Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. A-Nậu-Di

12/03/201211:11(Xem: 5747)
15. A-Nậu-Di

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

PHẦNII

15.KINH A-NẬU-DI

Tôinghe như vầy:

Mộtthời, Phật ở tại nước Minh-ninh, đất A-nậu-di.. Cùng vớichúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.

Bấygiờ, Thế Tôn khoác y cầm bát vào thành A-nậu-di khất thực.Rồi Thế Tôn thầm nghĩ: “Nay Ta đi khất thực, thời giancòn quá sớm. Ta hãy đến khu vườn của Phạm chí Phòng-già-bà.Tỳ-kheo cần phải đúng giờ mới đi khất thực”.

ThếTôn đi đến khu vườn kia. Khi ấy Phạm chí từ xa trông thấyPhật liền đứng dậy nghinh tiếp, cùng chào hỏi, rằng: “Hoannghinh Cù-đàm. Từ lâu không đến. Nay do duyên gì lại khuấttất đến đây? Xin mời Cù-đàm ngồi chỗ này”.

ThếTôn liền ngồi vào chỗ ấy. Phạm chí ngồi một bên, bạchThế Tôn:

“Đêmhôm qua có Tỳ-kheo Thiện Tú người Lệ-xa đến chỗ tôi nóirằng: Đại sư, tôi không theo Phật tu phạm hạnh nữa. Sởdĩ vậy là vì Phật xa lạ với tôi. Người ấy nói với tôinhững sai lầm của Cù-đàm. Tuy có nói như vậy, nhưng tôikhông chấp nhận”.”

Phậtnói với Phạm chí:

“Điềumà Thiện Tú kia nói, Ta biết ông không chấp nhận. Xưa, mộtthời, Ta đang ở trên Tập pháp đường, bên bờ hồ Di hầu,thuộc Tỳ-da-li; khi ấy Thiện Tú này đi đến chỗ Ta, nóivới Ta rằng: Như Lai xa lạ với con. Con không theo Như Lai tuphạm hạnh nữa. Ta khi ấy nói rằng: Ngươi vì sao nói rằngkhông theo Như Lai tu phạm hạnh nữa, vì Như Lai xa lạ vớingươi? Thiện Tú đáp: Như Lai không hiện thần túc biến hóacho con thấy.

“Takhi ấy nói rằng: Ta có mời ngươi đến trong pháp Ta tịnhtu phạm hạnh, Ta sẽ hiện thần túc cho ngươi thấy không?Sao lại nói: Như Lai hãy hiện thần túc biến hóa cho con thấy,con mới tu phạm hạnh? Khi ấy Thiện Tú trả lời Ta rằng:Không, bạch Thế Tôn.”

Phậtnói với Thiện Tú:

“Tacũng không nói với ngươi: Ngươi hãy ở trong Pháp của Tamà tịnh tu phạm hạnh, Ta sẽ hiện thần túc biến hóa chothấy. Ngươi cũng không nói: Hãy hiện thần túc cho con thấy,con sẽ tu phạm hạnh. Thế nào, Thiện Tú, theo ý ngươi, NhưLai có khả năng hiện thần thông, hay không có khả năng? Phápmà Ta giảng thuyết, Pháp ấy có khả năng dẫn đến xuấtly, tận cùng biên tế của khổ chăng?”.”

ThiệnTú bạch Phật:

“Đúngvậy, Thế Tôn. Như Lai có thể thị hiện thần túc, chứ khôngphải không thể. Pháp được giảng dạy có khả năng dẫnđến xuất ly, diệt tận biên tế của khổ, chứ không phảikhông diệt tận”.”

“Chonên, này Thiện Tú, ai tu hành phạm hạnh theo Pháp mà Ta giảngdạy thì có thể hiện thần túc chứ không phải không thể;pháp ấy dẫn đến xuất ly, không phải không thể xuất ly.Ngươi mong cầu cái gì đối với pháp ấy?”

ThiệnTú nói:

“ThếTôn thỉnh thoảng không dạy con bí thuật của cha con mà ThếTôn đã biết hết, nhưng vì keo kiệt mà không dạy cho con”.”

Phậtnói:

“ThiệnTú, Ta có bao giờ nói với ngươi rằng: Ngươi hãy ở trongpháp Ta tu phạm hạnh, Ta sẽ dạy cho ngươi bí thuật củacha ngươi chăng?”

Đáp:“Không”.

“Chonên, này Thiện Tú, trước đây Ta không nói như vậy. Ngươicũng không nói. Vậy tại sao nay nói như thế?

“Thếnào, Thiện Tú, Như Lai có thể nói bí thuật của cha ngươi,hay không thể? Pháp mà Ta giảng dạy có dẫn đến xuất ly,diệt tận biên tế của khổ chăng?”

ThiệnTú nói:

“NhưLai có thể nói bí thuật của cha con, không phải không thể.Pháp đã được giảng dạy có thể dẫn đến xuất ly, diệttận biên tế của khổ, chứ không phải không thể”.”

Phậtlại bảo Thiện Tú:

“NếuTa có thể nói bí thuật của cha ngươi, cũng có thể nói pháp,nói sự xuất ly, sự lìa khổ, thì ngươi tìm cái gì trongpháp của Ta?”

Phậtlại nói với Thiện Tú:

“Ngươi,trước kia ở trong lãnh thổ của người Bạt-xà, thuộc Tỳ-xá-ly,đã bằng vô số phương tiện xưng tán Như Lai, xưng tán Chánhpháp, xưng tán chúng Tăng. Cũng như một người khen ngợi mộtcái ao trong mát kia bằng tám cách khiến mọi người ưa thích:một, lạnh; hai, nhẹ; ba, mềm; bốn, trong; năm, ngọt; sáu,không bẩn; bảy, uống không chán; tám, khỏe người. Ngươicũng vậy, ở trong lãnh thổ Bạt-xà, Tỳ-xá-ly, xưng tán NhưLai, xưng tán Chánh pháp, xưng tán chúng Tăng, khiến mọi ngườitin vui. Thiện Tú, nên biết, ngày nay ngươi bị lui sụt, ngườiđời sẽ nói rằng: Tỳ-kheo Thiện Tú có nhiều quen biết,lại thân cận Thế Tôn và cũng là đệ tử Thế Tôn; nhưngkhông thể trọn đời tịnh tu phạm hạnh; đã xả giới, hoàntục, thực hành hèn hạ. Phạm chí, nên biết, khi ấy Ta nóiđủ lời, nhưng Thiện Tú không thuận lời dạy của Ta, màđã xả giới hoàn tục.

“Phạmchí, một thời Ta ở tại Tập pháp đường bên bờ hồ Dihầu ; khi ấy có Ni-kiền Tử tên là Già-la-lâu dừng chântại chỗ kia, được mọi người sùng kính, tiếng tăm đồnxa, có nhiều quen biết, lợi dưỡng đầy đủ. Khi ấy Tỳ-kheoThiện Tú khoác y cầm bát vào thành Tỳ-xá-ly khất thực;đi lần đến chỗ Ni-kiền Tử. Bấy giờ, Thiện Tú hỏi Ni-kiềnTử bằng ý nghĩa sâu xa. Ni-kiền Tử ấy không đáp được,liền sanh tâm sân hận. Thiện Tú nghĩ thầm: Ta làm ngườinày bực bội, sẽ phải chịu quả báo lâu dài chăng? Phạmchí, nên biết, Tỳ-kheo Thiện Tú sau khi khất thực về, cầmy bát đến chỗ Ta, đầu mặt lễ dưới chân, rồi ngồi xuốngmột bên. Thiện Tú khi ấy không đem duyên cớ ấy mà kểlại với Ta. Ta nói với Thiện Tú rằng: Người ngu kia, ngươihá có thể tự nhận mình là Sa-môn Thích tử chăng? ThiệnTú giây lát hỏi Ta rằng: Thế Tôn vì duyên cớ gì mà gọicon là người ngu? Không xứng đáng tự nhận là Sa-môn Thíchtử? Ta nói: Người ngu kia, có phải ngươi đã đến Ni-kiềnTử mà hỏi ý nghĩa sâu xa, nhưng người kia không đáp đượcbèn sanh sân hận. Ngươi nghĩ thầm: “Ta nay làm người nàybực bội, há sẽ phải chịu quả báo đau khổ lâu dài chăng?"Ngươi có nghĩ như vậy không? Thiện Tú bạch Phật rằng:Người kia là A-la-hán. Sao Thế Tôn có tâm sân hận ấy??.Ta khi ấy trả lời rằng: Người ngu kia, La- hán làm sao lạicó tâm sân hận? Ta, La-hán, không có tâm sân hận. Ngươi naytự cho người kia là La -hán. Người kia có bảy sự khổ hạnh,đã được gìn giữ lâu ngày. Bảy khổ hạnh ấy là gì? Một,suốt đời không mặc quần áo. Hai, suốt đời không uốngrượu, ăn thịt, cũng không ăn cơm và thực phẩm bằng bộtmì. Ba, suốt đời không vi phạm phạm hạnh. Bốn, trọn đờikhông rời bốn tháp bằng đá ở Tỳ-xá-ly; phía Đông làtháp Ưu viên, phía Nam tháp Voi, phía Tây tháp Đa tử, phíaBắc tháp Thất tụ. Trọn đời không rời khỏi bốn thápấy, coi đó là bốn sự khổ hạnh. Nhưng người ấy về sauvi phạm bảy khổ hạnh này và mạng chung ở ngoài thành Tỳ-xá-ly.Cũng như con chó sói bệnh suy vì ghẻ lỡ mà chết trong bãitha ma. Ni-kiền Tử kia cũng vậy. Tự mình đặt cấm pháp,sau lại phạm hết. Trước tự thề rằng suốt đời khôngmặc quần áo, sau đó lại mặc. Trước tự mình thề rằngsuốt đời không uống rượu, ăn thịt và không ăn các thứlàm bằng bột mì, nhưng về sau lại ăn hết. Trước vốntự mình thề rằng suốt đời không vượt qua khỏi bốn cáitháp: phía Đông tháp Ưu viên, Nam tháp Voi, Tây tháp Đa tử,Bắc tháp Thất tụ. Nay trái lời hết, rời xa không còn gầngũi nữa. Người ấy sau khi vi phạm bảy lời thề ấy rồi,ra khỏi thành Tỳ-xá-ly, chết trong bãi tha ma. Phật bảo ThiệnTú: Người ngu kia, ngươi không tin lời Ta. Ngươi hãy tự mìnhđi xem, sẽ tự mình biết.”

Phậtnói với Phạm chí:

“Mộtthời, Tỳ-kheo Thiện Tú khoác y cầm bát vào thành khất thực.Khất thực xong, lại ra khỏi thành, đi đến một khoảng trốngtrong bãi tha ma, thấy Ni-kiền Tử kia chết ở đó. Sau khi thấynhư vậy, về đến chỗ Ta, đầu mặt lễ dưới chân, rồingồi sang một bên, nhưng không kể lại chuyện ấy với Ta.Phạm chí, nên biết, lúc ấy Ta nói với Thiện Tú: Thế nào,Thiện Tú, những điều Ta ghi nhận về Ni-kiền Tử trướcđây, có đúng như vậy không? Đáp rằng: Đúng vậy, đúngnhư lời Thế Tôn đã nói. Phạm chí, nên biết, Ta đã hiệnthần thông chứng minh cho Thiện Tú, nhưng kia lại nói: ThếTôn không thị hiện thần thông cho con.”

“Lạimột thời, Ta ở tại ấp Bạch thổ nước Minh-ninh, lúc bấygiờ có Ni-kiền Tử tên là Cứu-la-đế, trú tại Bạch thổ,được mọi người sùng kính, tiếng tăm đồn xa, được nhiềulợi dưỡng. Khi ấy, Ta khoác y cầm bát vào thành khất thực.Tỳ-kheo Thiện Tú lúc bấy giờ đi theo Ta, thấy Ni-kiền TửCứu-la-đế đang nằm phục trên một đống phân mà liếmbã trấu. Phạm chí, nên biết, khi Tỳ-kheo Thiện Tú thấyNi-kiền Tử này nằm phục trên đống phân mà ăn bã trấu,liền suy nghĩ rằng: Các A-la-hán hay những vị đang hướngđến quả A-la-hán trong thế gian không ai kịp vị này. Đạocủa vị Ni-kiền Tử này là bậc nhất hơn hết. Vì sao? Ngườikhổ hạnh mới được như vậy, dứt bỏ kiêu mạn, nằm trênđống phân mà liếm bã trấu.

“Phạmchí, bấy giờ Ta xoay người theo hướng phải, nói với ThiệnTú rằng: Người ngu kia, ngươi há có thể tự nhận là Thíchtử chăng? Thiện Tú bạch Phật rằng: Thế Tôn, vì sao gọicon là người ngu, không xứng đáng tự nhận là Thích tử?Phật nói với Thiện Tú: Ngươi ngu si, ngươi quan sát Cứu-la-đếnày ngồi chồm hổm trên đống phân mà ăn bã trấu liềnnghĩ rằng: Trong các A-la-hán hay những vị đang hướng đếnquả La hán, Cứu-la-đế này là tối tôn. Vì sao? Nay Cứu-la-đếnày có thể hành khổ hạnh, trừ kiêu mạn, ngồi chồm hổmtrên đống phân mà ăn bã trấu. Ngươi có ý nghĩ như vậykhông? Đáp rằng: Thật vậy. Thiện Tú lại nói: Thế Tônvì sao sanh tâm ganh tị với một vị A-la-hán? Phật nói: Ngườingu kia, Ta không hề sanh tâm ganh tị đối với một vị A-la-hán,làm sao nay lại sanh tâm tật đố đối với một vị A-la-hán?Ngươi, người ngu kia, bảo Cứu-la-đế là một vị chân A-la-hán.Nhưng người này sau bảy ngày nữa sẽ sình bụng mà chết,tái sanh làm quỷ đói thây ma biết đi, thường chịu khổvì đói. Sau khi mạng chung, được buộc bằng cọng lau màlôi vào bãi tha ma. Nếu người ngưới không tin, hãy đếnbáo trước cho người ấy biết.

“RồiThiện Tú liền đi đến chỗ Cứu-la-đế, bảo rằng: Sa-mônCù-đàm kia tiên đoán rằng bảy ngày nữa ông sẽ bị sìnhbụng mà chết, sanh vào trong loài quỷ đói thây ma biết đi;sau khi chết, được buộc bằng sợi dây lau và lôi vào bãitha ma. Thiện Tú lại dặn: Ông hãy ăn uống cẩn thận, chớđể lời ấy đúng. Phạm chí, nên biết, qua bảy ngày, Cứu-la-đếbị sình bụng mà chết, tức thì sanh vào trong loài quỷ đóithây ma; sau khi chết, được buộc bằng dây lau và lôi vàobãi tha ma. Thiện Tú sau khi nghe Phật nói, co ngón tay tính ngày.Cho đến ngày thứ bảy, Tỳ-kheo Thiện Tú đi đến xóm lõahình, hỏi người trong xóm: Này các bạn, Cứu-la-đế nay đangở đâu? Đáp rằng: Chết rồi. Hỏi: Vì sao chết? Đáp: Bịsình bụng. Hỏi: Chôn cất thế nào? Đáp: Được buộc bằngdây lau và lôi vào bãi tha ma.

“Phạmchí, Thiện Tú sau khi nghe như vậy, liền đi đến bãi tha ma.Khi sắp sửaữa đến nơi, hai đầu gối của thây ma độngđậy, rồi bồng nhiên ngồi chồm hổm dậy. Tỳ-kheo ThiệnTú vẫn cứ đi đến trước thây ma, hỏi: Cứu-la-đế, ôngchết rồi phải không? Thây ma đáp: Ta chết rồi. Hỏi: Ôngđau gì mà chết? Đáp: Cù-đàm đã tiên đoán ta sau bảy ngàysình bụng mà chết. Quả như lời, qua bảy ngày, ta sình bụngmà chết. Thiện Tú lại hỏi: Ông sanh vào chỗ nào? Đáp:Như Cù-đàm tiên đoán, ta sẽ sanh vào loài quỷ đói thâyma biết đi. Nay ta sanh vào trong quỷ đói làm thây ma biếtđi. Thiện Tú hỏi: Khi ông chết, được chôn cất như thếnào? Thây ma đáp: Như Cù-đàm đã tiên đoán, ta sẽ đượcbuộc bằng dây lau rồi lôi vào bãi tha ma. Quả như lời, tađược buộc bằng dây lau rồi lôi vào bãi tha ma. Rồi thâyma nói với Thiện Tú: Ngươi tuy xuất gia mà không được điềuthiện lợi. Sa-môn Cù-đàm nói như vậy, mà ngươi thườngkhông tin. Nói xong, thây ma lại nằm xuống.

“Phạmchí, bấy giờ Tỳ-kheo Thiện Tú đi đến chỗ Ta, đảnh lễxong, ngồi xuống một bên, nhưng không kể lại chuyện ấyvới Ta. Ta liền nói: Như lời Ta tiên đoán, Cứu-la-đế cóthật như vậy không? Đáp: Thật vậy, đúng như Thế Tôn nói.Phạm chí, Ta nhiều lần như vậy thị hiện thần thông chứngcho Tỳ-kheo Thiện Tú, nhưng kia vẫn nói: Thế Tôn không hiệnthần thông cho con thấy”.”

Phậtlại nói với Phạm chí:

“Mộtthời, Ta ở tại Tập pháp đường, bên bờ hồ Di hầu. Khiấy có Phạm chí tên là Ba-lê Tử, đang ngụ tại chỗ kia,được mọi người sùng kính, có nhiều lợi dưỡng. Ngườiấy ở giữa quần chúng Tỳ-xá-ly nói như vậy: Sa-môn Cù-đàmtự nhận là có trí tuệ. Ta cũng có trí tuệ. Sa-môn Cù-đàmtự nhận có thần túc. Ta cũng có thần túc. Sa-môn Cù-đàmđã đạt được đạo siêu việt. Ta cũng đạt được đạosiêu việt. Ta sẽ cùng ông ấy hiện thần thông. Sa-môn hiệnmột, ta sẽ hiện hai. Sa-môn hiện hai, ta sẽ hiện bốn. Sa-mônhiện tám, ta sẽ hiện mườii sáu. Sa-môn hiện mười sáu,ta sẽ hiện ba mươi hai. Sa-moôn hiện ba mươi hai, ta hiệnsáu mươi tư. Tùy theo Sa-môn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽhiện gấp đôi.

“Phạmchí, khi ấy Tỳ-kheo Thiện Tú khoác y cầm bát vào thành khấtthực. Trông thấy Phạm chí Ba-lê Tử đang nói như vậy giữaquần chúng: Sa-môn Cù-đàm tự nhận là có trí tuệ. Ta cũngcó trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm tự nhận có thần túc. Ta cũngcó thần túc. Sa-môn Cù-đàm đã đạt được đạo siêu việt.Ta cũng đạt được đạo siêu việt. Ta sẽ cùng ông ấy hiệnthần thông. Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai. Sa-môn hiệnhai, ta sẽ hiện bốn. Sa-môn hiện tám, ta sẽ hiện mườisáu. Sa-môn hiện mười sáu, ta sẽ hiện ba mươi hai. Sa-moônhiện ba mươi hai, ta hiện sáu mươi tư. Tùy theo Sa-môn ấyhiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đôi. Tỳ-kheo Thiện Túsau khi khất thực xong, về đến chỗ Ta, đảnh lễ rồi ngồixuống một bên, nói với Ta rằng: Sáng nay, con khoác y cầmbát vào thành khất thực, nghe Ba-lê Tử ở Tỳ-xá-ly đangnói như vầy: Sa-môn Cù-đàm tự nhận là có trí tuệ. Ta cũngcó trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm tự nhận có thần túc. Ta cũngcó thần túc. Sa-môn Cù-đàm đã đạt được đạo siêu việt.Ta cũng đạt được đạo siêu việt. Ta sẽ cùng ông ấy hiệnthần thông. Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai; cho đến, tùytheo Sa-môn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đôi. Kểlại cho Ta đầy đủ sự việc ấy. Ta nói với Thiện Tú:Ba-lê Tử ở giữa quần chúng, nếu không từ bỏ lời ấymà đi đến Ta, sẽ không không có trường hợp ấy. Nếu ngườikia nghĩ rằng: Ta không từ bỏ lời ấy, không từ bỏ quanđiểm ấy, không xả bỏ kiêu mạn ấy, mà cứ đi đến Sa-mônCù-đàm, thì đầu ông ấy sẽ bị bể làm bảy mảnh. Khôngcó trường hợp người ấy không từ bỏ lời ấy, không từbỏ kiêu mạn ấy, mà vẫn đi đến Ta.

“ThiệnTú nói: Thế Tôn hãy giữ miệng. Như Lai hãy giữ miệng. Phậthỏi Thiện Tú: Vì sao ngươi nói: Thế Tôn hãy giữ miệng.Như Lai hãy giữ miệng? Thiện Tú nói: Ba-lê Tử kia có uythần lớn, có uy lực lớn. Giả sử ông ấy đến thật, hákhông phải Thế Tôn hư dối sao? Phật bảo Thiện Tú: NhưLai có bao giờ nói hai lời không? Đáp: Không. Phật lại bảoThiện Tú: Nếu không có hai lời, tại sao ngươi lại nói:Thế Tôn hãy giữ miệng. Như Lai hãy giữ miệng? Thiện Túbạch Phật: Thế Tôn do tự mình thấy biết Ba-lê Tử, haydo chư Thiên nói? Phật nói: Ta tự mình biết và cũng do chưThiên đến nói cho nên biết. Đại tướng A-do-đà ở Tỳ-xá-lynày sau khi thân hoại mạng chung sanh vào trời Đao-lợi. Ôngđến nói với Ta rằng: Phạm chí Ba-lê Tử kia không biếtxấu hổ, phạm giới, vọng ngữ, ở Tỳ-xá-ly, giữa quầnchúng, nói lời phỉ báng như vầy: Đại tướng A-do-đà sau khi thân hoại mạng chung sanh vào loài quỷ thây ma biếtđi. Nhưng thật sự con thân hoại mạng chung sanh vào trờiĐao-lợi. Ta đã tự mình biết trước viện Ba-lê Tử và cũngdo chư Thiên nói lại nên biết. Phật nói với Thiện Tú ngungốc: Ngươi không tin Ta, thì hãy vào thành Tỳ-xá-ly, tùyý mà rao lên. Ta sau bữa ăn sẽ đi đến chỗ Phạm chí Ba-lêTử.”

Phậtlại nói với Phạm chí:

“Bấygiờ, Thiện Tú kia sau khi qua đêm khoác y cầm bát vào thànhkhất thực. Khi ấy Thiện Tú kia hướng đến các Bà-la-môn,Sa-môn, Phạm chí trong thành Tỳ-xá-ly kể đủ câu chuyệnrằng: Phạm chí Ba-lê Tử ở giữa đại chúng đã tuyên bốlời này: Sa-môn Cù-đàm tự nhận là có trí tuệ. Ta cũngcó trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm có đại uy lựục; tTa cũng cóđại uy lực. Sa-môn Cù-đàm tự nhận có đại thần túc.Ta cũng có đại thần túc. Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai;cho đến, tùy theo Sa-môn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiệngấp đôi. Nhưng nay Sa-môn Cù-đàm sẽ đi đến chỗ Ba-lêTử kia. Các vị cũng đến đó hết.

“Khiấy Phạm chí Ba-lê đang đi trên đường; Thiện Tú trông thấy,vội vã đến gần, nói rằng: Ông ở giữa đám đông củaTỳ-xá-ly đã tuyên bố như vầy: Sa-môn Cù-đàm có đại trítuệ, ta cũng có đại trí tuệ, cho đến, tùy theo Sa-môn ấyhiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đôi. Sa-môn Cù-đàm nghelời tuyên bố ấy, nay muốn đến chỗ ông. Ông hãy về nhanhđi. Đáp rằng: Ta sẽ về ngay. Ta sẽ về ngay. Nói như thếrồi, giây lát cảm thấy hoảng sợ, lông tóc dựng đứng,không trở về chỗ cũ, mà đi đến khu rừng của Phạm chíĐạo-đầu-ba-lê, ngồi trên võng, rầu rĩ, mê loạn”.”

Phậtbảo Phạm chí:

“Ta,sau bữa ăn, cùng với nhiều người Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn,Phạm chí, Cư sĩ, đi đến trú xứ của Ba-lê-tử, ngồi lênchỗ ngồi. Trong đám đông ấy có một Phạm chí tên là Giá-la. Khi ấy, mọi người kêu Giá-la, bảo rằng: Ông hãy đi đếnrừng Đạo-đầu nói với Ba-lê Tử: Nay nhiều người Lệ-xa,Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí, Cư sĩ đều tụ tập hết nơirừng của ông. Mọi người cùng bàn luận rằng, Phạm chíBa-lê ở giữa đám đông tự mình xướng lên lời này: Sa-mônCù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ, cho đến,tùy theo Sa-môn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đôi.Sa-môn Cù-đàm vì vậy đã đến nơi rừng của ông. Ông hãyđến xem. Rồi thì, Già-la sau khi nghe mọi người nói, bènđi đến rừng bảo Đạo-đầu Ba-lê Tử rằng: Nay nhiều ngườiLệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí, Cư sĩ đều tụ tập hếtnơi rừng của ông. Mọi người cùng bàn luận rằng, Phạmchí Ba-lê ở giữa đám đông tự mình xướng lên lời này:Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ,cho đến, tùy theo Sa-môn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiệngấp đôi.Sa-môn Cù-đàm nay đang ở nơi rừng kia. Ba-lê, ôngcó về không? Khi ấy, Phạm chí Ba-lê liền đáp: Sẽ về.Sẽ về. Nói như vậy xong, ở trên võng mà day trở không yên.Bấy giờ, võng lại làm cho vướng chân, khiến ông không thểrời khỏi võng, huống hồ đi đến Thế Tôn.

“Thếrồi, Già-la nói với Phạm chí Ba-lê: Ngươi tự vô trí, chỉcó tiếng nói rỗng không: Sẽ về. Sẽ về. Nhưng cái võngấy còn không thể rời khỏi, sao có thể đi đến chỗ đạichúng? Trách mắng Ba-lê Tử xong, bèn trở về chỗ đại chúng,báo rằng: Ta nhân danh đại chúng, đi đến nói với Ba-lêTử. Y trả lời: Sẽ về. Sẽ về. Ngay lúc ấy, ở trên võng,chuyển động thân thể, nhưng võng dính vào chân không rờiđược. Y còn không thể rời khỏi cái võng, sao có thể đếnđại chúng này được?

“Bấygiờ, có một Lệ-xa Tử là Đầu-ma đang ngồi trong chúng,liền đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ dài, chắp tay,bạch đại chúng rằng: Đại chúng hãy đợi một lát. Tôisẽ tự mình đến dẫn người ấy lại đây.”

Phậtnói:

“Takhi ấy nói với Lệ-xa Tử Đầu-ma rằng: Người kia đã tuyênbố như vậy, ôm giữ kiến giải như vậy, khởi kiêu mạnnhư vậy; mà muốn khiến cho người ấy đi đến chỗ Phật,thì không thể được. Đầu-ma Tử, giả sử ông lấy dâyquấn nhiều lớp, rồi khiến bầy bò cùng kéo, cho đến thânthể người ấy bị rã rời, cuối cùng người ấy vẫn sẽkhông thể từ bỏ lời nói như vậy, kiến giải như vậy,kiêu mạn như vậy, để đến chỗ Ta. Nếu không tin lời Ta,ngươi hãy đến đó tự mình khắc biết.

“Bấygiờ, Lệ-xa Tử Đầu-ma vẫn cố đi đến chỗ Ba-lê Tử,nói với Ba-lê Tử rằng: Nhiều người Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn,Phạm chí, Cư sĩ đều tụ tập hết nơi rừng của ông. Mọingười cùng bàn luận rằng, Phạm chí Ba-lê ở giữa đámđông tự mình xướng lên lời này: Sa-môn Cù-đàm có đạitrí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ, cho đến, tùy theo Sa-mônấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đôi. Sa-môn Cù-đàmnay đang ở nơi rừng kia. Ông hãy về đi. Lúc ấy, Ba-lê Tửđáp: Sẽ về. Sẽ về. Nói như vậy rồi, ở trên võng màchuyển động thân mình, nhưng khi ấy võng lại vướng vàochân, khiến ông không thể rời khỏi võng, huống nữa làđi đến chỗ Thế Tôn.

“Thếrồi, Đầu-ma nói với Ba-lê Tử rằng: Ngươi tự vô trí,chỉ có tiếng nói rỗng không: Sẽ về, sẽ về. Nhưng tựmình còn không thể rờồii khỏi cái võng này, đâu có thểđi đến chỗ đại chúng!

“Đầu-malại nói với Ba-lê Tử: Những người có trí, do thí dụ màđược hiểu rõ. Thuở xưa lâu xa có một sư tử chúa tểloài thú sống trong rừng sâu. Vào buổi sáng sớm, sư tửra khỏi hang, nhìn ngắm bốn phía, vươn mình rống lên ba tiếng,sau đó rảo quanh kiếm thịt mà ăn. Này Ba-lê Tử, sư tửchúa tể loài thú kia ăn xong rồi trở về rừng, thường cómột con dã can đi theo sau ăn tàn, khí lực sung mãn, bèn tựbảo: Sư tử trong rừng kia cuối cùng là con thú gì? Hơn tađược chăng? Nay ta hãy độc chiếm một khu rừng, sáng sớmra khỏi hang, nhìn quanh bốn phía, vươn mình rống lên ba tiếng,sau đó rảo quanh. Nó muốn học tiếng rống sư tử, nhưnglại ré lên tiếng dã can. Này Ba-lê Tử, ngươi nay cũng vậy.Nhờ uy đức của Phật mà sống còn ở đời, được ngườicúng dường; nhưng nay lại tranh đua với Như Lai. Rồi Đầu-manói bài kệ chỉ trích:

Dãcan xưng sư tử

Tựcho mình vua thú

Muốnrống tiếng sư tử

Lạiré tiếng dã can.

Mộtmình trong rừng vắng

Tựcho mình vua thú

Muốnrống tiếng sư tử

Lạiré tiếng dã can.

Quỳxuống kiếm chuột hang,

Thama tìm xác chết;

Muốnrống tiếng sư tử,

Lạiré tiếng dã can.

“Đầu-manói rằng: Ngươi cũng vậy. Nhờ ơn Phật mà sống còn ởđời, được người cúng dường; nhưng nay lại tranh đua vớiNhư Lai. Khi ấy Đầu-ma lấy bốn thí dụ, trách mắng thẳngmặt, sau đó, trở về chỗ đại chúng, báo rằng: Tôi đãnhân danh đại chúng đi gọi Ba-lê Tử. Kia trả lời tôi: Sẽvề. Sẽ về. Rồi ở trên võng chuyển động thân, nhưng võngliền vướng chân không thể rời ra được. Kia còn không thểrời khỏi võng, nói gì chuyện đi đến đại chúng này.

“Bấygiờ Thế Tôn nói với Đầu-ma: Ta đã nói trước với ngươi,muốn cho người ấy đi đến chỗ Phật, không thể được.Giả sử người lấy sợi dây da bó nhiều lớp rồi cho bầybò kéo, cho đến thân thể rã rời, cuối cùng kia vẫn khôngxả bỏ lời ấy, kiến giải ấy, kiêu mạn ấy, để đi đếnTa.

“NàyPhạm chí, bấy giờ, Ta liền thuyết nhiều pháp khác nhau chođại chúng, chỉ bày, khuyến khích, làm cho ích lợi, hoan hỷ.Ở trong chúng, ba lần cất tiếng rống sư tử, rồi cất mìnhbay lên hư không, Ta trở về chỗ cũ”.”

Phậtnói với Phạm chí:

“Hoặccó Sa-môn, Bà-la-môn nói rằng: Tất cả thế gian đều do Phạmtự tại thiên sáng tạo. Ta hỏi họ: Hết thảy thế gian cóthật do Phạm tự tại thiên sáng tạo chăng? Họ không thểđáp, mà lại hỏi Ta rằng: Cù-đàm, sự ấy là thế nào?Ta trả lời họ: Có một thời gian, khi thế giới này bắtđầu hủy diệt, có những chúng sanh khác mà mạng hết, hànhhết, từ trời Quang âm mạng chung, sanh vào chốn Phạm thiêntrống không khác; rồi khởi tham ái đối với chỗ ấy, sanhtâm đắm trước, lại mong muốn có chúng sanh khác cũng sanhđến chỗ này. Những chúng sanh khác khi mạng hết, hành hết,lại sanh vào chỗ này. Bấy giờ, chúng sanh kia tự nghĩ nhưvầy: Ta nay là Đại phạm vương, ngẫu nhiên mà hiện hữu,không do ai sáng tạo. Ta có thể thấu suốt mục đích củacác ý nghĩa, tuyệt đối tự do trong một ngàn thế giới,có thể sáng tác, có thể biến hóa, vi diệu bậc nhất, làcha mẹ của loài người. Ta đến đây trước nhất, một mìnhkhông bầu bạn; do năng lực của ta mà có chúng sanh này; tasáng tạo ra chúng sanh này. Các chúng sanh khác cũng thuận theo,gọi đó là Phạm vương, ngẫu nhiên hiện hữu, có thể thấusuốt mục đích của các ý nghĩa, tuyệt đối tự do trongmột ngàn thế giới, có thể sáng tác, có thể biến hóa,vi diệu bậc nhất, là cha mẹ của người, là vị duy nhấthiện hữu trước, còn chúng ta hiện hữu sau; chúng ta do vịĐại phạm vương ấy sáng tạo. Các chúng sanh này tùy theokhi tuổi thọ của chúng hết, tái sanh vào đời này; rồidần dần trưởng thành, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuấtgia tu đạo. Vị ấy nhập định ý tam-muội, tùy tam-muộitâm mà nhớ đời sống trước của mình. Vị ấy nói nhưvậy: Vị Đại phạm vương này ngẫu nhiên mà hiện hữu,không do ai sáng tạo; có thể thấu suốt mục đích của cácý nghĩa; tuyệt đối tự do trong một ngàn thế giới; có thểsáng tác, có thể biến hóa, vi diệu bậc nhất, là cha mẹcủa người. Đại Phạm thiên kia thường trụ, không biếnchuyển, không phải là pháp biến dịch. Chúng ta đều do Phạmthiên sáng tạo, cho nên không thường hằng, không tồn tạilâu dài, là pháp biến dịch. Như vậy, Phạm chí, các Sa-môn,Bà-la-môn kia do duyên này, thảy đều nói Phạm tự tại thiênsáng tạo thế giới này. Này Phạm chí, sự sáng tạo củathế giới không phải là điều mà những vị ấy có thểvươn tới; duy chỉ Phật mới có thể biết. Lại còn vượtqua sự ấy, Phật cũng đều biết cả. Tuy biết nhưng khôngtham trước, mà biết một cách như thật về khổ, sự tậpkhởi, sự diệt khổ, vị ngọt, tai hoạn và sự xuất yếu;với bình đẳng quán mà giải thoát vô dư. Ầy gọi là NhưLai.”.”

Phậtbảo Phạm chí:

“Hoặccó Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Chơi bời và biếng nháclà khởi thủy của chúng sanh. Ta nói với họ: Có thật cácNgươi nói rằng: Chơi bời và biếng nhác là khởi thủy củachúng sanh? Họ không thể trả lời mà hỏi ngược lại rằng:Cù-đàm, sự ấy là thế nào? Ta đáp: Một số chúng sanh ởtrời Quang âm do chơi bời và biếng nhác, khi thân hoại mạngchung, tái sanh vào thế gian này; rồi dần trưởng thành, cạobỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, cho đến khinhập tâm định tam-muội; do năng lực tam-muội,nhận thức được đời sống trước, bèn nói như vầy: Cácchúng sanh kia do không chơi bời biếng nhác nên thường hằngở chỗ ấy, tồn tại lâu dài, không biến chuyển. Chúng tado thường xuyên chơi bời dẫn đến pháp vô thường, biếndịch này. Như vậy, Phạm chí, Sa-môn, Bà-la-môn kia do duyênấy nói rằng tiêu khiển là khởi thủy của chúng sanh. Nhữngđiều ấy Phật biết tất cả, lại còn biết hơn thế nữa.Biết nhưng không đắm trước, do không đắm trước mà nhưthật biết khổ, sự tập khởi, sự diệt trừ, vị ngọt,tai hoạn, sự xuất yếu; bằng bình đẳng quán mà giải thoátvô dư. Ầy gọi là Như Lai”.”

Phậtnói với Phạm chí:

“Hoặccó Sa-môn, Bà-la-môn nói rằng: Thất ý là khởi thủy củachúng sanh. Ta nói với họ: Có thật các ngươi nói rằng sựthất ý là khởi thủy của chúng sanh chăng? Họ không biếttrả lời, bèn hỏi lại Ta rằng: Cù-đàm, sự ấy thế nào?Ta nói với họ: Một số chúng sanh do nhìn ngắm nhau một thờigian sau bèn thất ý; do thế, mạng chung tái sanh vào thế giannày; rồi lớn dần, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuấtgia tu đạo, bèn nhập tâm định tam-muội; do nănglực tam-muội vị ấy nhận thức được đời sốngtrước, bèn nói như vầy: Như chúng sanh kia do không nhìn ngắmnhau nên không thất ý, do vậy mà mà thường hằng bất biến.Chúng ta do nhiều lần nhìn ngắm nhau bèn thất ý; do thế dẫnđến pháp vô thường, biến dịch. Như vậy, Phạm chí, Sa-môn,Bà-la-môn kia do duyên ấy nói rằng sự thất ý là khởi thủycủa chúng sanh. Điều như vậy, duy Phật mới biết; lại cònbiết hơn thế nữa. Biết nhưng không đắm trước; do khôngđắm trước mà như thật biết khổ, sự tập khởi, sự diệttận, vị ngọt, tai hoạn, sự xuất yếu; do bình đẳng quánmà giải thoát vô dư”.”

Phậtnói với Phạm chí:

“Nhữngđiều Ta nói là như vậy. Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn ở chỗkín chê bai Ta rằng: Sa-môn Cù-đàm tự cho rằng đệ tử mìnhchứng nhập tịnh giải thoát, thành tựu tịnh hạnh. Kia biếtthanh tịnh, nhưng không biết tịnh một cách toàn diện. NhưngTa không nói như vậy: Đệ tử của Ta khi nhập tịnh giảithoát, thành tựu tịnh hạnh, vị ấy biết thanh tịnh, nhưngkhông biết tịnh một cách toàn diện. Này Phạm chí, chínhTa nói rằng: Đệ tử Ta nhập tịnh giải thoát, thành tựutịnh hạnh; vị ấy biết thanh tịnh, tất cả đều thanh tịnh.”

Lúcbấy giờ, Phạm chí bạch Phật:

“Kiakhông được thiện lợi khi phỉ báng Sa-môn Cù-đàm rằng:Sa-môn Cù-đàm tự cho đệ tử của mình nhập tịnh giảithoát, thành tựu tịnh hạnh; kia biết thanh tịnh, nhưng khôngbiết tịnh một cách toàn diện. Nhưng Thế Tôn không nói nhưvậy. Chính Thế Tôn nói: Đệ tử ta nhập tịnh giải thoát,thành tựu tịnh hạnh; vị ấy biết thanh tịnh, tất cả đềutịnh.”

Rồilại bạch Phật:

“Tôicũng sẽ nhập tịnh giải thoát này, thành tựu tịnh hạnh,tất cả đều biết một cách toàn diện ..”

Phậtbảo Phạm chí:

“Ngươimuốn nhập, quả thật rất khó. Ngươi do kiến giải dị biệt,kham nhẫn dị biệt, sở hành dị biệt, mà muốn y trên kiếngiải khác để nhập tịnh giải thoát, thì thật là quá khó.Nhưng nếu ngươi tin vui nơi Phật, tâm không đoạn tuyệt,thì trong lâu dài sẽ luôn luôn được an lạc”.”

Bấygiờ, Phạm chí Phòng-già-bà, sau khi nghe những điều Phậtnói, hoan hỷ phụng hành
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567