MỤC LỤC
HƯỚNG VỀ THÀNH ĐẠO.. 7
Ý NGHĨA GIỚI HỌC.. 28
CON ĐƯỜNG THỰC NGHIỆM TÂM LINH.. 66
CHÁNH KIẾN TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI CON PHẬT 91
TRỊ LIỆU VÀ CHUYỂN HÓA CƠN GIẬN.. 108
Pháp Thoại: XUÂN NHÂM THÌN TRONG
NIỀM TIN TỰ TỊNH TÂM Ý.. 116
DANH HIỆU VÀ BẢN NGUYỆN CỦA PHẬT
A DI ĐÀ CHO THỜI ĐẠI CHÚNG TA.. 135
SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM.. 183
MƯỜI SÁU PHÁP QUÁN NIỆM HƠI THỞ.. 188
MƯỜI SÁU PHÁP QUÁN NIỆM TRONG TỨ NIỆM XỨ 192
BẢY YẾU TỐ GIÁC NGỘ TRONG BỐN
NIỆM XỨ.. 195
THỰC TẬP BA PHÁP THIỀN QUÁN - KHÔNG - VÔ TƯỚNG - VÔ TÁC 198
NIỆM PHẬT TRONG THIỀN QUÁN.. 209
THƯ MỤC THAM KHẢO.. 246
HƯỚNG VỀ THÀNH ĐẠO
Đức Thế Tôn thành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết bàn và giáo hóa chúng sanh.
Điểm Đến Chí Thiện
Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo ca sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]
Như vậy, điểm cùng đích mà khi xuất gia Thế Tôn hướng tới là điểm Chí Thiện. Cùng đích của Chí thiện là Diệt đế tức là Niết bàn hay tịch tịnh tuyệt đối. Vì sao? Vì nó là đời sống không còn bị sanh, già, bệnh, chết chi phối. Cùng đích của chí thiện là vô sanh, bất diệt, nơi không còn bất cứ một bóng dáng nào của tham dục và ngã tưởng.
Đường Lớn Mở Ra
Thế Tôn đã đi đến cùng đích của chí thiện bằng con đường nào? Bằng con đường Thánh đạo tám chi.
Do đi trên con đường nầy, Thế Tôn đã vượt ra khỏi hai cực đoan là khổ hạnh ép xác và buông lung trong các dục. Sống với đời sống ép xác khổ hạnh, khiến con người có cái nhìn lãnh cảm với cuộc đời và hờ hững với những gì đang hiện hữu; và sống với tâm buông lung trong các dục, khiến cho con người quá nhiệt tình với các nhu cầu của lòng tham, nên bị mù quáng và chết điếng bởi nó.
Nên, Thánh đạo tám chi, con đường vượt ra khỏi hai cực đoan ấy, để đi đến cùng đích của chí thiện và Thế Tôn đã đi đến cùng đích ấy bằng con đường nầy.
Vì vậy, đức Thế Tôn nói: “Nầy các Tỷ kheo! Quý vị tu tập, cần phải từ bỏ hai cực đoan ấy. Tôi sẽ nói cho quý vị biết về con đường Trung đạo, quý vị phải hết lòng nghe, ghi nhớ và nỗ lực thực hành!
Thế nào là con đường Trung đạo? Đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Con đường đủ tám yếu tố như vậy, gọi là Trung đạo. Đây là con đường đi tới an lạc, trí tuệ, giác ngộ và niết bàn”.[2]
Như vậy, Thế Tôn thành đạo là do Ngài đã tự mình đi trên con đường nầy và con đường lớn đã mở ra, dẫn Ngài đến chỗ an lạc chí thiện, trí tuệ minh triệt, giác ngộ tối thượng và niết bàn tuyệt đối.
Đoạn Trừ Lậu Hoặc Và Chứng Tam Minh
Thế Tôn đoạn trừ các lậu hoặc bằng con đường nào? Bằng con đường thiền quán với sự có mặt của Chánh tư duy, sau khi đã đi qua hỷ lạc, do các loại thiền định từ Sơ thiền đến Tứ thiền đem lại, Ngài dừng lại ở nơi Tứ thiền, với tâm thuần tịnh, không còn các bóng dáng của khổ thọ, lạc thọ, ưu thọ, hỷ thọ và niệm tưởng, và bấy giờ Ngài đi vào thiền quán, lấy “lão tử” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “sanh”; lấy “sanh” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “hữu”; lấy “hữu” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “thủ”; lấy “thủ” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “ái’; lấy “ái’ làm đối tượng tư duy để thấy rõ ‘thọ’; lấy “thọ” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “xúc”; lấy “xúc’ làm đối tượng tư duy để thấy rõ “lục nhập”; lấy “lục nhập” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “danh sắc”; lấy “danh sắc” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “thức”; lấy “thức” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “hành”; lấy “hành” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “vô minh”; lấy “vô minh” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “vô minh” diệt, thì “hành” diệt; “hành” diệt, thì “thức’ diệt; “thức” diệt, thì “danh sắc” diệt; “danh sắc” diệt, thì “lục nhập” diệt; “lục nhập” diệt, thì “xúc” diệt; “xúc” diệt, thì “thọ’ diệt; “thọ” diệt, thì “ái’ diệt; “ái” diệt, thì “thủ” diệt; “thủ” diệt, thì “hữu” diệt; “hữu” diệt, thì “sanh” diệt; “sanh” diệt, thì “lão tử” diệt.
Sau khi đã tư duy và thấy rõ như vậy, Ngài liền thấy và biết một cách như thật rằng, chính “ái, thủ và hữu” là tác nhân và tác duyên hiện tại để “sanh lão tử” có mặt; và “vô minh, hành” là tác nhân, tác duyên quá khứ để cho “thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ” có mặt, và toàn bộ “khổ uẩn” đời nầy và đời sau có mặt, nên Ngài đã dùng năng lực của Giới, định và tuệ hay các yếu tố trợ đạo và chánh đạo, để chặt đứt “ái, thủ và hữu”; chặt đứt “vô minh và hành”, khiến các lậu hoặc đều dứt sạch; và bằng tuệ giác, Ngài đã soi chiếu vào tự thân, thấy rõ nhân duyên của mình, từ một kiếp, hai kiếp cho đến vô lượng kiếp, trong quá khứ với tên như vậy, với dòng họ như vậy, với cha mẹ như vậy, với quốc độ như vậy, với hành nghiệp như vậy,... với sự thấy rõ như vậy, gọi là Túc mạng minh. Ngài đã chứng minh nầy, cuối canh một của đêm thành đạo.
Tiếp tục thiền quán, Ngài dùng tuệ giác để soi chiếu nhân duyên và nghiệp quả của chúng sanh, Ngài đã thấy rõ nhân duyên và nghiệp quả của những loài chúng sanh sinh ra từ sự ẩm ướt; từ trứng; từ thai và từ sự biến hóa. Sự thấy rõ như vậy, gọi là Thiên nhãn minh. Ngài chứng minh nầy vào cuối canh hai của đêm thành đạo.
Ngài vừa chứng Thiên nhãn minh, thì ngay lúc ấy, sấm sét nổ tung vang trời, mưa bắt đầu tuôn xuống xối xả. Nhưng, Ngài vẫn điềm nhiên bất động, dẫn tâm hướng đến Lậu tận trí và biết đúng như thật: Đây là Khổ. Đây là Tập khởi của khổ. Đây là sự vắng mặt của khổ và đây là con đường chấm dứt sự khổ.
Sau khi đã có Chánh kiến như vậy rồi, Ngài lại tiếp tục quán chiếu để thấy rõ:
“Đây là những ước muốn mê lầm. Đây là những kiến thức mê lầm. Đây là những mê lầm do vô minh.
Đây là nguyên nhân của sự ước muốn mê lầm. Đây là nguyên nhân của những kiến thức mê lầm. Đây là nguyên nhân của sự mê lầm do vô minh.
Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhân mê lầm. Đây là vắng mặt nguyên nhân của những kiến thức mê lầm. Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhân sinh khởi vô minh.
Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những ước muốn mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những kiến thức mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những mê lầm do vô minh”.
Bằng con đường thiền quán, soi rọi tâm thức như thế, Ngài đã loại trừ hết thảy dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Ngài tự biết mình đã giải thoát hoàn toàn, không còn bị ràng buộc bởi bất cứ lậu hoặc nào và tự tuyên bố:
“Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm xong, vĩnh viễn không còn tái sanh nữa”.
Với Chánh kiến đối với các lậu hoặc ở nơi tự tâm như vậy, gọi là Lậu tận minh. Ngài đã chứng được minh nầy, vào cuối canh ba của đêm thành đạo.
Cùng ngay lúc ấy, Ngài quán chiếu, thấy rõ mọi nhân duyên của hết thảy mọi ngôn ngữ và âm thanh, nên Ngài đã chứng Thiên nhĩ thông. Tiếp tục thiền quán, Ngài chứng được Tha tâm thông, biết rõ tâm của hết thảy chúng sanh. Và ngay sau đó, Ngài chứng luôn Thần túc thông, không còn bất cứ một chướng ngại nào đối với bước chân đi của Ngài.
Chướng ngại đã qua, nắng ấm đã lên, Ngài nhìn muôn vật mỉm cười và tự nhủ:
“Cửa vô sanh bất diệt đã mở ra, Đạo lớn đã thành”. Bấy giờ là vào ngày mồng 8 tháng 12 âm lịch, lúc Ngài 35 tuổi”.[3]
[1] Kinh Thánh Cầu, Trung bộ I, tr 163, ĐHVH 1973.
[2] Phật Thuyết Tam chuyển pháp luân kinh, số 110, Đại Chính 2.
[3] Tham khảo Kinh Thánh Cầu, Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc, Trung bộ I, ĐHVH, 1973. Phẩm Phật Đà, Tương Ưng Bộ II, ĐTKVN, 1993. Phật Bản Hạnh Tập Kinh 31, 32, Đại Chính 3.
Con đường thực nghiệm tâm linh_HT Thích Thái Hòa