. Rồi anh taliền lấy cỏ gói phân đội đi. Bất ngờ giữa đường gặpcơn mưa lớn, nước phân chảy xuống thấu gót chân. Mọingười thấy vậy chê anh ta điên cuồng: Đồ phân dơ ấy,giả sử trời tạnh còn không nên đội thay, huống giữa lúctrời mưa lại đội mà đi. Anh ta nổi giận mắng lại: Cácngươi là đồ ngu, không biết heo ta ở nhà đang đói. Nếucác ngươi biết, chắc không nói ta ngu.

“NàyTệ-tú! Ngươi nên bỏ thứ ác kiến đó đi, chớ giữ chặtsự ngu mê mà suốt đời chịu khổ. Như người ngu kia đãđội phân mà đi, bị kẻ khác chê trách, can ngăn, lại trởmắng người ta vô trí!”

Bà-la-mônnói với Ca-diếp:

“Cácngài nếu bảo làm lành được lên trời, chết hơn sống,sao các ngài không lấy dao tự vẫn hoặc uống thuốc độcchết đi, hoặc trói tay chân rồi gieo mình từ trên bờ cao?Nhưng nay thảy đều tham sống, không ai tự sát cả. Như thểđủ biết chết không hơn sống!

Ca-diếpnói:

“Nhữngkẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tôi nay sẽ dẫn ví dụthêm cho ông rõ.

“Xưaở thôn Tư-bà-hê này có một người Phạm chí, kỳ cựu trưởnglão, tuổi đã một trăm hai mươi120, có hai người vợ, mộtngười có con trước, còn một người mới có thai. Phạm chíấy không bao lâu thì chết. Con người mẹ lớn nói với ngườimẹ nhỏ rằng: Bao nhiêu gia tài này đều về tôi cả, bàkhông có phần”. Người mẹ nhỏ nói: Hãy chờ ít lâu đểtôi sinh. Nếu là con trai thì nó phải có một phần gia tài.Nếu là con gái, cậu cưới nó thì sẽ có tiền”. Nhưng concủa người vợ lớn cứ nằn nì ba lần đòi chia gia tài chođược, người vợ nhỏ vẫn trả lời như trước. Con củangười vợ lớn bức ép mãi. Người vợ nhỏ bèn lấy daotự mổ bụng mình để coi cho biết con trai hay con gái.

“NàyBà-la-môn, người mẹ này tự sát, lại hại luôn đứa controng bào thai. Bàa-la-môn các ngươi cũng như thế, đã tựgiết mình còn muốn giết kẻ khác. Nếu các Sa-môn, Bà-la-môntinh cần tu thiện, đầy đủ giới đức mà sống lâu ở đờithì đem lại nhiều ích lợi, an lạc cho nhân thiên.

“Naytôi sẽ dẫn một ví dụ cuối cùng để cho ngươi rõ tai hạicủa ác kiến.

“Xưaở thôn Tư-bà-hê này có hai tay nghề giỏi luyện trò chơibi. Một hôm họ đấu nghề với nhau, một người hơn cuộc.Người thua nói với người hơn rằng: Thôi ngày nay nghỉ đểngày mai đấu lại. Người thua trở về nhà lấy mấy hònbi để chơi đem tẩm thuốc độc, phơi khô, ngày mai đem tớichỗ người hơn đòi đấu nghề lại. Trước khi cùng chơi,người thua lấy một hòn bi đã tẩm thuốc độc trao cho ngườihơn, người hơn lấy nuốt. Người thua trao nữa, người hơnnuốt nữa, bị chất độc chạy, làm toàn thân run rẩẫy.Bấy giờ người thua bèn mắng bằng một bài kệ:

Tabôi thuốc vào bi,

Ngươinuốt mà không hay.

Tiểukỹ, hãy nuốt đi,

Vềsau khắc tự biết.

“NàyBà-la-môn! Ngươi nên mau mau xả bỏ ác kiến đó đi, chớđể mê muội mãi càng thêm khổ sở, như anh chàng làm tròkia nuốt độc vào mình mà không biết!

Bấygiờ Bà-la-môn bạch Ca-diếp rằng:

“Tôngiả mới nói về dụ mặt trăng, tôi đã hiểu rồi. Tôi sởdĩ nhiều phen không chịu, vì tôi muốn thấy chỗ trí tuệbiện tài của ngài để thêm chắc lòng tin. Nay tôi xin tínthọ quy y Ca-diếp”.”

Ca-diếpđáp:

“Ôngchớ quy y ta, mà nên quy y nơi Đấng Vô Thượng Tôn như tađã quy y”.”

Tệ-túhỏi:

“Khônghiểu Đấng Vô Thượng Tôn mà ngài đã quy y nay ở đâu?”

Ca-diếpđáp:

“ÐứcThế Tôn thầy tôi đã diệt độ chưa bao lâu”. .”

Tệ-túnói:

“NếuThế Tôn còn, dù xa gần tôi cũng tìm đến để tự thân nhìnthấy, quy y lễ bái. Nay nghe Ca-diếp nói Như Lai đã diệt độ,vậy tôi xin quy y Đức Như Lai diệt độ, quy y Phật pháp vàchúng Tăng. Xin Ca-diếp cho tôi được làm Ưu-bà-tắc ở trongChánh pháp; từ nay về sau, tôi thề trọn đời không giết,không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.Nay tôi sẽ đại bố thí cho tất cả”.”

Ca-diếpnói:

“Nếuông giết mổ chúng sanh, đánh đập tôi tớ để mở hội,đó không phải ngươi làm phước thanh tịnh. Ví như trên chỗđất cạn, sạn sỏi, gai mọc nhiều, đem gieo giống vào tấtkhông gặt được gì. Nếu ông giết mổ chúng sanh, đánh đậptôi tớ để mở hội bố thí cho chúng tà kiến, đó khôngphải là phước thanh tịnh. Nếu ông mở hội đại thí màkhông sát hại chúng sanh, không dùng roi gậy đánh đập tôitớ, đem lòng hoan hỷ mở hội để thí cho hạng người thanhtịnh thì ngươi sẽ thâu được phước lớn. Ví như chỗruộng tốt, đúng mùa đem gieo giống tất được gặt nhiều”.”

“NàyCa-diếp, từ nay về sau tôi sẽ luôn luôn tịnh thí cho chúngTăng, không để gián đoạn.

Lúcđó có một Phạm chí trẻ tên là Ma-đầu, đứng sau lưngTệ-tú. Tệ-tú quay lại bảo:

“Nayta muốn mở hội đại thí tất cả, ngươi hãy thay ta sắpđặt và phân xử.”

Phạmchí trẻ vâng lời Tệ-tú sắp đặt và phân xử. Khi sắpđặt xong, cất tiếng nói rằng:

“Nguyệncho ông Tệ-tú đời nay, đời sau chẳng được phúc báo gìcả”.”

Tệ-túnghe được, kêu Phạm chí trẻ đến hỏi:

“Ngươicó nói nói như thế chăng?”

Phạmchí trẻ đáp:

“Đúngnhư vậy. Tôi thật có nói như vậy. Bởi vì các thức ănthô kém như vầy nay ngài bày dọn để thí chúng Tăng, nếuthử đem cho ngài, ngài còn không thèm sờ tay tới huống làlấy ăn. Những thứ được dọn bày hiện tại không thểvui mắt đẹp lòng làm sao đời sau có được quả báo thanhtịnh. Ngài bố thí y phục cho chúng Tăng mà thí toàn vảigai, nếu thử đem nó cho ngài, ngài còn không lấy chân sờtới huống hồ lấy mặc. Những thứ được dọn bày hiệntại không thể vui mắt đẹp lòng làm sao đời sau có đượcquả báo thanh tịnh”.”

Khiấy Bà-la-môn lại bảo Phạm chí:

“Từnay về sau ngươi hãy lấy thứ vật ta ăn, thứ áo ta mặcmà bố thí chúng Tăng”. Phạm chí trẻ vâng lời làm theolấy thứ vật mà vua ăn, thứ áo vua mặc mà bố thí chúngTăng.

Bà-la-mônkhi thiết tịnh thí này, thân hoại mạng chung sinh lên mộtcõi trời hạ liệt. Phạm chí trẻ trông nom mở hội thì saukhi chết lại được sinh lên cõi trời Đao-lợi.

Bấygiờ, Bà-la-môn Tệ-tú, Phạm chí trẻ và chúng Bà-la-môn,Cư sĩ trong thôn Tư-bà-hê, sau khi nghe những điều Đồng nữCa-diếp thuyết, hoan hỷ phụng hành.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567