Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

C. Lưu thông phần

17/11/201115:54(Xem: 12040)
C. Lưu thông phần

 

A DI ĐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

X. CHÁNH THÍCH KINH VĂN(phần giải thích kinh văn)

C. LƯU THÔNG PHẦN

1. KHUYẾN TÍN(khuyên nên tin nhận)

1.1. Bổn Sư xưng tán công đức(đức Bổn Sư khen ngợi công đức)

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả, tán thán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức chi lợi.

(Xá Lợi Phất! Như ta nay khen ngợi A Di Đà Phật công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn).

Giải:

Tán là xưng tán, Thán là cảm thán. “Bất khả tư nghị” nghĩa là chẳng tầm thường, chẳng thể dùng những lời bàn luận thông thường để diễn tả, lý luận được.

Đoạn trên Phật bảo “ngã kiến thị lợi” (ta thấy điều lợi ấy), ở đây Phật lại bảo: Công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn; hàm ý: lợi ích do công đức của Phật A Di Đà đem lại cho chúng sanh thật chẳng thể suy luận, hình dung được nổi.

Đại lược, công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà gồm những điều sau:

- Y báo trang nghiêm (ao báu, cây báu, lầu gác báu v.v...).

- Chánh báo trang nghiêm (quang, thọ vô lượng).

- Khiến cho quyến thuộc (những người sanh trong cõi Cực Lạc) đều chứng ba thứ Bất Thoái.

- Khiến cho những ai được vãng sanh đều được nhập Như Lai địa.

- Phương tiện nhiếp thọ: dùng bốn mươi tám nguyện độ khắp ba căn.

Nếu đứng trên phương diện những chúng sanh được Phật hóa độ để luận thì:

1) Niệm Phật thành công liền được vượt ngang ra khỏi tam giới, đới nghiệp vãng sanh, chẳng cần phải đoạn hoặc chướng.

2) Vãng sanh Cực Lạc rồi, chẳng cần phải đợi đến khi chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái, cứ sanh trong cõi Đồng Cư thì sẽ chứng được cả ba cõi Tịnh Độ khác.

3) Luôn trì một câu thánh hiệu, chẳng cần phải nhọc công tu phương tiện Thiền, Quán nào khác mà tự được tâm khai.

4) Lấy bảy ngày làm hạn, liền được nhất tâm bất loạn, chẳng cần phải nhọc nhằn tu hành nhiều kiếp.

5) Chỉ cần trì một câu thánh hiệu A Di Đà, liền được sáu phương chư Phật hộ niệm khiến cho người ấy được an ổn, không gặp phải các chướng nạn.

6) Công đức bố thí pháp một cách rộng lớn: dùng vô lượng quang thọ hằng diễn Phật pháp.

Đấy thật là những điều chẳng thể nghĩ bàn được nổi, toàn là do công đức, hạnh nguyện vô biên của Phật A Di Đà tạo thành. Như vậy, chữ Lợi ở đây là nói về đại lợi ích vô lậu thù thắng xuất thế. Cho nên bảo là “chẳng thể nghĩ bàn”.

Đoạn kinh văn này tổng kết những công đức trang nghiêm của y báo và chánh báo, phô diễn lợi ích thù thắng chẳng thể nghĩ bàn mà chúng sanh sẽ đạt được, trước khi nêu danh hiệu chư Phật sáu phương cùng khen ngợi, chứng tín pháp môn này.

1.2. Chư Phật tán thán, tiêu đề(chư Phật khen ngợi, nêu tên kinh)

1.2.1. Đông phương Phật:

Chánh kinh:

Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.

(Phương Đông cũng có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)

Giải:

Pháp môn Tịnh Độ đây thật là pháp hết sức khó tin. Bởi thế, đức Thế Tôn không ai hỏi bèn tự giảng. Phật đã tự phát khởi, thì đương nhiên cũng phải do chính Ngài tự khuyến hóa, lưu thông. Vì thế, tiếp đó, Ngài dẫn vô lượng danh hiệu chư Phật trong các phương, dị khẩu đồng âm, tán thán, xưng dương kinh này để chứng minh, ngõ hầu hết thảy chúng sanh tin tưởng xác thật, đoạn sạch nghi tình.

Bản dịch của Ngài Huyền Trang kể đủ mười phương Phật. Trong bản này, Ngài La Thập tỉnh lược bớt. Đó là vì người Đông Độ thời ấy thích nói ngắn gọn, nên Ngài cũng thuận cơ nghi rút gọn, nhưng ý nghĩa kinh không hề bị giảm mất.

Phương Đông là phương mặt trời mọc, theo Bát Quái, thuộc về quẻ Chấn, chủ về Động. Trong tứ thời, phương Đông tương ứng với mùa Xuân. Khí Xuân khiến muôn vật sanh trưởng, biểu thị ý nghĩa trí huệ có công năng xuất sanh. Do trí huệ thường được dùng để hướng dẫn sự nghiệp học Phật, nên kinh lấy Đông phương làm chủ.

Danh hiệu của hết thảy chư Phật thường dựa trên các yếu tố “bi trí, đoạn chứng, nhân quả, hạnh lý” để xác lập. Mỗi danh hiệu Phật bao gồm muôn vạn nghĩa lý sai biệt, đầy đủ vạn đức; những lời giải thích dưới đây chỉ là căn cứ trên văn tự mà tạm giải thích để học nhân nương ý tự quán chiếu, viên ngộ vô lượng ý nghĩa của mỗi đức hiệu, khác nào toan dùng một giọt nước biển để diễn tả cả đại hải vậy.

1) A Súc Bệ Phật:còn phiên là A Sơ Bệ Phật, A Sô Bệ Phật, Hán dịch là Bất Động hoặc Vô Động; hàm nghĩa: hạnh chứng Phật trí, chẳng bị hết thảy cảnh giới (chẳng hạn như lợi, suy, chê bai, ca tụng, khen ngợi, gièm báng, khổ, vui...) nhiễu động. Chúng sanh trôi lăn trong sanh tử thường bị động, đức Phật đã chứng vô lậu thánh quả, pháp thân thường trụ bất biến, chẳng bị nhị biên (có - không, chân - tục, đến - đi) làm lay động, nên có tên như thế.

2) Tu Di Tướng Phật:Tu Di (Sumeru) là tên núi, còn phiên là Tu Di Lâu, hoặc Mê Lô sơn, tức là núi Diệu Cao. Núi Diệu Cao ở giữa đại hải, bốn đại châu bao quanh. Núi này do các báu tạo thành nên gọi là Diệu. Núi cao vượt khỏi mặt nước tám vạn bốn ngàn do tuần (đây là con số ước lệ, hàm ý núi rất cao) nên gọi là Cao. Ba đức Phật tiếp theo đây đều dùng Tu Di làm hiệu, hàm ý: đức trí siêu việt, cao siêu, mầu nhiệm như núi Tu Di.

Tu Di Tướng nghĩa là tướng hảo, quang minh do trăm phước cảm thành, giống như núi Tu Di do các báu hợp thành mầu nhiệm khôn sánh. Trời, người, Nhị Thừa, Bồ Tát chẳng sánh nổi đức trí của Phật, khác nào núi Tu Di cao trỗi hơn tất cả. Vì thế Phật hiệu là Tu Di Tướng.

3) Đại Tu Di Phật: đức hạnh của vị Phật này còn cao siêu, sâu rộng vòi vọi, vượt xa núi Tu Di, như kinh Duy Ma nói: “Tiếng tăm cao xa, vượt hơn núi Tu Di”.

4) Tu Di Quang Phật: Tu Di do các báu hợp thành, đương nhiên quang minh chói lòa. Đức Phật này quang minh chiếu xa chói lọi, khác nào núi Tu Di tỏa quang minh phủ lấp các ngọn núi khác lẫn ánh sáng mặt trời, mặt trăng.

5) Diệu Âm Phật: Âm thanh của Phật vi diệu, thuyết pháp thích ứng căn cơ khiến chúng sanh luôn hoan hỷ, nên lập danh như thế. Thêm nữa, âm thanh của Phật chẳng thể nghĩ bàn, cùng trong một âm thanh thuyết pháp, mà tùy theo căn khí, mỗi người nghe sẽ lãnh hội pháp ích khác nhau, tăng trưởng đạo nghiệp. Kinh Duy Ma nói: “Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy loại ai nấy đều nhận, hiểu”.

“Như thị đẳng”:Đông phương vô biên, đương nhiên có vô lượng thế giới. Trong vô lượng thế giới, đương nhiên có vô lượng chư Phật. Chữ “như thị” chỉ năm Đức Phật vừa được nêu tên, chữ Đẳng chỉ chung hết thảy chư Phật còn lại.

Từ ngữ “Hằng hà sa số” (số cát trong sông Hằng) biểu thị con số cực nhiều. Mỗi khi muốn nói đến con số rất nhiều, không cách nào hình dung nổi, Phật thường dùng lượng cát trong sông Hằng để làm tỷ dụ.

Hằng Hà (Gange, còn phiên là Căng Già, dịch nghĩa là Thiên Đường Lai: từ cõi trời chảy xuống) là một trong bốn con sông lớn nhất toàn xứ Ấn. Phát nguyên từ ao A Nậu Đạt (Vô Nhiệt Não) trong rặng Tuyết Sơn (Hymalaya), bề ngang rộng đến bốn mươi dặm, cát nhỏ mịn như bột, từng hạt phân minh. Những địa điểm Đức Phật thuyết pháp thường gần bên sông Hằng nên Phật hay dùng hình ảnh này để đại chúng dễ lãnh hội.

“Chư Phật”tức là chư Phật ở phương Đông. Do phương Đông có hằng hà sa số Đức Phật nên bảo là “chư Phật”.

“Quảng trường thiệt tướng”(tướng lưỡi rộng dài) là một trong ba mươi hai hảo tướng của Phật. Từ bao nhiêu kiếp đến nay, chư Phật đã xa lìa bốn lỗi nơi khẩu nghiệp (nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, ác khẩu), khẩu nghiệp hằng thanh tịnh, nên khi thành Phật, đạt được tướng này. Tả hữu là Quảng, trước sau là Trường. Tướng lưỡi Phật rộng lớn, mềm mại, đỏ hồng, nên bảo là “quảng trường thiệt tướng”.

Người thường nếu suốt ba đời chưa hề nói dối thì lưỡi dài có thể liếm đến chót mũi. Nếu lưỡi rộng không dài, hoặc dài nhưng hẹp, hoặc nhỏ ngắn, co rụt, cứng khó xoay chuyển, đều là do đời trước ưa bàn chuyện thị phi, nên cảm phải báo ấy.

Riêng mình Đức Phật trong vô lượng kiếp, tích tập công đức đã lâu, trọn không vọng ngữ, nên cảm được quý tướng ấy. Phẩm Ly Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm chép:

“Bồ Tát có mười loại lưỡi:

1) Lưỡi phân biệt giải nói vô tận hạnh của hết thảy chúng sanh.

2) Lưỡi khai thị, diễn nói vô tận pháp môn.

3) Lưỡi tán thán công đức vô tận của chư Phật.

4) Lưỡi thuyết pháp vô tận biện tài.

5) Lưỡi diễn nói vô tận pháp môn Đại Thừa.

6) Lưỡi trùm khắp mười phương hư không giới.

7) Lưỡi phổ chiếu hết thảy cảnh giới Phật.

8) Lưỡi bình đẳng tán thán hết thảy chúng sanh.

9) Lưỡi tùy thuận chư Phật khiến hoan hỷ.

10) Lưỡi hàng phục hết thảy ma và ngoại đạo, trừ diệt sanh tử, đạt đến Niết Bàn”.

Bồ Tát thành tựu mười pháp này nên thành tựu tướng lưỡi vô thượng, che khắp cõi nước (quảng trường thiệt tướng). Tướng lưỡi rộng dài, ai ai cũng sẵn có, nhưng do tu trì chẳng đủ, khẩu nghiệp chẳng thanh tịnh, nên chẳng thể chứng đắc, thọ dụng nổi!

“Biến phú tam thiên đại thiên thế giới”:Biến là khắp cả, Phú là che phủ. Tam thiên đại thiên đã giảng ở phần trước. Khu vực hóa độ của một Đức Phật tối thiểu bao gồm một tam thiên đại thiên thế giới, mà kinh hay gọi là “quốc độ” hoặc Phật Sát.

Ở đây, vì pháp môn được giảng rất thù thắng, đặc diệu “nhân bé, quả to”, chỉ sợ chúng sanh sanh lòng nghi, không chịu tu tập, còn trở lại gièm báng, nên chư Phật phải hiện tướng thần biến kỳ đặc “tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới” để chứng tín.

“Thành thực ngôn” là lời quyết định chẳng hư vọng, là lời khẩn thiết, chân thực.

Trong từ ngữ “đương tín thị”, chữ Thị chỉ bản kinh này.

“Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”:Mười sáu chữ này là tên của bản kinh này. Tám chữ đầu ước về Phật đức (khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn), tám chữ sau là ước về pháp (Nhất thiết chư Phật sở hộ niệm: được hết thảy chư Phật hộ niệm). Ngài Huyền Trang dịch là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, nghĩa lý tương đồng với nguyên danh; nhưng vẫn có phần rút gọn, vì đã đem nghĩa “bất khả tư nghị” gộp vào trong hai chữ Tịnh Độ. Ngài La Thập dịch là Phật thuyết A Di Đà kinh, ý vẫn chẳng khác, vì mười sáu chữ tên gốc của kinh đều nằm trọn trong thánh hiệu A Di Đà. Dịch như vậy rất phù hợp với diệu chỉ Trì Danh được phô diễn trong kinh này, rất phù hợp với bổn ý của Đức Phật. Bởi thế, hậu thế đa phần lưu thông bản dịch của Ngài La Thập.

“Chư Phật Sở Hộ Niệm”hàm ý: tông chỉ của bản kinh này là chuyên trì hồng danh chẳng lui sụt mới được vãng sanh, cắt ngang sanh tử. Đây thật đúng là chiếc bè báu để vượt bến mê, là thuyền từ qua bể khổ, vì thế chư Phật đều cùng hộ niệm. Hộ là bảo hộ (gìn giữ, bảo vệ), Niệm là ức niệm (nghĩ nhớ). Ý nói: Chúng sanh niệm Phật, được chư Phật nghĩ nhớ đến, cảm Phật lực hộ trì nên được an ổn, chẳng bị thoái đọa. Đấy chẳng những là do sức hộ trì của riêng Phật A Di Đà, mà còn là sức hộ trì của mười phương chư Phật nữa. Pháp môn mầu nhiệm thế ấy, chẳng những mình Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi, tán dương, mà mỗi mỗi vị Phật trong mười phương thế giới cũng đều dị khẩu đồng âm khen ngợi, tán dương.

Ngài Đạo Nguyên lại hiểu “hộ niệm” nghĩa là chư Phật trong mười phương đều gìn giữ, yêu mến, luôn nghĩ đến pháp môn thù thắng, đặc diệu này. Do được chư Phật gia hộ nên chẳng bị đọa lạc. Do được chư Phật ái niệm nên đạo nghiệp, phước huệ được tăng tấn.

Đối với đoạn kinh này, chư cổ đức có nhiều cách hiểu khác nhau:

Ngài Từ Ân (Khuy Cơ) bảo: “Các vị giáo chủ trong những thế giới, vốn đã tự tuyên dương pháp môn Niệm Phật khiến cho những chúng sanh trong cõi mình đều tu trì, phụng hành. Đức Thích Ca Thế Tôn lại còn lần lượt diễn nói, dẫn lời xưng tán cõi Tây Phương, khuyên trì pháp môn Niệm Phật của mười phương chư Phật để đại chúng trong hội kính tín, ngưỡng mộ, cầu sanh”.

Ngài Linh Chi Nguyên Chiếu lại cho rằng: “Ngay trong lúc đức Thích Ca Thế Tôn giảng dạy, khen ngợi cõi Tây Phương trong vườn Cấp Cô Độc và khuyên tu trì pháp môn Niệm Phật, thì mười phương chư Phật cũng đồng thời xưng tán”.

Cả hai cách giải thích này đều đáng để chúng ta suy gẫm, nhận lấy nghĩa lý.

Xét về Lý:

- A Súc Bệ biểu thị trí tánh sẵn có bất động, tự nhiên.

- Tu Di Tướng biểu thị Phật tướng vi diệu.

- Đại Tu Di biểu thị Phật đức đệ nhất.

- Tu Di Quang biểu thị Phật trí phổ biến.

- Diệu Âm biểu thị tứ biện tài, bát âm đầy đủ.

- “Tướng lưỡi rộng dài” biểu thị pháp âm viên mãn, trọn khắp.

1.2.2. Nam phương Phật

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Nam phương thế giới hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.

(Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam có Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)

Giải:

“Nhật Nguyệt Đăng Phật”: Nhật là mặt trời, ánh trăng soi sáng đêm trường. Ánh đèn (đăng quang) hỗ trợ ánh sáng mặt trời, mặt trăng trừ tối. Như vậy, Nhật Nguyệt Đăng hàm nghĩa quang minh khắp trọn, trừ sạch si ám. Nghĩa là đại trí quang minh của Đức Phật chiếu suốt mười phương, ba đời, chiếu tan hết thảy những điều phiền hoặc tối tăm: tham, sân, si... của chúng sanh. Vì thế, dùng Nhật Nguyệt Đăng để lập danh. Hoặc có thể hiểu là Nhật Nguyệt Đăng chính là thân quang lẫn trí quang cùng chiếu.

Hiểu sâu hơn, Nhật Nguyệt Đăng chính là dùng ba trí của Phật để lập danh. Nhật chiếu soi ban ngày, sanh trưởng vạn vật. Dùng Nhật để ví với Đạo Chủng Trí, chiếu rõ Tục Đế lý, thành tựu chúng sanh. Nguyệt chiếu soi ban đêm, xua tan hắc ám, ví như Nhất Thiết Trí, chiếu tỏ Chân Đế lý, phá trừ phiền ám. Đăng (đèn) chiếu soi cả ngày lẫn đêm, lại hỗ trợ công năng của Nhật lẫn Nguyệt. Như vậy, Đăng tương ứng với Nhất Thiết Chủng Trí, chứng Trung Đạo lý, cùng chiếu cả Chân lẫn Tục, viên dung vô ngại.

“Danh Văn Quang Phật”: Chữ Văn hàm nghĩa tiếng tăm vang dội, ai nấy đều hay biết. Vạn đức hồng danh của Đức Phật này vang dội khắp pháp giới, từ quang chiếu khắp nơi, gia bị hết thảy chúng sanh, khiến cho những ai nghe danh hiệu Ngài hay được quang minh của Ngài chiếu thấu đều đạt đại lợi ích.

“Đại Diệm Kiên Phật”:Diệm có nghĩa là quang minh chói rực, chiếu tan hết thảy hắc ám. Kiên là đôi vai, có tác dụng gánh vác. Đức Phật này quang minh chiếu suốt tột cùng hết thảy chúng sanh, vận dụng Quyền Trí lẫn Thật Trí để đảm đương sự nghiệp cứu độ chúng sanh.

“Tu Di Đăng Phật”:Núi Tu Di tối cao, Đăng (đèn) có tác dụng soi đường, chỉ lối. Đức Phật này dùng trí huệ tối cao dẫn dắt, chỉ dạy chúng sanh, khiến họ bỏ chỗ tối tìm về chỗ sáng.

“Vô Lượng Tinh Tấn Phật”: Vô lượng là con số rất lớn, Tinh là chẳng tạp, Tấn là chẳng lui sụt. Trong vô lượng thời gian, Đức Phật này tuyên thuyết đạo lý thuần chánh, chưa từng ngưng nghỉ nhằm làm lợi lạc chúng sanh. Nếu luận về tu nhân thì Đức Phật này trong vô lượng kiếp đã rộng tu vô lượng pháp môn, đối với pháp môn nào cũng đều tinh tấn chẳng lười, nên mau được thành Phật.

Xét về Lý:

- Nhật Nguyệt Đăng biểu thị ba trí của Phật có công năng phá được ba thứ hoặc chướng.

- Danh Văn Quang biểu thị ba đức trí chiếu khắp mười phương.

- Đại Diệm Kiên biểu thị Quyền Trí và Thật Trí có công năng chiếu tỏ Chân Đế và Tục Đế.

- Tu Di Đăng biểu thị chứng tứ đức rồi khởi dụng.

- Vô Lượng Tinh Tấn biểu thị từ Phật trí lưu xuất phương tiện bất tận.

1.2.3. Tây phương Phật

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Tây phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.

(Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)

Giải:

“Vô Lượng Thọ Phật”:Vị Phật này mang cùng tên với đấng Đạo Sư cõi Cực Lạc. Ngài Linh Chi Nguyên Chiếu bảo: “Phật Phật đạo đồng nên chư Phật đồng danh rất nhiều”.Pháp sư Bân Tông cho rằng: Vị Phật này chẳng phải là vị Phật do tỳ kheo Pháp Tạng tu thành, vì chẳng lẽ Phật A Di Đà lại tự đứng ra khen ngợi mình. Nếu tự khen ngợi như thế, há chẳng phải sẽ khiến cho chúng sanh cõi Cực Lạc lại mong cầu một cõi Cực Lạc nào khác nữa ư?

“Vô Lượng Tướng Phật”:chữ Tướng chỉ tướng hảo trang nghiêm của Phật. Tướng hảo trang nghiêm của đức Thế Tôn nhiều đến vô lượng, vô tận, như đức Lô Xá Na có đến Hoa Tạng hải vi trần tướng hảo. Nếu chỉ luận về Ứng Thân thì có ba mươi hai tướng hảo, hoặc chín mươi bảy tướng đại nhân v.v... Báo Thân có sát trần vô lượng tướng. Pháp Thân có vô lượng chẳng thể nghĩ bàn tướng. Đức Phật Vô Lượng Tướng tu thành Phật Quả, chứng vô lượng tướng, lại dùng tướng hảo dẫn dụ chúng sanh nhập đạo.

“Vô Lượng Tràng Phật”: Tràng là cái sào hoặc trụ rất cao (hình tròn hoặc hình lục giác, bát giác) để treo phan hoặc cờ, hay là khắc kinh chung quanh. Như vậy, chữ Tràng biểu thị hai ý nghĩa cao tột và thấy rõ. Tràng gồm ba nghĩa: siêu thắng (cao trỗi hơn mọi vật), tồi tà (dẹp tan tà vạy) và hiển chánh. Đức Phật này vận dụng Phật trí, kiến lập vô lượng pháp tràng, dẫn đạo vô lượng chúng sanh, dẹp tan vô lượng tà ma.

“Đại Quang Phật”: Đại Quang là quang minh vĩ đại, không đâu chẳng chiếu thấu. Danh hiệu Phật này ước theo Trí mà lập. Đức Phật này quang minh trí huệ cực đại, chiếu khắp hết thảy chúng sanh.

“Đại Minh Phật”: Đại Minh có nghĩa là trọn chẳng có hắc ám gì. Đức Phật này phá trừ hắc ám tam hoặc, đã chứng trọn ba trí, quang minh chiếu khắp mười phương thế giới, không bị chướng ngại, phá tan hoặc chướng của chúng sanh, nên hiệu là Đại Minh.

“Bảo Tướng Phật”: Chữ Bảo hàm nghĩa tôn quý, hy hữu, lợi ích. Tướng hảo thù thắng đặc biệt, đều như trân bảo, thật đáng tôn quý. Vì thế gọi là Bảo Tướng. Đức Phật này hiển thị tướng hảo siêu tuyệt cho hết thảy chúng sanh được trông thấy, khiến họ ngưỡng mộ Phật tướng quý báu mà phát tâm Bồ Đề, tu đạo chứng quả, đoạn sanh tử.

“Tịnh Quang Phật”: lìa các cấu nhiễm là Tịnh, hoặc chướng trừ sạch thì trí huệ quang minh tự nhiên phát sanh. Đức Phật này chứng ngộ cực quả một cách sâu xa, viên mãn; lại dùng trí quang vô lậu chiếu hết thảy chúng sanh, khiến hết thảy chúng sanh đều được lợi ích, tâm địa đều quang minh.

Xét về Lý:

- Vô Lượng Thọ biểu thị quả báo thù thắng trọn khắp ba đời.

- Vô Lượng Tướng biểu thị Phật tánh tùy cơ thị hiện vô tận.

- Vô Lượng Tràng biểu thị Phật tánh siêu thắng viên mãn.

- Đại Quang, Đại Minh biểu thị Thể lẫn Dụng của Phật tánh đều vô tận. Bảo Tướng biểu thị công đức trí viên mãn.

- Tịnh Quang biểu thị nơi Phật tánh, trí lẫn quang cùng thể hiện rạng ngời.

1.2.4. Bắc phương Phật

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Bắc phương thế giới hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.

(Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)

Giải:

“Diệm Kiên Phật”:xem chú giải ở phần trên.

“Tối Thắng Âm Phật”:Âm thanh của Phật cực kỳ viên mãn. Không một âm thanh nào khác có thể chướng ngại được Phật âm. Phật có tám thứ âm thanh: cực hảo âm, nhu nhuyễn âm, hòa thích âm (âm thanh điều hòa, vừa phải, thích ứng), tôn huệ âm (âm thanh tôn quý, trí huệ), bất nữ âm (không có giọng nữ, không yếu đuối), bất ngộ âm (chẳng lầm lạc), thâm viễn âm (âm thanh sâu xa), bất kiệt âm (chẳng cùng kiệt). Đấy chính là do khẩu nghiệp thanh tịnh nên đạt quả báo thù thắng như vậy. Đức Phật này sở chứng chẳng thể nghĩ bàn, dùng một âm thanh diễn nói khiến cho thập loại chúng sanh ai nấy đều được giải ngộ.

“Nan Trở Phật”:Trở là phá hoại, ngăn chướng. Về mặt tự lợi, Phật đã chứng lý thể rốt ráo kiên cố, thân như kim cang, không có gì phá hoại được. Về phương diện cứu độ, Ngài làm cho những chúng sanh được Ngài cứu độ đều nhận rõ chân lý vũ trụ, chẳng bị ngũ dục, ma chướng phá hoại.

“Nhật Sanh Phật”:Mặt trời vừa mọc, chiếu tan đêm trường tăm tối. Quang minh trí huệ của Đức Phật này xuất hiện, chiếu khắp hết thảy chúng sanh, không mảy may tư vị, khiến cho hết thảy chúng sanh chướng trừ, trí hiển, như ánh thái dương chiếu khắp đại địa.

“Võng Minh Phật”: Võng (cái lưới) là do nhiều sợi gai bện thành, Minh là tỏa sáng. Lưới mà tỏa được ánh sáng thì lưới ấy phải được kết bằng sợi báu, bảo châu. Đức Phật thuyết pháp, lời lẽ chẳng hư vọng, mỗi chữ như từng hạt châu, mỗi câu đều là lời báu, quán xuyến tất cả, khiến cho chúng sanh đều được yên trụ nơi chánh đạo, khác nào mành lưới tóm thâu tất cả, chẳng sót vật nào.

Xét về Lý:

- Tối Thắng Âm biểu thị tự tánh sẵn đủ tám âm thâm diệu.

- Nan Trở biểu thị Pháp Thân kiên cố.

- Nhật Sanh biểu thị tự tánh vằng vặc.

- Võng Minh biểu thị Phật trí quang minh chói rọi, phản chiếu vô lượng.

1.2.5. Hạ phương Phật

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.

(Xá Lợi Phất! Thế giới phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)

Giải:

“Hạ phương thế giới”tức là những thế giới nằm ở ngay dưới thế giới chúng ta đang sống. Dưới thế giới này có thủy luân. Dưới thủy luân có kim luân. Dưới kim luân có hỏa luân. Dưới hỏa luân có phong luân. Dưới phong luân có không luân. Phía dưới không luân là trời Vô Sắc Giới, Sắc Giới, Dục Giới, nhân gian của một thế giới khác. Dưới thế giới ấy lại có thủy luân, kim luân, hỏa luân.... trùng trùng vô tận thế giới như vậy.

“Sư Tử Phật”:Sư Tử là vua loài thú, oai mãnh vô cùng, các thú đều chịu khuất phục nó. Tiếng nó rống khiến các loài thú khác đều run sợ. Phật là Pháp Vương, thuyết pháp tự tại, phá tan hết thảy tham, sân, si của chúng sanh, khiến cho ngoại đạo, tà ma đành chịu khuất phục, hoảng sợ. Vì thế, kinh dùng Sư Tử làm thí dụ để biểu thị Phật đức oai mãnh, tôn quý tối thắng. Đức Phật này cũng dùng ý ấy để lập tôn hiệu.

“Danh Văn Phật”:Danh xưng rền khắp vô lượng thế giới. Đức Phật này dùng vô lượng công đức cứu độ chúng sanh, chẳng dùng sức nào khác, ai nghe đến tên Ngài đều ngưỡng mộ, đạt lợi ích thù thắng.

“Danh Quang Phật”:danh tiếng, pháp âm của Đức Phật ví như ánh nắng mặt trời bình đẳng soi rọi khắp tất cả. Đức Phật này bình đẳng thí pháp cho hết thảy chúng sanh; cũng như trong toàn bộ thế gian này, không ai là chẳng được hưởng ánh mặt trời soi rọi.

“Đạt Ma Phật”:Đạt Ma là Pháp. Đức Phật đã tự dùng Phật pháp để tu thành Phật Quả, chẳng còn trụ vào hữu vi lẫn vô vi, rồi lại đem pháp ấy cứu độ hết thảy chúng sanh, khiến ai nấy đều được thành Phật.

“Pháp Tràng Phật”:Như trên đã nói, Tràng hàm nghĩa cao hiển. Pháp Đức Phật nói ra, dẫu là pháp Tiểu Thừa vẫn cao siêu hơn mọi pháp thế gian. Đức Phật này dùng Phật pháp cao siêu làm cờ hiệu, hiển minh cứu cánh, chiết phục tà ma, ngoại đạo, khiến nhân thiên đều ngưỡng mộ.

“Trì Pháp Phật”: Trì là chấp trì. Đức Phật này khéo dùng các pháp quyền - thật, đốn - tiệm, tùy cơ giáo hóa chúng sanh, đối bệnh cho thuốc, khiến ai nấy đều do nghe pháp bèn được hưởng lợi ích thù thắng.

1.2.6. Thượng phương Phật

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Thượng phương thế giới hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.

(Xá Lợi Phất! Thế giới phương trên có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”)

Giải:

Thượng phương thế giới là những thế giới ở phía trên hư không của thế giới chúng ta đang sống. Trên đỉnh núi Tu Di là trời Đao Lợi. Trên đấy là trời Dạ Ma, Đâu Suất... cho đến trời Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Trên Vô Sắc Giới lần lượt là không luân, phong luân, hỏa luân, kim luân, thủy luân. Phía trên thủy luân là nhân gian thế giới. Trùng trùng vô tận thế giới như thế.

“Phạm Âm Phật”: Phạm nghĩa là thanh tịnh. Chỉ mình Đức Phật chứng đắc âm thanh thanh tịnh. Đức Phật này từ bao kiếp lâu xa đến nay, tu trì chứng đắc diệu âm thanh tịnh, tuyên thuyết vô ngại khiến cho tâm thính chúng vui thích nên có hiệu như vậy.

“Tú Vương Phật”: Tú là tinh tú (sao), mặt trăng được gọi là vua của các tinh tú bởi vì ánh sáng của muôn sao không che lấp được ánh sáng của mặt trăng. Riêng mỗi mặt trăng tỏa sáng vằng vặc giữa muôn sao, nên cổ nhân gọi “mặt trăng là vua của muôn tinh tú”. Đức Phật này đã chứng cực quả, làm đấng Pháp Vương, hết thảy chúng sanh chẳng sánh bằng, khác nào các tinh tú phải chịu kém sáng hơn mặt trăng. Còn có thể hiểu cách khác: Phật là Giác Vương, là đấng hết thảy chúng sanh quy y, khác nào tinh tú quây quần quanh mặt trăng. Vì thế, Đức Phật có tôn hiệu như vậy.

“Hương Thượng Phật”: Chiên Đàn Hải Ngạn hương chính là vua trong các loài hương, Sáu thù hương này trị giá bằng cả tam thiên đại thiên thế giới. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hương Chiên Đàn vừa đốt lên, tỏa ngát hương khắp bốn mươi dặm”. Đức Phật này nhiều kiếp tu trì, thành tựu năm thứ diệu hương công đức Pháp Thân (giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, diệu giải thoát tri kiến hương), xông khắp pháp giới chúng sanh, khiến hết thảy ngửi thấy mùi hương đều được lợi ích. Vì thế dùng hương Chiên Đàn tối thượng để sánh ví với Đức Phật.

“Hương Quang Phật”: Hương có công năng trừ mùi nhơ, trừ khí ác. Quang chính là trí huệ hiển hiện, trừ diệt hết thảy hắc ám của chúng sanh. Vị Phật này đã chứng năm phần Pháp Thân hương, đã đoạn sạch hai thứ cấu uế: Kiến, Tư Hoặc, dùng trí đức quang minh chiếu phá hết thảy ngu si, hắc ám, nên có tôn hiệu như thế.

“Đại Diệm Kiên Phật”:xem lời giải thích ở phần trước.

“Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật”:Tạp Sắc là nhiều màu, Bảo Hoa là hoa do các thứ trân bảo quý giá nhất hợp thành. Nghiêm Thân là thân thể được trang sức hết sức đoan chánh. Hoa biểu thị nhân hạnh (hạnh được thực hiện khi còn tu nhân). Tạp Sắc Bảo biểu thị các pháp môn thù thắng trong khi tu nhân. Vị Phật này từ bao kiếp lâu xa đã tinh ròng tu lục độ vạn hạnh, nên khi thành Phật, cảm được thân tướng đoan nghiêm khôn sánh, quý như các thứ trân bảo hợp thành. Lại dùng đức tướng thù thắng ấy để dẫn dắt chúng sanh, khiến ai được trông thấy thánh tướng trang nghiêm của Phật đều chẳng quên chí nguyện, tinh tấn hướng đạo.

“Sa La Thọ Vương Phật”: Sa La là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Kiên Cố. Loại cây này xanh tươi suốt bốn mùa, chất gỗ cực cứng rắn, hoa đẹp, thơm ngát. Đao, búa không chặt mẻ được cây, tàng cây cao to. Thật là một loại cây phi thường, nên gọi là Thọ Vương (cây chúa). Vị Phật này đã chứng lý thể Pháp Thân kiên cố rốt ráo, chẳng bị bất cứ trần cảnh nào nhiễu động hoặc phá hoại, thành bậc thánh của chư Thánh, lại dùng Đại Bi phổ tế hết thảy chúng sanh. Khác nào cây Sa La trong lúc nắng gắt, xòe tàng rợp bóng che mát người đi đường.

“Bảo Hoa Đức Phật”:Hoa cõi thế gian ắt sẽ có tướng tàn tạ. Còn Đức Phật đây, trọn đủ vạn đức, trang nghiêm quý trọng như hoa báu, kiên cố diệu tuyệt, chẳng bị hư hoại, nên lập danh như vậy.

“Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật”: Các pháp thế gian, xuất thế gian vô lượng nên cũng có vô lượng nghĩa lý. Vì thế gọi là Nhất Thiết Nghĩa. Thiên sai vạn biệt nghĩa lý ấy, chỉ mình Đức Phật hiểu thấu tột cùng, đã chứng được Nhất Thiết Chủng Trí, đầy đủ chánh tri, chánh kiến, lại liễu đạt Thật Tướng của các pháp, cũng như các lý Quyền - Thật, Thiên - Viên. Vì thế, Phật hiệu là Kiến Nhất Thiết Nghĩa.

“Như Tu Di Sơn Phật”: Tu Di là vua trong các núi. Vị Phật này đầy đủ bốn đức, cao quý hơn hết trong mười pháp giới, khác nào núi Tu Di vượt trỗi trong thế gian. Vì thế, lấy danh hiệu như thế.

Xét về Lý:

- Phạm Âm biểu thị bản tánh của âm thanh là vô nhiễm, thanh tịnh.

- Tú Vương biểu thị pháp thanh tịnh có công năng tiêu trừ sự nóng bức của phiền não (như ánh mặt trăng mát mẻ, khiến ai cũng khoan khoái).

- Hương Thượng biểu thị vạn đức siêu việt các nhân vị.

- Hương Quang biểu thị Pháp Thân hương chiếu khắp thế giới.

- Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân biểu thị quả đức dùng vạn hạnh làm nhân hoa để trang nghiêm.

- Sa La Thọ Vương biểu thị Pháp Thân kiên cố, bất biến.

- Bảo Hoa Đức biểu thị bốn đức của Phật thơm ngát, thanh tịnh nhiệm mầu.

- Kiến Nhất Thiết Nghĩa biểu thị hiểu thấu suốt, tường tận các pháp.

Phần Sáu

1.3. Trưng thích kinh danh(nêu tên kinh và giải thích ý nghĩa)

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh?

(Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao lại đặt tên là Kinh Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm?)

Giải:

Bản kinh này có giá trị lớn lao như thế nào mà cả sáu phương chư Phật dị khẩu đồng âm cùng nồng nhiệt ca tụng đến thế? Để dứt mối nghi tình ấy cho đại chúng, đức Thế Tôn bèn tự nêu lời hỏi, rồi tự đáp. Tám chữ đầu trong đề mục tên kinh (Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức) đã được giảng giải tường tận qua phần Chánh Báo và Y Báo được thuyết minh trong phần Chánh Tông. Vì thế, ở đây, đức Phật chỉ giải thích ý nghĩa sáu chữ còn lại (Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh).

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

(Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ trì và nghe danh hiệu của chư Phật, thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều đắc Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác)

Giải:

Trong đoạn này, Đức Phật giải thích sự lợi ích thù thắng: “Được chư Phật hộ niệm”.

“Nhược hữu”(nếu có) là từ ngữ dùng để diễn tả ý giả định.

“Thiện nam tử, thiện nữ nhân”là hết thảy kẻ nam, người nữ có lòng tin thâm thiết. Nói cả nam lẫn nữ để xác tín một sự thật: “Ai cũng có khả năng thành Phật”.

“Văn thị kinh, thọ trì giả”:Văn là lắng nghe, “thị kinh” (kinh này) chỉ kinh A Di Đà, Thọ là tin tưởng, vui thích nhận lãnh; Trì là chấp trì, nghĩ nhớ chẳng quên. Nói cách khác, Văn - Thọ - Trì chính là tam huệ: Văn - Tư - Tu. Nghe được pháp môn Niệm Phật này, tin tưởng sâu xa pháp môn này thật ổn thỏa thích đáng. Đấy chính là Văn Huệ. Nghe rồi bèn ghi nhớ trong lòng, chán uế ưa tịnh, nguyện cầu vãng sanh. Đấy là Tư Huệ. Phát nguyện xong, chuyên tâm chấp trì danh hiệu, tịnh niệm tiếp nối mãi đến khi Nhất Tâm Bất Loạn. Đấy chính là Tu Huệ. Đó cũng chính là ba món tư lương của hành nhân Tịnh nghiệp.

“Cập văn chư Phật danh giả”(và nghe danh hiệu của chư Phật): Chữ “chư Phật” chỉ các đức Phật trong khắp sáu phương như đã nói ở trên. Phải biết rằng ai thọ trì được bản kinh này, người ấy phải là hạng đã từng gieo thiện căn lớn lao, sâu dày trong bao đời trước. Kinh Vô Lượng Thọ dạy: “Nếu xưa kia chẳng từng tu phước huệ sẽ chẳng được nghe chánh pháp này. Đã từng kính ngưỡng, vâng thờ các đức Như Lai, do nhân duyên như vậy mới được nghe nghĩa này”. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Thà chịu khổ địa ngục, nguyện được nghe tên Phật, chẳng nguyện sanh cõi trời, tạm chẳng nghe Phật hiệu”.

“Giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm”:kinh này có công đức chẳng thể nghĩ bàn, được nghe kinh này, thọ trì kinh này đều phải là do đại nhân duyên, đã từng gieo nhiều thiện căn. Do vậy, người trì kinh đương nhiên được chư Phật hộ niệm.

Hỏi: Nếu bảo thọ trì pháp môn Niệm Phật này sẽ được chư Phật hộ niệm, nhưng như vậy là phải đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn mới được chư Phật hộ niệm hay bất cứ ai có lòng xưng niệm đều được chư Phật hộ niệm?

Đáp: Thánh hiệu Di Đà gồm đủ hết thảy công đức. Chẳng cần biết là hạng chúng sanh nào, ai có lòng xưng niệm thì sẽ đều được chư Phật hộ niệm. Chỉ có điều do công lực thọ trì sai khác nên tự nhiên sẽ cảm thọ sức hộ niệm của chư Phật sâu cạn sai khác.

Nếu chỉ nghe danh hiệu Phật, không chịu xưng niệm thì chỉ là “Lý tức hộ niệm”. Nghe rồi, chịu xưng niệm, nhưng chẳng chuyên, vẫn gieo được nhân thù thắng giải thoát trong đời vị lai. Đấy chính là “danh tự tức hộ niệm”. Nghe rồi giải ngộ, lại còn trì tụng thì là “quán hạnh tức hộ niệm”. Nếu đạt được Sự nhất tâm bất loạn, đoạn sạch Kiến hoặc, Tư hoặc, chứng lý Chân Đế thì là “tương tự tức hộ niệm”. Nếu đạt được Lý nhất tâm bất loạn, phá một phẩm vô minh, chứng được một phần Chân Như Thật Tánh thì là “phần chứng tức hộ niệm”. Niệm đến khi cả bốn mươi phẩm vô minh phá sạch, chứng pháp tánh thanh tịnh thì là “cứu cánh tức hộ niệm”.

Nếu có thể nghe kinh này và thọ trì đến Nhất Tâm Bất Loạn thì là Hạnh trọn vẹn (Bát Nhã đức), danh hiệu Phật mình đang trì tụng ấy phô bày trọn vạn đức (Pháp Thân đức), niệm niệm trừ diệt sanh tử trọng tội (Giải Thoát đức). Có những công đức như thế nên người thọ trì được Như Lai hộ niệm, mà sự hộ niệm ấy cũng từ chính những công đức ấy phát sanh.

“A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”:A nghĩa là không, Nậu-đa-la dịch là Thượng. Tam dịch là Chánh, Miệu dịch là Đẳng. Bồ Đề dịch là Chánh Giác. Hợp lại, có nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

* Chánh Giác (Chánh là không tà, Giác là không mê), hàm ý: đây là sự giác ngộ đúng đắn, chánh trí điên đảo, lìa hý luận. Gọi là Chánh Giác để phân biệt với bất giác của phàm phu hay tà giác của ngoại đạo. Chúng sanh từ vô thỉ đến nay, do vọng tưởng chấp trước khiến cho bản giác chân tâm bị ngũ uẩn vùi lấp, mê muội, chẳng giác ngộ. Vì thế gọi là “bất giác chúng sanh”. Ngoại đạo quay lưng với bản tâm, hướng ngoại cầu pháp, cho nên cái gọi là “giác ngộ” của họ nếu chẳng vọng thì cũng là tà. Bởi thế, chẳng thể công nhận sự giác ngộ của họ là chân chánh được.

* “Chánh Đẳng” (đẳng là bình đẳng): Sau khi tự mình đã giác ngộ rồi, chẳng hề tiếc nuối mảy may, vận dụng trí huệ chân chánh, bình đẳng tận lực làm lợi cho người khác. Gọi là Chánh Đẳng để phân biệt với Độc Giác, Nhị Thừa. Nhị Thừa tuy có Chánh Giác, nhưng chẳng thể lợi tha, chẳng hề có tâm bình đẳng phổ biến. Vì vậy, sự giác ngộ của họ không thể gọi là Chánh Đẳng được.

* “Vô Thượng” là viên mãn cả ba điều giác ngộ (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn), đầy đủ vạn đức, không còn điều gì cao siêu hơn được. Luận trên phương diện tự chứng thì trí huệ đã viên mãn vô thượng. Xét về phương diện lợi tha thì công đức cũng viên mãn vô thượng.

Gọi là Vô Thượng để phân biệt với sự chứng đắc chưa toàn phần của Bồ Tát. Bồ Tát tuy đã có thể bình đẳng quán sát cả Chân lẫn Tục, đã thực hiện được công hạnh tự giác và giác tha, nhưng xét về tự chứng vẫn còn chưa hoàn toàn viên mãn, vẫn còn có những vô minh vi tế chưa đoạn sạch được. Công đức lợi tha cũng chưa thể hoàn toàn viên mãn, vẫn còn phải cầu Phật Quả. Do vậy, Bồ Tát chỉ có thể xưng là Chánh Đẳng Chánh Giác, chứ chưa thể gọi là Vô Thượng.

Chỉ mỗi mình Đức Phật là bậc phước huệ đều đủ, rốt ráo viên mãn, mới kham xưng là “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Nhờ thọ trì kinh này và nghe danh hiệu chư Phật, hành nhân sẽ được bất thoái chuyển đối với vô thượng Phật quả, tức là Bồ Đề tâm không bị lui sụt dù phải tu hành trong bao nhiêu kiếp. Đấy chính là điều lợi ích thù thắng nhất.

Nói cách khác, Chánh Giác tương ứng với Tự Giác, Chánh Đẳng tương ứng với Giác Tha, Vô Thượng tương ứng với Giác Mãn. Sáu chữ đức hiệu này thường không dịch nghĩa mà giữ nguyên âm tiếng Phạn để biểu thị lòng tôn trọng. Sau khi thành Phật thì gọi là đắc Bồ Đề quả, nhân của Bồ Đề quả là Bồ Đề tâm. Vì thế, người mới học Đại Thừa cầu chứng Phật quả, thì gọi là “phát Bồ Đề tâm”. Thành Phật chính là nhờ tâm. Bởi vậy, nhà Thiền mới xướng thuyết “tức tâm tức Phật” (tâm chính là Phật); Tịnh Độ dạy: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (tâm này là Phật, tâm này làm Phật). Ai có tâm đều có khả năng thành Phật.

Xét về Lý, “đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” biểu thị tự tánh vốn sẵn đầy đủ thánh đức vô thượng.

1.4. Phổ khuyến đại chúng tín thọ (khuyên hết thảy đại chúng tin nhận)

Chánh kinh:

Thị cố Xá Lợi Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết.

(Vì thế ông Xá Lợi Phất! Các ông đều phải nên tin nhận lời ta và lời chư Phật đã nói).

Giải:

Đây là lần thứ ba, Đức Phật khuyến chúc. Hai chữ “thị cố”(vì thế) để thừa tiếp đoạn trước; hàm ý: do chư Phật hộ niệm, được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

“Nhữ đẳng”:lời phó chúc, khuyến tu này không chỉ dành riêng cho Ngài Xá Lợi Phất, mà là dành cho toàn bộ đại chúng hiện diện trong pháp hội cũng như toàn bộ chúng sanh được nghe kinh này trong đời tương lai.

“Giai đương tín thọ”:Tín ở đây là tin chắc chắn, không nghi ngờ gì hết. Thọ là giữ vững, chẳng để quên lãng. Hết thảy đại chúng trong pháp hội và hết thảy chúng sanh trong đời tương lai đều phải nên tín thọ lời dạy này.

“Ngã ngữ”: Ngã là chữ Đức Phật Thích Ca dùng để tự xưng. Chữ “ngữ” chỉ toàn bộ những lời dạy trong pháp hội này: y báo, chánh báo trang nghiêm, lợi ích thù thắng của việc vãng sanh cũng như hạnh Chấp Trì Danh Hiệu.

“Cập chư Phật sở thuyết”: hết thảy chúng sanh đều phải nên tin nhận pháp môn Niệm Phật là pháp môn được Đức Phật Thích Ca đích thân diễn giảng cũng như được mười phương vô lượng chư Phật tán thán mà sanh khởi tín tâm, phát nguyện vãng sanh.

Thuở xưa có một vị Hòa Thượng sùng phụng pháp môn Niệm Phật, thường dùng bốn chữ “tín, ức, xưng, kính” (tin tưởng, nhớ nghĩ, xưng danh, cung kính) để dạy người: “Hai chữ Tín - Ức chẳng lìa nơi tâm; hai chữ Xưng - Kính chẳng rời khỏi miệng. Vãng sanh Tịnh Độ ắt phải có tín. Ngàn người tin, ngàn người sanh. Vạn người tin, vạn người sanh. Tin vào danh hiệu Phật, chư Phật ắt gia hộ ngươi, ắt cứu giúp ngươi. Tâm thường nhớ Phật, miệng thường niệm Phật, thânthường kính Phật, thì mới gọi là thâm tín”.

2. KHUYẾN NGUYỆN

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả; thị chư nhân đẳng giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh.

(Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh vào cõi Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được chẳng thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đối với cõi nước ấy, họ đã sanh, đang sanh hoặc sẽ sanh).

Giải:

Phần trên khuyên phát khởi lòng Tin, phần này khuyên nên phát nguyện.

Pháp môn Tịnh Độ chẳng phải đợi đến khi đức Phật Thích Ca thuyết giảng kinh A Di Đà xong mới hiện hữu. Thực sự ra, ngay sau khi Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay, pháp môn này đã sớm được tuyên lưu rộng rãi khắp mười phương thế giới. Vì thế, Đức Phật mới nói: “Nếu có người đã phát nguyện thì người ấy đã sanh về trong cõi ấy”.

Nói “đã phát nguyện” là chỉ những người phát nguyện trong mười kiếp kể từ khi Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay. “Nay phát nguyện” là những thính chúng trong pháp hội này, nghe xong tin tưởng, phát nguyện thì ngay trong lúc này, cũng được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Suốt cho đến đời vị lai, những người sẽ phát nguyện thì cũng sẽ được vãng sanh. Nói tóm lại, chỉ cần nghe pháp rồi sanh lòng tin kiên cố, do tin nên phát nguyện, do nguyện bèn siêng năng thực hành, không một ai là không được vãng sanh Cực Lạc!

Nay chúng ta thấy nhiều người niệm Phật, nhưng ít thấy người được vãng sanh là vì đâu? Đó là vì tuy tín ngưỡng Cực Lạc, nguyện cầu vãng sanh, nhưng tâm vẫn giữ khăng khăng muôn mối lo toan, tham đắm, vọng niệm rộn ràng, chẳng chịu buông bỏ mọi duyên, đến nỗi lâm chung bị các tạp duyên gây chướng ngại.

Lắm kẻ lại còn ngờ: nếu mười phương chúng sanh niệm Phật cùng được vãng sanh về Cực Lạc, làm sao cõi ấy dung chứa trọn hết nổi?

Nên biết rằng: nghi ngờ như thế chính là do Biến Kế Sở Chấp mà thành. Thế giới Cực Lạc là do vô lượng công đức của Phật A Di Đà tạo thành, chính là thế giới diệu hữu. Diệu hữu vốn là chẳng thể nghĩ bàn, chứ nào phải là cái Có bị hạn cuộc trong vòng suy lường hạn hẹp của phàm phu. Tại sao nghe kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết thuật cái thất chỉ rộng một trượng của Ngài Duy Ma Cật có thể dung nạp ba vạn hai ngàn tòa sư tử báu thì tin, mà lại chẳng tin nổi thế giới Cực Lạc có thể dung nạp mọi chúng sanh niệm Phật?

Chánh kinh:

Thị cố Xá Lợi Phất! Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ.

(Vì thế nên Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu có ai tin tưởng thì hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước ấy).

Giải:

Đây là lần thứ ba đức Thế Tôn khuyên nên phát nguyện. Trong phần Chánh Tông, lần khuyến hóa thứ nhất là: “Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ”(Chúng sanh nghe vậy hãy nên phát nguyện sanh vào cõi nước ấy). Lần khuyên thứ hai: “Nhược hữu chúng sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ”.

Đức Thế Tôn từ bi khẩn thiết, ba lượt ân cần chỉ dạy, khuyên răn phát nguyện. Sau khi trần thuật cõi Cực Lạc y báo, chánh báo, trang nghiêm, người sanh trong cõi ấy sẽ đắc ba thứ Bất Thoái, đức Thế Tôn bèn khuyên nên phát nguyện vãng sanh. Đấy là lần khuyến hóa thứ nhất.

Tiếp đó, cuối phần Chánh Tông, sau khi chỉ dạy pháp Trì Danh, hành trì giản tiện nhưng lại mau được vãng sanh, lợi ích lớn lao, thính chúng ai nấy tâm khai ý giải, đức Thế Tôn lại khuyến hóa nên phát nguyện vãng sanh. Đấy là lần khuyến hóa thứ hai.

Lần khuyến hóa thứ ba là ngay trong đoạn kinh văn này: Ai muốn vãng sanh liền được vãng sanh. Được vãng sanh đồng nghĩa với thành tựu những lợi ích thù thắng, chẳng hạn như viên chứng ba thứ Bất Thoái. Vì thế, đức Thế Tôn rát miệng, nhọc lòng khuyên răn đại chúng phải cấp tốc phát nguyện cầu sanh.

Chỉ trong một bài kinh ngắn như kinh A Di Đà, đức Thế Tôn ba lượt khuyên nên phát nguyện, đủ thấy tâm từ bi cứu thế của đức Thích Ca trước sau luôn tha thiết. Ai nghe đến kinh này, phải nên tin tưởng, phải nên phát nguyện, tinh tấn tu trì thì mới khỏi cô phụ tấm lòng quan hoài, từ bi vô tận của đấng Đạo Sư hai cõi.

Hỏi: Kinh Lăng Nghiêm dạy:

“Chân giáo thể phương này,

Thanh tịnh nơi nghe tiếng”.

Như vậy, nhĩ căn của chúng sanh cõi này đặc biệt nhạy bén. Bởi lẽ đó, Ngài Văn Thù chẳng chọn pháp Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí. Thế sao Tịnh Độ Tông lại luôn khuyến hóa mọi người niệm Phật?

Đáp: Chúng sanh căn tai lanh lợi càng phải nên niệm Phật. Bởi lẽ, tiếng niệm Phật từ miệng thoát ra, thấu vào tai, có khả năng thống nhiếp các căn, khiến cho tịnh niệm tiếp nối; thật là phù hợp với nguyên tắc “dùng âm thanh làm Phật sự” vậy!

Huống hồ, pháp Niệm Phật của Ngài Thế Chí chú trọng nơi tâm niệm, chứ đâu phải là khẩu niệm xuông! Dùng âm thanh thuyết giáo chỉ thấu đến những người căn tai thông lợi, còn bổn nguyện tiếp độ người niệm Phật vãng sanh phổ độ tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới. Bởi thế, không riêng mình đức Phật Thích Ca khen ngợi pháp này, cả mười phương chư Phật đều cùng xưng tán.

Hỏi: Như Lục Tổ Huệ Năng nói: “Người phương Đông tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây phương. Người Tây phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh về cõi nào?”Nếu ai dùng câu nói ấy để bác pháp môn Niệm Phật thì nên đáp như thế nào?

Đáp: Do giảng dạy pháp môn sai khác nên thuyết pháp cũng sai khác. Nhà Thiền chỉ mong trực chỉ chân tâm, chỉ cốt triệt ngộ nguồn tâm, ngay khi triệt ngộ ấy liền thành Phật. Nhưng bản thể của tâm vốn chẳng phải là Phật, cũng chẳng phải là chúng sanh, nên thường nói: “Trong Chân Như môn chẳng dính mảy trần”. Nhà Tịnh dùng pháp môn Niệm Phật để biến cải cái tâm ô nhiễm thành tâm thanh tịnh, lấy niệm Phật làm phương pháp, lấy sự vãng sanh làm mục đích, nên thường bảo: “Nơi Phật sự chẳng hề bỏ một pháp”.

Lời dạy của Lục Tổ là nhắm vào căn cơ thượng thượng thừa, khích lệ họ cậy vào tự lực. Trong khi đó, Tịnh Độ là pháp môn phương tiện thù thắng khiến cho mọi người dù là đàn bà, trẻ nít vẫn có thể tấn tu nhập đạo. Niệm Phật đến mức ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm, tâm lẫn Phật gom thành một phiến thì nào có khác gì cảnh giới “không Phật, không chúng sanh” đâu!

Lời Lục Tổ dạy là dành cho người tu Thiền hâm mộ trực chỉ đơn truyền, mà cũng là để cảnh tỉnh người niệm Phật chấp tướng quá lẽ mà thôi!

Tuy vậy, dẫu chấp tướng niệm Phật, một lòng tin tưởng vào pháp môn Tịnh Độ vẫn được vãng sanh, được bất thoái chuyển, lợi ích vô cùng; vẫn hơn những kẻ thích cao đàm huyền luận, chấp lý phế sự, suốt ngày trọn năm hiu hiu tự đắc luận chuyện giải thoát trên đầu lưỡi, khóe miệng, để khi đại sự chợt đến, chân tay luống cuống, thần hồn mờ mịt. Lúc ấy, dẫu muốn ung dung làm chủ nghiệp thức cũng đành bó tay, phó mặc cho nghiệp lực lôi kéo!

Nếu chính mình đã có thể hành trì pháp môn Niệm Phật, lại còn dạy bảo người khác cùng hành thì chẳng những người ấy chắc chắn được vãng sanh, mà phẩm vị còn thêm cao tột. Như xưa kia, bà Việt Quốc phu nhân họ Vương lãnh đạo toàn thể thê thiếp trong nhà niệm Phật, cùng tu Tịnh Độ. Có một tỳ nữ đột nhiên không bệnh mà mất. Đêm ấy, Vương phu nhân mộng thấy cô tỳ nữ đến bái tạ: “Nhờ ơn phu nhân dạy răn, nay con được vãng sanh Tịnh Độ”. Phu nhân hỏi: “Ta đến Tây Phương có được không?” Cô tỳ nữ thưa được, rồi dẫn bà đi.

Lát sau, bà thấy một cái ao to, trong mọc nhiều hoa sen, to nhỏ chen lẫn, tươi, héo khác nhau. Phu nhân hỏi lý do, cô tỳ nữ đáp: “Người trong thế gian vừa mới khởi ý niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì trong ao này mọc lên một cành hoa sen. Do siêng lười khác nhau nên hoa cũng tươi héo khác biệt”. Trong hoa có một người mặc triều phục ngồi, mão báu, chuỗi ngọc trang hoàng trên thân. Phu nhân hỏi ai đấy? Cô hầu đáp: “Ông Dương Kiệt”. Bà lại thấy một người khác cũng mặc triều phục ngồi trên hoa, liền hỏi, cô hầu bảo đó là Mã Khư. Hai vị này đều cùng tu Tịnh nghiệp trước đây.

Phu nhân hỏi: “Ta sẽ được sanh về chỗ nào?” Cô hầu liền dẫn đi tiếp vài dặm, thấy một đài hoa, vàng ngọc chen nhau tỏa sáng, quang minh chói ngời. Cô hầu bảo: “Đây là chỗ phu nhân sẽ sanh về. Đây chính là kim đài thượng phẩm thượng sanh vậy”. Phu nhân chợt thức dậy, buồn vui lẫn lộn. Sinh nhật năm ấy, bà dậy sớm, khơi lư đốt hương, đứng nhìn về phía Quán Âm Các. Quyến thuộc bước đến toan chúc thọ, mới hay bà đã đứng mà hóa rồi.

3. KHUYẾN HÀNH

3.1. Chư Phật chuyển tán khuyến(các đức Phật khen ngợi lẫn nhau và khuyến hóa)

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công đức.

(Xá Lợi Phất! Như ta nay khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật).

Giải:

Ở đây, chữ Ngã là tiếng đức Thích Ca dùng để tự xưng. Theo pháp sư Bân Tông, chữ “chư Phật” ở đây nên hiểu là chỉ nói riêng về đức Phật A Di Đà, vì trong bản Đường dịch của kinh này (với tựa đề Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh), Ngài Huyền Trang viết rõ: “Như ngã kim giả tán thán A Di Đà bất khả tư nghị công đức”(Như ta nay khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà).

Hiểu sâu hơn, đoạn kinh này có thể hiểu là đức Phật Thích Ca xưng tán công đức của chư Phật hay chỉ xưng tán mình công đức của Phật A Di Đà đều được. Bởi lẽ, thập phương chư Như Lai cùng một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ, nên xưng tán chư Phật tức là xưng tán Phật A Di Đà; xưng tán mỗi một Đức Phật A Di Đà cũng là xưng tán tất cả chư Phật.

Trong câu “bất khả tư nghị công đức”, chữ “công đức” ám chỉ các công đức trang nghiêm của y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Trước chữ “công đức” lại thêm chữ “bất khả tư nghị” hàm ý: chẳng thể dùng bất cứ ngôn từ nào để diễn tả, phân biệt, giải thích được nổi. Cũng chẳng thể dùng tâm suy nghĩ, phán đoán, tưởng tượng để hình dung, lãnh hội được sự vĩ đại trang nghiêm kỳ diệu của cõi Cực Lạc.

Chánh kinh:

Bỉ chư Phật đẳng diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công đức nhi tác thị ngôn; Thích Ca Mâu Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Sa Bà ngũ trược ác thế: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

(Các đức Phật ấy cũng khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta mà nói như thế này: “Thích Ca Mâu Ni Phật làm được chuyện rất là hy hữu, Ngài có thể ở trong đời ác ngũ trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Giải:

Mười phương thế giới vô lượng vô biên, mỗi cõi Phật hoặc tịnh hoặc uế sai khác nên sự giáo hóa cũng sẽ dễ hay khó khác nhau. Chư Phật không xưng tán tướng hảo trang nghiêm của Đức Phật Thích Ca, mà lại ngợi khen Ngài về tinh thần, ý chí vĩ đại: làm được những việc khó làm, nhẫn được những điều khó nhẫn trong đời ác. Đấy chính là những điều thật là hy hữu chẳng thể nghĩ bàn được, thật đáng tán dương, khen ngợi không cùng.

Thành Chánh Giác trong cõi nước thanh tịnh đã là một việc khó khăn, thế mà đức Thích Ca lại có thể thành đạo Bồ Đề trong cõi ác ngũ trược. Đấy quả là một điều khó khăn nhất trong mọi điều khó. Vì thế gọi là “thậm nan hy hữu chi sự”.

Thành Bồ Đề đã khó, nhưng nếu không khéo vận dụng các duyên sẽ rất khó thể thuyết pháp. Chúng sanh đời ác ngoan cố, bướng bỉnh, khó thể điều phục, Đức Phật Thích Ca đã điều phục được họ, lại còn dùng pháp môn tối thắng viên đốn Niệm Phật này khiến họ mau chóng giải thoát, đấy thật lại càng khó. Giảng pháp môn Niệm Phật đã khó, thế nhưng nay đức Thích Ca lại chỉ dạy tu mỗi pháp môn trì danh hiệu để vượt ngang sanh tử, đấy là mới thật là một điều cực hy hữu trong mọi điều hy hữu. Vì thế mới gọi là “thậm nan hy hữu chi sự”.

Diệu pháp phương tiện đệ nhất chẳng thể nghĩ bàn này được đức Bổn Sư ân cần thuyết ra là để chúng sanh trong đời Mạt chóng chứng đạo vô thượng, chóng được hưởng cảnh an vui tự tại nơi cõi Cực Lạc. Ân ấy, đức ấy, khó nỗi đáp đền, chỉ còn biết ngưỡng tạ, tinh tấn chuyên tu trì danh niệm Phật ngõ hầu báo đáp chút phần.

“Thích Ca Mâu Ni”, Hán dịch là Năng Nhân Tịch Mặc. Ta thường xưng tụng Ngài là đức Bổn Sư. Bổn Sư nghĩa là vị thầy dạy mình từ căn bản. Ta biết đến Phật pháp, biết đến mọi pháp môn tu tập, biết đến danh hiệu cùng thế giới của chư Phật, danh hiệu, công hạnh và trụ xứ của chư đại Bồ Tát đều do đức Thích Ca giảng ra. Mọi hiểu biết về Phật pháp, về đường lối giải thoát đều bắt nguồn từ đức Phật Thích Ca, nên Ngài được gọi là Bổn Sư.

Về danh hiệu của đức Bổn Sư, Năng Nhân là thường đem lòng nhân từ đối xử với mọi chúng sanh (Năng là khả năng ứng cơ thuyết pháp, khéo vận dụng mọi phương cách thích hợp từng căn cơ để hóa độ. Sự ứng cơ thuyết pháp ấy không ngoài lòng từ ái vô biên của Đức Phật nên gọi là Năng Nhân). Tịch Mặc nghĩa là chẳng chấp tướng.

Nói chi tiết hơn: TỊCH là chẳng chấp vào thân tướng “chẳng lìa Bồ Đề đạo tràng mà đến trong vườn Lộc Dã”.Suốt ngày ra vào, qua lại, đắp y, ăn cơm, thậm chí rảo gót khắp toàn cõi Ấn Độ, nhưng tuyệt nhiên chẳng chấp vào thân tướng: “Khiến hết thảy chúng sanh diệt độ, nhưng chẳng thấy có một chúng sanh nào được diệt độ cả”.MẶC là chẳng chấp vào ngữ tướng (tướng ngôn ngữ): “Trọn ngày thuyết pháp, nhưng trọn chẳng có pháp nào để có thể nói”.Thậm chí: “Ta thuyết pháp suốt bốn mươi năm, nhưng chưa từng nói một chữ”.Đấy chính là mặc nhiên (im lặng) không hề có ngữ tướng vậy.

Hiểu sâu hơn, Năng Nhân chính là Đại Bi, Tịch Mặc là Đại Trí. Phàm phu vô bi, vô trí; Nhị Thừa thánh nhân hữu trí vô bi; Bồ Tát đủ cả Bi lẫn Trí, nhưng chưa rốt ráo. Riêng mình Đức Phật Bi Trí viên mãn, là bậc thánh nhân đạt cực quả Đại Thừa, kinh Pháp Hoa thường ví là “ngồi xe trâu trắng lớn”. Xe trâu trắng lớn tức là xe Bi Trí gồm đủ vậy. Hết thảy vạn pháp đều không ngoài Bi và Trí. Vì thế, dùng Bi Trí để lập hồng danh vậy.

Hơn nữa, Năng Nhân là Sự, Tịch Mặc là Lý. Lý Sự vô ngại nên hiệu là Năng Nhân Tịch Mặc. Thêm nữa, Năng Nhân là Tướng, Tịch Mặc là Tánh. Tánh tướng viên dung nên hiệu là Năng Nhân Tịch Mặc. Năng Nhân là Tục Đế, Tịch Mặc là Chân Đế. Chân Tục nhất như nên hiệu là Năng Nhân Tịch Mặc. Nói rộng ra, tam tạng mười hai bộ kinh, hết thảy công đức, không gì là chẳng nhiếp trọn trong bốn chữ thánh hiệu Thích Ca Mâu Ni.

“Sa Bà quốc độ”:Sa Bà, Hán dịch là Kham Nhẫn. Đây chính là một cõi tam thiên đại thiên thế giới, thuộc phạm vi hóa độ của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Dịch là Kham Nhẫn, hàm ý: chúng sanh trong cõi Sa Bà cam lòng chịu đựng những nỗi khổ sở do ngũ trược gây ra, chẳng biết chán nhàm. Dù có được nghe Phật pháp, vẫn ít kẻ chịu tiến tu để thoát ly khổ cảnh, cam tâm vùi đắm mãi trong cảnh trói buộc, nên gọi là Kham Nhẫn. Cũng vì người nghe pháp thì nhiều, kẻ chịu tu tập thì ít nên chúng sanh cõi Sa Bà thường được mệnh danh là “cang cường thành tánh, nan điều, nan phục” (bướng bỉnh, cứng cỏi thành tánh, khó điều, khó phục).

“Ngũ trược ác thế”: Thế là thế giới. Thế giới tánh vốn không trược ác, do vì có năm thứ trược nên gọi là “ác thế”. Trược nghĩa là ô uế, chẳng khiết tịnh. Giống như nước sạch, trong trẻo, sáng láng, bị quăng đất đá vào sẽ trở thành đục ngầu, bẩn thỉu; nhưng khi gạn hết bụi đất, tánh trong của nước lại hiện ra.

Nước trong ví như chân tánh, đất bụi ví như phiền não. Bản tánh của chúng ta cũng thế: vốn luôn trong sạch, do vọng niệm mê mờ che lấp nên tánh bản nhiên thanh tịnh không hiển hiện được, cứ mãi phải luân hồi trong sanh tử.

Nếu muốn quy hoàn về bản tánh thiên chân thì phải giống như gạn lọc nước đục: Phải chứa trong bình sạch, để yên không xáo động, cát, đất, sỏi sạn từ từ lắng xuống, nước trong hiện ra. Đấy gọi là bước đầu điều phục phiền não. Gạn sạch hết bụi đất đi rồi thì chỉ còn nước trong. Gạn sạch bụi phiền não khỏi bản tâm thì gọi là “đoạn trừ căn bản vô minh” vậy. Dùng thủy thanh châu đặt vào nước đục, nước đục tự lóng trong. Đem Phật hiệu vạn đức đặt vào tâm loạn, tâm loạn tự nhiên lặng dứt bụi trần phiền não. Năm thứ trược là:

1) Kiếp Trược:

Kiếp nói đủ là Kiếp Ba, Hán dịch là Thời Phần. Thời Phần có bốn giai đoạn lớn: Thành, Trụ, Hoại, Không. Mỗi một giai đoạn gồm hai mươi lần tăng giảm. Tính từ lúc thọ mạng chỉ mười năm, cứ qua một trăm năm, tăng thêm một tuổi. Thời gian từ khi tuổi thọ từ mười tuổi tăng đến tám vạn bốn ngàn năm, thì gọi là “thời kỳ tăng”.

Từ tám vạn bốn ngàn tuổi, cứ mỗi một trăm năm lại giảm đi một tuổi, cho đến khi tuổi thọ chỉ còn mười tuổi, thì lại bắt đầu tăng. Đấy là thời kỳ giảm.

Thời gian gồm một thời kỳ tăng và thời kỳ giảm gọi là Tiểu Thời Phần (tiểu kiếp, tức là một ngàn sáu trăm tám mươi vạn năm). Hai mươi tiểu kiếp là một Trung Thời Phần (Trung Kiếp). Bốn Trung Kiếp hợp thành một Đại Thời Phần (Đại Kiếp).

Kiếp vốn không có tự thể, do có bốn thứ trược kia (Kiến Trược, Phiền Não Trược, Chúng Sanh Trược, Mạng Trược) xen lẫn nên gọi Kiếp Trược. Nói chính xác hơn, trong thời kỳ kiếp giảm, khi tuổi thọ con người chỉ còn hai vạn năm thì Kiếp Trược bắt đầu. Đó là do nghiệp báo của chúng sanh cùng tạo thành, ba độc (tham, sân, si) tăng trưởng ngày càng kịch liệt hơn, ba thứ tiểu tam tai (đao binh, thiên tai, tật dịch) cũng ngày càng xảy ra nhiều hơn. Đến lúc con người chỉ còn thọ mười tuổi là lúc tệ ác nhất. Cỏ cây trong khắp đại địa chạm đến đều biến thành vũ khí; chúng sanh chịu muôn vàn nỗi khổ sở chẳng cách nào diễn tả trọn nổi. Do có những điều tệ ác như thế nên gọi là Kiếp Trược.

Trong giai đoạn kiếp tăng, tam tai dần giảm bớt, phiền não mỏng nhẹ dần, chúng sanh hướng về điều lành, ác kiến nhẹ bớt, mạng dần tăng thêm. Do ngày càng tốt đẹp hơn nên tạm gọi là Kiếp Thanh. Trong giai đoạn này, chư Phật thường chẳng xuất thế mà thường chỉ thị hiện độ sanh trong giai đoạn Kiếp Trược.

2) Kiến Trược:

Kiến là kiến giải, hoặc có thể hiểu là những tư tưởng, suy nghĩ của chúng ta. Trong nhà Phật, có năm loại kiến: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến. Năm thứ kiến này thường gọi là “ngũ lợi sử”. Do chúng có công năng sai khiến hết thảy chúng sanh tạo tác hết thảy ác nghiệp, khiến họ bị đọa lạc trong sanh tử, nên gọi là Sử (sai khiến). Tác dụng của chúng rất nhanh chóng, mạnh mẽ nên bảo là Lợi.

a. Thân Kiến: Chấp thân ta là Ngã, vọng sanh tham trước, chẳng thể thấu suốt thân ta chỉ là tứ đại giả hợp, hết thảy đều là huyễn mộng vô thường, lầm chấp là thật có thân, tưởng mình là chúa tể thật sự của cái thân, bèn khởi ra mọi ý tưởng điên đảo, tạo tác đủ mọi ác nghiệp để thỏa mãn, cung phụng cái thân này. Mỗi khi gặp điều gì trái ý bèn cho là tổn hại đến thân. Do đồng nhất thân với tâm, nên lại tạo tác đủ mọi điều hầu mong thân được an nhàn, khoái lạc. Đó gọi là Thân Kiến.

b. Biên Kiến: Đây là thứ kiến giải bất chánh, tà vạy của ngoại đạo. Cố chấp một cách ngoan cố, bướng bỉnh vào những hiểu biết lệch lạc của chính mình, tin mù quáng vào những học thuyết như Nhất Nguyên Luận, Nhị Nguyên Luận, Hữu Thần Luận, Vô Thần Luận, Nhất Thần Luận, Đa Thần Luận v.v... Do chấp chặt vào một bên, vào một khía cạnh của sự việc, nên gọi là Biên Kiến.

c. Giới Thủ Kiến: Đây cũng là một loại kiến giải sai lầm của ngoại đạo. Thời xưa, ở Ấn Độ có đến 96 phái ngoại đạo, chủ trương những giới pháp chẳng chánh đáng (chẳng hạn giữ giới trâu, giới chó, giới gà v.v... tức là sống như loài trâu, loài chó, loài gà... với ước vọng được sanh thiên), hoặc có những người co chân đứng suốt đời, nằm bàn chông, tu đủ các thứ khổ hạnh vô ích như lõa thể, bôi tro lên thân, đánh tội hành xác, nằm giường dây, mặc áo gai, nhịn đói v.v... Nói rộng ra, Giới Thủ là những giới cấm khổ hạnh vô ích không đưa đến lợi ích giải thoát nào. Vì khăng khăng chấp nhặt vào những giới cấm vô ích, những cách hành trì hoang đường nên gọi là Giới Thủ Kiến.

d. Kiến Thủ Kiến: Đây cũng là thứ kiến giải cố chấp lầm lạc của ngoại đạo. Họ tưởng họ đã chứng ngộ chân lý, chấp chặt vào đường lối tu hành của mình, chưa chứng đã tưởng là đã chứng, chấp vọng là chân, cố chấp, ngoan bướng, lầm lạc suốt cả đời, nên gọi là Kiến Thủ Kiến (Thủ có nghĩa là nắm giữ, chấp chặt). Nói rộng hơn, nếu chấp chặt khăng khăng vào một giáo lý trong Phật pháp, bài xích các giáo pháp khác thì cũng bị vướng vào lỗi Kiến Thủ Kiến.

e. Tà Kiến: Dùng tà tâm để lãnh ngộ chân lý, điên đảo thị phi, chẳng tin nhân quả, đoạn diệt các thiện căn. Đấy gọi là Tà Kiến.

Nói chung, Thân Kiến là chấp vào Ngã Kiến (chấp có Ngã), Biên Kiến là Đoạn Kiến (chấp chết là hết) và Thường Kiến (chấp có một linh hồn thường hằng, sau khi chết sẽ hội nhập với Đại Ngã v.v...); Giới Thủ Kiến là chẳng phải nhân giải thoát mà cứ chấp chặt là nhân giải thoát; Kiến Thủ Kiến là đối với sự không phải là quả giải thoát lại chấp là quả giải thoát; Tà Kiến là kiến chấp bác không nhân quả. Những kiến chấp như vậy khiến chúng sanh mãi chìm đắm trong biển khổ sanh tử, không cách nào thoát ra khỏi tam giới. Chẳng những mình lầm lạc mà còn làm cho hậu thế lầm lạc theo.

4) Phiền Não Trược:

Phiền não nghĩa là những điều khiến tâm tăm tối, buồn phiền, bất an. Có năm yếu tố tạo thành phiền não, thường gọi là Ngũ Độn Sử. Đó là: tham, sân, si, mạn, nghi. Do tác dụng của chúng khiến chúng sanh ngu độn, chậm chạp, nên gọi là Độn. Tuy là Độn, chúng vẫn có công năng khiến chúng sanh tạo tác đủ mọi ác nghiệp, tiến nhập đường ác.

1. Tham: Cầu được không chán, lòng ham muốn vô tận thì gọi là Tham. Lòng tham của con người không ngoài năm thứ ham muốn (ngũ dục): Tài (tiền của), Sắc (sắc dục), Danh (danh lợi), Thực (ăn uống), Thùy (ngủ nghê). Không lúc nào con người chẳng ham muốn những điều ấy, tìm đủ mọi cách thỏa mãn dục vọng của mình mà thôi!

2. Sân: Gặp những cảnh trái ý liền giận dữ, chẳng thể nhẫn nhục, hơi chút liền nổi nóng, não loạn cả mình lẫn người.

3. Si: Đối với những cảnh chẳng thuận, chẳng nghịch lại khởi tâm mê hoặc, chẳng thể tỉnh táo quán sát, đối với hết thảy mọi pháp chẳng thể hiểu rõ, nên gọi là Si.

4. Mạn:kiêu ngạo, cậy mình tài trí, khinh miệt người khác thì gọi là Mạn.

5. Nghi: đối với hết thảy pháp đều sanh lòng ngờ vực, chẳng thể phán đoán dứt khoát, mê muội đối với pháp tướng.

Nói chung, năm điều trên khiến tâm ta phiền muộn, chẳng được an ổn, những điều trên day dứt, dày vò tâm ta khiến ta chẳng được thảnh thơi. Vì thế, chúng được gọi là phiền não. Do Tham chiêu cảm nạn đói kém, do Sân chiêu cảm nạn đao binh, do Si chiêu cảm đau bịnh. Thậm chí đại tam tai: thủy, hỏa, phong, không gì chẳng phải là do ba độc Tham, Sân, Si chiêu cảm cả. Những thứ phiền não ấy khiến tâm ta hỗn loạn, mờ đục nên gọi là Phiền Não Trược.

Nếu nói tỉ mỉ hơn, phiền não gồm có hai loại: khách trần phiền não (tức Kiến Hoặc và Tư Hoặc) và căn bản phiền não (tức Vô Minh hoặc).

4) Chúng Sanh Trược:

Chúng có nghĩa là chẳng phải một, Sanh là từ ngữ chỉ chung cõi trời lẫn nhân gian và cả tam ác đạo. Các loài hữu tình thọ sanh trong mọi chỗ nên gọi là Chúng Sanh. Lại phải dựa vào bốn đại: đất, nước, gió, lửa giả hợp để có huyễn thân sanh diệt nên gọi là Chúng Sanh. Lại do bị Ngũ Ấm chướng lấp nên gọi là chúng sanh.

Ngũ Ấm còn gọi là Ngũ Uẩn. Ấm có nghĩa là ngăn che, Uẩn có nghĩa là tích tụ. Năm yếu tố (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) kết hợp, tích tụ lại tạo thành một chúng sanh, nên chúng được gọi là Ngũ Uẩn.

Chúng sanh mê muội lẽ Duyên Sanh, khăng khăng chấp trước vào Ngã tướng, cứ tưởng là mọi vật đều do cái Ngã ấy làm chủ tể. Vì thế, sanh khởi tâm vị kỷ, tâm tư lợi, gây tạo bao nhiêu ác nghiệp. Do tạo ác nghiệp nên lại bị đọa lạc trong những đường ác xấu hèn khó chịu đựng nổi. Vì thế gọi là Chúng Sanh Trược.

5) Mạng Trược:

Mạng là sanh mạng. Khi tâm lý (tám thức tâm) và thân huyết nhục kết tụ lại, có tri giác, có hoạt động, chẳng hạn như mắt thấy, tai nghe... có hơi thở, có thân nhiệt, có ý thức cùng kết hợp lại thì gọi là Mạng.

Mỗi sanh mạng lấy thức tánh làm chủng tử, do nghiệp lực sở cảm nên có thời hạn tồn tại nhất định. Đó gọi là Mạng Căn hay Thọ Mạng. Do nghiệp lực mạnh hay yếu mà mạng căn sẽ tồn tại dài hoặc ngắn.

Hoặc có thể nói: Thân người do các duyên hội hợp, biến đổi không ngừng trong từng sát na, không cách nào khống chế nổi. Khi nghiệp lực duy trì các duyên ấy hội hợp đã hết, các duyên sẽ chia lìa. Vì thế, mỗi thân mạng chỉ tồn tại trong một thời kỳ nhất định. Do đó, gọi là Thọ Mạng. Thọ mạng có thể bị chấm dứt bất ngờ vì những yếu tố bên ngoài như tai nạn, chiến tranh, thiên tai v.v... nên gọi là Mạng Trược.

Nếu xét trên phương diện tương quan nhân quả thì:

a) Kiến Trược, Phiền Não Trược là Nhân; Chúng Sanh Trược, Mạng Trược là Quả.

b) Từ Kiến Trược đến Mạng Trược là Nhân tạo thành cái Quả là Kiếp Trược.

Pháp môn Niệm Phật chỉ là Tín - Nguyện - Hạnh, chuyên chú chấp trì hồng danh A Di Đà. Một khi đã được vãng sanh thì sẽ chuyển Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển Kiến Trược thành Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành liên hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược thành Vô Lượng Thọ. Pháp môn Niệm Phật có công năng thù thắng, siêu dị như thế nên đức Đại Thánh Thích Ca đại từ, đại bi, đại nguyện, đại lực, chẳng nài chúng sanh bướng bỉnh, ngoan cố, ngu độn khó độ, vẫn ân cần giáo hóa chúng sanh cõi này khiến đều được giải thoát. Vì đức Bổn Sư công hạnh vĩ đại, vì tâm nguyện của Ngài dũng mãnh đáng phục như thế nên sáu phương chư Phật đều cùng khen ngợi, ca tụng đức Thích Ca Mâu Ni Phật là bậc có thể làm được chuyện rất hy hữu, rất khó khăn là thành đạo trong đời ác ngũ trược này.

Chánh kinh:

Vị chư chúng sanh, thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp.

(Vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin này).

Giải:

Ở đây, chữ “chúng sanh” chẳng những chỉ phàm phu mà còn bao gồm tất cả những hàng thánh nhân Nhị Thừa. Chúng sanh trong đời ác ngũ trược, bị vật dục che lấp, tri kiến tối tăm, loạn đục, chẳng thể dễ dàng tiếp nhận pháp môn Niệm Phật rất mực viên đốn này. Thế mà, đức Thích Ca không ai hỏi, tự dũng mãnh giảng ra phương tiện bậc nhất, pháp tu cực nhanh chóng, thẳng tắt, cực thù thắng này.

Chữ “thế gian” chỉ hết thảy hữu tình trong cửu giới (địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a tu la, nhân, thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát).

Pháp môn Niệm Phật gọi là “nan tín” (khó tin) vì những lẽ sau:

1) Chúng sanh sống trong đời ác ngũ trược, đã tập quen thành thói, kiến văn hữu hạn. Đột nhiên nghe nói có thế giới Tây Phương Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm, thù thắng khôn sánh, liền sanh lòng nghi ngờ cho là không có, hay chỉ là phương tiện quyền hiện, ngụ ngôn mà thôi!

2) Có kẻ tuy biết thế giới vô tận, nhưng lại chấp rằng: đã có vô tận thế giới thì vãng sanh thế giới nào chẳng được, cớ gì cứ phải nhất định vãng sanh Cực Lạc?

3) Hoặc khởi nghi: Sa Bà cách Cực Lạc đến cả mười vạn ức cõi Phật, dù có muốn sanh về đấy cũng không cách nào đến được!

4) Hoặc khởi ý tưởng bỉ lậu: thế giới Cực Lạc trang nghiêm, hoa mỹ bậc nhất, mình là chúng sanh ngũ trược, là kẻ phàm phu vô tri, làm sao sống ở đó được?

5) Hoặc tự nghi: Muốn trang nghiêm Tịnh Độ, ắt phải tu hành rất nhiều công hạnh, phải dùng một pháp môn nào rất kỳ lạ, rất đặc biệt mới hòng được vãng sanh về đó, chứ chỉ niệm mấy câu A Di Đà Phật, hoặc chỉ nhất tâm bất loạn từ một ngày đến bảy ngày liền được vãng sanh thì thật không sao tin được nổi!

6) Hoặc ngờ rằng: Hễ muốn thọ thai ắt phải có cha mẹ, thế mà vãng sanh Cực Lạc lại chẳng cần đến cha mẹ, dùng hoa sen để hóa sanh. Thật không sao tin được nổi!

7) Hoặc ngờ rằng: Người sơ tâm học Phật, đa số là tâm dễ bị lui sụt. Những người sanh trong cõi Cực Lạc đều là bậc đại phước đức, đại trí huệ, tu đại hạnh. Thế mà phàm phu chỉ trì danh niệm Phật liền được vãng sanh. Không những thế, sanh cõi ấy rồi, liền chứng ba thứ bất thoái chuyển. Có phải là điều cực kỳ vô lý hay không?

8) Có kẻ vận dụng kiến giải, lý luận chủ quan để phán định cõi Tịnh Độ chẳng hề tồn tại khiến người sơ cơ học Phật hồ nghi bất định.

Do những lẽ trên, chúng sanh trong lục đạo khó lòng tin tưởng pháp môn Niệm Phật này; thậm chí hàng thánh nhân Nhị Thừa cũng khó tránh hoài nghi. Vì thế, trong đời ác ngũ trược, giảng dạy pháp môn Tịnh Độ chẳng khác nào giảng cho những người mù nghe thế nào là đen, thế nào là trắng vậy.

Đức Bổn Sư là bậc chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, bất cuống ngữ (chẳng nói lời lừa dối), bất dị ngữ (chẳng nói lời sai khác). Vì thế, chúng ta phải nên chí thành, tin tưởng sâu xa, trân trọng tiếp nhận pháp môn vô thượng này.

3.2. Bổn Sư kết tán khuyến(đức Bổn Sư kết lại lời khen ngợi để khuyến hóa)

Chánh kinh:

Xá Lợi Phất! Đương tri ngã ư ngũ trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan!

(Xá Lợi Phất! Hãy biết rằng ta ở trong đời ác ngũ trược, làm được việc khó khăn này: đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này, thật là điều rất khó!)

Giải:

Đây là lời đức Thích Ca tự thuật. Trong đoạn trên là lời sáu phương chư Phật khen ngợi công hạnh của đức Bổn Sư. Hai chữ “thậm nan” được dùng để kết lại lời khuyên, diễn tả ý “hành thử nan sự” và “thuyết nan tín chi pháp” ở đoạn trước. Hết thảy chúng sanh trong thế gian khó thể tin tưởng rằng chỉ trì niệm sáu chữ hồng danh A Di Đà Phật là có thể thành Phật. Vì thế, Đức Phật Thích Ca ngay trong đời ác ngũ trược, tu trì Tín - Nguyện - Hạnh, được sanh về Cực Lạc thế giới, thành tựu Phật đạo. Ngài lấy chính thân mình làm gương, tu hạnh khó làm được, ở ngay trong chốn khó thành đạo mà thành đạo, lại còn vì hết thảy chúng sanh tuyên nói pháp môn Niệm Phật rất khó tin được nổi này. Ngài làm được cả hai điều rất khó thực hiện ấy nên bảo là “thậm nan” (rất khó).

4. PHÁP CHÚNG LỄ THOÁI

Chánh kinh:

Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất cập chư tỳ kheo, nhất thiết thế gian: thiên, nhân, A-tu-la đẳng văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.

(Phật nói kinh này xong, Xá Lợi Phất và các tỳ kheo, hết thảy thế gian: trời, người, a tu la v.v... nghe lời Phật dạy, hoan hỷ tin nhận, làm lễ mà lui).

Giải:

Đây chính là đoạn cuối cùng kết thúc kinh này, nhằm hiển thị ý: thính chúng đều được lợi ích, hoan hỷ tin nhận, phụng hành.

“Nhất thiết thế gian”:Hai chữ “nhất thiết” chỉ chung cả khí thế gian (vật chất), hữu tình thế gian (những loài có tình thức, có tri giác) và trí chánh giác thế gian (Phật). Chữ Thế chỉ thời gian, chữ Gian chỉ không gian. Như vậy, “nhất thiết thế gian” hàm ý hết thảy muôn vật trong vũ trụ, tất cả sinh linh, hết thảy chúng sanh trong sáu đường.

Trong từ ngữ “thiên, nhân, a tu la đẳng”, chữ “đẳng” là từ để lược xưng tất những chủng loại quỷ thần chưa được liệt kê cụ thể. Nói đầy đủ ra, gồm có tám bộ đại chúng. Ngoài trời và rồng ra, có sáu chúng như sau:

1) Dạ Xoa(còn phiên là Dược Xoa): Hán dịch là Khinh Tiệp (nhanh nhẹn, nhẹ nhàng), là một loài quỷ thường bay lượn trong không trung, thích ăn nuốt huyết nhục.

2) Càn Thát Bà(còn phiên là Kiện Đạt Phược, Ngạn Đạt Phạ): Hán dịch là Tầm Hương (tìm mùi thơm), là thần âm nhạc trong cõi trời Đao Lợi.

3) A Tu La(còn phiên là A Tố La, A Tố Lạc): Hán dịch là Phi Thiên (chẳng phải trời) hay Vô Đức. Loài này có phước báo, thần thông hơn hẳn loài người. Nam A Tu La hình dáng xấu xí, nữ A Tu La diện mạo vô cùng đẹp đẽ. Do kiếp trước hay tu hạnh bố thí, nhưng tâm hay sân hận, kiêu mạn, nên kiếp này được hưởng phước báo như chư thiên, nhưng thân hình thô kệch, thích đánh nhau với chư thiên.

4) Ca Lâu La (còn phiên là Yết Lỗ Noa): Hán dịch là Kim Sí Điểu (chim cánh vàng), là một loài chim rất to, hai cánh có màu vàng ròng, xòe ra rộng đến ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Loài chim này thường thích bắt rồng để ăn.

5) Khẩn Na La(còn phiên là Khẩn Nại Lạc, Kim Nại Lạc): Hán dịch là Nghi Thần. Hình dáng của họ giống như loài người, nhưng trên đầu có sừng, là thần chuyên chủ việc hát xướng của cõi trời.

6) Ma Hầu La Già(còn phiên là Mạc Hô Lạc Già, Ma Hổ La Nga): Hán dịch là Đại Mãng, thân người đầu rắn, cũng là một loại nhạc thần.

Hiểu theo Lý, Thiên có nghĩa là người sáng suốt, trong sạch, tự tại; Nhân là người khéo nhẫn nhục.

Trong Tự Phần, kinh nêu tên mười sáu vị A La Hán, bốn vị Bồ Tát và chư thiên chúng. Trong phần kết của Lưu Thông Phần, chỉ nêu tên Ngài Xá Lợi Phất và nói đại lược hết thảy thế gian. Đấy là vì trong Tự Phần, nêu tên những vị thánh giả tiêu biểu để phô diễn pháp đức. Trong Lưu Thông Phần, chỉ nhắc lại tên Ngài Xá Lợi Phất là ngụ ý: muốn tiếp thọ pháp này phải là bậc có trí huệ đệ nhất, phải có trí huệ đệ nhất mới có thể lưu truyền, hoằng dương được pháp này.

Thêm nữa, ở đây chỉ nhắc đến tỳ kheo chứ không nói đến ba chúng tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, là vì tỳ kheo chính là chủ thể để duy trì Phật pháp. Nhắc đến tỳ kheo thì đương nhiên là đã bao quát cả tứ chúng. Hiểu sâu hơn, do tỳ kheo là bậc đoạn trừ phiền não, lấy việc khất thực để tạm nuôi dưỡng xác thân, khất pháp để trưởng dưỡng huệ mạng, nên ở đây kinh chỉ nhắc đến tỳ kheo là ngụ ý: người muốn hành trì, hoằng dương pháp môn này phải gắng dụng công tu tập cho nội tâm được yên tịnh (đoạn trừ phiền não, sống bằng hạnh nghiệp thanh tịnh). Tỳ kheo là chánh nhân của A La Hán, La Hán là quả của hạnh tỳ kheo.

Hơn nữa, Ngài Xá Lợi Phất địa vị cao tột trong các vị tỳ kheo, đã chứng quả A La Hán. Do đó, câu “cập chư tỳ kheo” đi liền ngay sau tên Ngài Xá Lợi Phất là nhằm ngụ ý: Quả (A La Hán) tương ứng với nhân (hạnh tỳ kheo).

Hai chữ “hoan hỷ”biểu thị tâm ý vui sướng, mừng rỡ. Vẻ mặt rạng rỡ là Hoan, tâm ý vui sướng là Hỷ. Hết thảy chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, trầm luân trong biển khổ sanh tử, thọ sanh trong khắp sáu đường, xoay vần thọ khổ không biết ngày nào ra. Ngày nay, cơ cảm thành tựu, nhân duyên chín muồi, đức Thế Tôn rủ lòng đại từ, đại bi, không ai hỏi tự giảng ra pháp phương tiện tối thắng, tối giản dị, nhanh chóng, thẳng tắt nhất để vãng sanh Cực Lạc, hưởng thọ mọi điều an lạc, khác nào mắc bệnh trầm kha lâu ngày chợt gặp thuốc hay, hỏi sao chẳng ai không sung sướng, mừng rỡ vô lượng?

“Tín thọ”:không những tin tưởng, ghi nhớ kỹ vào tận đáy lòng, lại còn đúng như pháp miên mật hành trì.

“Tác lễ”: biểu thị lòng thành kính tối cực, đem đảnh đầu là chỗ cao quý nhất trong thân mình áp vào chân Phật để biểu thị lòng tôn kính, biết ơn thâm thiết.

“Nhi khứ”:Khứ là nghe pháp xong, ai nấy lui về chốn mình tự tu tập. Hiểu sâu hơn là nghe được pháp thâm sâu vô lượng, tối cực viên đốn này, bao nhiêu tâm phiền não, tâm kiêu ngạo, tâm vô minh, tâm tham, sân, si đều bỏ xuống hết, đều dứt bặt hết, đều bị trừ khử hết, chỉ còn hướng thẳng đến Tây Phương Thánh Cảnh mà tiến bước.

Không những chỉ tự mình tiến trên con đường giải thoát này mà còn lưu truyền giáo pháp này đến khắp mọi hữu tình có duyên với pháp môn Tịnh Độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com