A DI ĐÀ KINH HỢP GIẢI
Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch
X. CHÁNH THÍCH KINH VĂN(phần giải thích kinh văn)
B. CHÁNH TÔNG PHẦN1. TƯỜNG TRẦN Y CHÁNH TRANG NGHIÊM DĨ KHẢI TÍN(trình bày rõ y báo, chánh báo trang nghiêm nhằm phát khởi lòng tin)
1.1. TỔNG THÍCH CỰC LẠC DANH NGHĨA(giải thích chung về ý nghĩa của danh hiệu Cực Lạc)
1.1.1. ƯỚC CHÚNG SANH CHÁNH BÁO(xét theo chánh báo là chúng sanh mà giải thích tên cõi Cực Lạc)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc.
(Xá Lợi Phất! Cõi ấy vì sao tên là Cực Lạc? Chúng sanh trong cõi ấy không có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi là Cực Lạc).
Giải:
Trong đoạn này, Đức Phật tự hỏi tự đáp về ý nghĩa của tên gọi Cực Lạc. Trước hết, Phật căn cứ trên chánh báo là chúng sanh để giải thích chữ Cực Lạc.
“Kỳ quốc chúng sanh”:Chúng sanh ở đây là những người đã niệm Phật đã vãng sanh về cõi Cực Lạc. Chữ Chúng Sanh dịch từ chữ Phạn “Tát Đỏa” (sattva), dịch theo trường phái Tân dịch là Hữu Tình.
Gọi là “chúng sanh” vì do các nghĩa sau đây:
- Do các duyên hòa hợp mà sanh: Chúng sanh cõi Sa Bà ngoài phải nhờ tứ đại hòa hợp để tạo thành sắc thân, trong phải nhờ bốn pháp Thọ, Tưởng, Hành, Thức tạo thành tâm pháp. Chúng sanh chỉ là giả danh, ngũ uẩn là thật pháp.
- Phải trải qua nhiều kiếp sanh tử nên gọi là “chúng sanh”, nghĩa là thường phải luân hồi trong lục đạo.
Đó là chúng sanh hiểu theo nghĩa thông thường. Gọi người trong cõi Cực Lạc là “chúng sanh” chỉ là thuận theo giả danh mà gọi. Họ là những người lấy liên hoa thanh tịnh làm thân, tâm tịch tịnh, chiếu triệt mọi sự.
Cõi Cực Lạc rốt ráo không có các nỗi khổ nên bảo là “vô hữu chúng khổ”. Chữ “Chúng” nghĩa là chẳng phải chỉ có một thứ. Khổ nghĩa là bức bách, não loạn.
Khổ có nhiều thứ:
a) Tam khổ
- Khổ khổ: thọ thân có sanh, lão, bệnh, tử (thân là khổ quả). Đã thế còn đèo bồng thêm những nỗi khổ như: Oán tắng hội ngộ khổ (khổ vì oán ghét mà phải gặp gỡ), ân ái biệt ly, sở cầu chẳng thỏa, và vô vàn các nỗi khổ khác. Đã khổ lại càng thêm khổ nên gọi là Khổ Khổ.
- Hoại khổ: Sa Bà rốt cục sẽ hoại diệt, không có gì là vĩnh cửu cả, không có sự vui chân thật, dù có chút vui đi nữa, nhưng chẳng phải là rốt ráo. Dù những thứ lạc định cao quý như Ly Sanh Hỷ Lạc, Định Sanh Hỷ Lạc, Ly Hỷ Diệu Lạc cũng chỉ là lạc định hữu lậu. Khi đã hưởng hết phước lạc ấy, chư thiên các trời Tứ Thiền cũng vẫn phải bị đọa lạc. Vì thế gọi là Hoại Khổ.
- Hành khổ: Hành là dời đổi không ngừng, sanh diệt trong mỗi sát na. Các pháp biến đổi vô thường, sanh ra khổ não nên gọi là Hành Khổ. Chẳng hạn như chư thiên thuộc Tứ Không thiên ở Vô Sắc giới, tuy đã chứng đắc tứ không định, thọ tám vạn bốn ngàn đại kiếp, không có thân sắc chất, hưởng niềm vui trong Không định, nhưng khi mất định lực lại bị đọa xuống. Ngay cả trong khi đang hưởng thọ lạc thú Không Định, họ vẫn phải chịu nỗi khổ do các ấm: Thọ, Tưởng, Hành biến đổi không ngừng.
Xét ra, Dục giới đủ tam khổ, Sắc giới thiếu Khổ Khổ, Vô Sắc giới chỉ chịu mỗi Hành Khổ.
b) Bát khổ:
Gồm bốn nỗi khổ nơi thân (sanh, lão, bệnh, tử) và bốn nỗi khổ nơi tâm (khổ vì cầu chẳng được, khổ vì yêu thương phải bị chia lìa, khổ vì oán ghét mà cứ phải gặp gỡ, khổ vì năm ấm lừng lẫy). Khổ vì năm ấm lừng lẫy nghĩa là những phiền não trong thân tâm nung đốt. Bảy nỗi khổ đầu là Biệt, khổ thứ tám là Tổng (bảy nỗi khổ đầu chẳng ngoài phạm vi của Ngũ Uẩn).
Ngoài ra còn có thiên tai, địch họa, nóng, lạnh, mưa dầm, sét đánh, bị rủa xả, nhục mạ, châm chọc, khích bác, bỡn cợt, khinh khi, áp bức... Chẳng thể nào kể cho đủ hết những nỗi khổ trên thế gian này được.
Hễ là người sanh trong cõi Sa Bà này đều phải chịu đựng ba khổ, tám khổ như vậy, trên từ quốc vương dưới đến kẻ tiện dân, không một ai tránh khỏi những nỗi khổ đó. Riêng chúng sanh cõi Cực Lạc vĩnh viễn không phải chịu đựng những nỗi khổ sở đó.
“Đản thọ chư lạc”:Chỉ toàn hưởng những điều vui sướng nên bảo là “đản thọ” (chỉ hưởng). Chẳng phải chỉ có một sự vui nên bảo là “chư lạc”. Cõi Sa Bà này lắm khổ, ít vui, mà muốn có những niềm vui ấy phải lao tâm khổ trí mới tạm đạt được, nhưng chẳng dễ gì duy trì lâu dài. Rốt cục vẫn có ngày bị mất đi. Bởi thế tục ngữ thường bảo: “Cực lạc sanh bi” (vui quá hóa buồn). Trong cõi Cực Lạc, hết thảy thứ thọ dụng và thân tướng mỗi mỗi đều thù thắng trang nghiêm, chẳng hề có chút sự khổ ải nào, luôn có vô lượng điều vui. Vì thế kinh chép: “Đản thọ chư lạc”.
Tạm kể những niềm vui trong cõi Cực Lạc như sau:
a) Tam Lạc:
- Thanh tịnh vô lụy lạc: không có thân thô trược, không có ái dục nhiễm trước; tức là không có Khổ Khổ.
- Y chánh thường nhiên lạc: thọ mạng vô lượng, cõi nước chẳng biến hoại. Đấy chính là không có Hoại Khổ.
- Chánh trí bất động lạc: an trụ vào chân lý bất sanh bất diệt. Đấy chính là không có Hành Khổ.
b) Bát Lạc:
- Liên hoa hóa sanh thân lạc: hóa sanh trong thai sen, không phải chịu cảnh đau khổ nằm trong thai ngục chín tháng mười ngày, tức là không có Sanh Khổ.
- Tướng hảo trang nghiêm lạc: thân kết tụ bằng công đức trang nghiêm, vĩnh viễn không bị biến đổi, hư hoại; tức là không có Lão Khổ.
- Tự tại thanh thái lạc: thân thanh tịnh, vĩnh viễn thoát khỏi đau bệnh khốn khổ. Tức là không có Bệnh Khổ vì tứ đại chẳng điều hòa.
- Thọ mạng vô lượng lạc: tuổi thọ bằng Phật, bất sanh, bất diệt. Tức là không có Tử Khổ, tứ đại phân ly.
- Hân dục như ý lạc: y phục, thức ăn vật dụng hễ nghĩ đến liền có, chẳng phải nhọc công tạo tác, may sắm. Tức là không có Cầu Bất Đắc Khổ.
- Hải chúng thường tụ lạc: các vị thiện nhân thanh tịnh tụ tập nhiều như biển cả, mãi mãi làm bạn bè thân thiết của nhau. Tức là không có Ân Ái Biệt Ly Khổ.
- Thượng thiện câu hội lạc: các bậc thượng thiện nhân yêu kính lẫn nhau, tức là không có Oán Tắng Hội Ngộ Khổ.
- Thân tâm tịch tịnh lạc: thân thanh tịnh, tâm hằng tịch chiếu, tức là không có Ngũ Ấm Xí Thạnh Khổ.
Nói chung: Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, mọi nỗi khổ vui của kiếp người chẳng qua đều do mỗi người tự tạo. Chúng sanh cõi Sa Bà niệm niệm điên đảo nên chiêu cảm y báo, chánh báo đều uế trược. Thế nên mới có Ngũ Trược, Tam Khổ, Bát Khổ, cho đến vô lượng các thứ nghiệp cảm khổ sở. Tâm chúng sanh trong cõi Cực Lạc luôn là chánh niệm, nên chiêu cảm y báo, chánh báo thanh tịnh. Thế nên chỉ có tam lạc, bát lạc cho đến vô lượng các thứ pháp tánh lạc.
Nói như vậy, ắt sẽ có kẻ nạn rằng cõi Cực Lạc có thuộc trong tam giới chăng? Ngài Khuy Cơ bảo: “Do vô dục nên chẳng phải là Dục Giới. Do ở trên đất nên chẳng phải là Sắc Giới. Do có hình tướng nên chẳng phải là Vô Sắc Giới. Trong không uế chủng, ngoài cảm cảnh tịnh, vượt khỏi tứ lưu, vĩnh viễn thoát ngoài tam giới, nên chẳng bị trói buộc trong các giới”.
“Cố danh Cực Lạc”:Đây là câu tiếp ý để kết lại. Ý nói: do vì cõi kia chỉ hưởng các sự vui, không hề có những nỗi khổ, cho nên cõi ấy mới có tên gọi là Cực Lạc.
Nếu dùng tam giới để so sánh thì: ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) chỉ thuần khổ không vui; loài người, a tu la khổ nhiều vui ít; chư thiên tuy vui nhiều, khổ ít, nhưng khó giữ nổi sự vui ấy trường cửu bất hoại. Chỉ mỗi cõi Tây Phương thuần vui không khổ, vĩnh viễn chẳng biến cải, nên đấy là cõi vui rốt ráo. Do đó, chỉ cõi ấy mới xứng gọi là Cực Lạc. Thêm nữa, do so sánh với Khổ nên mới có Lạc. Nếu không có khổ thì dĩ nhiên chỉ thuần các điều vui.
Nhưng nếu ước về Lý mà nói thì nếu đã không có các khổ tức là đã không nhiễm, không nhiễm thì còn gì để so sánh nữa mà nói là tịnh? Tức là tịnh uế tương đồng, khổ lạc bình đẳng. Do toàn là sự vui chân thật như thế nên gọi là Cực Lạc.
Hỏi: Bồ Tát phát tâm lợi người, chẳng chấp lấy niềm vui Niết Bàn, chẳng buông bỏ chúng sanh khổ sở, không có tướng lấy vui, bỏ khổ thì mới xứng hợp với đạo Đại Thừa. Nay người niệm Phật một bề chán khổ ưa vui, bỏ khổ cầu lạc, đấy chẳng phải là đạo phàm phu, Tiểu Thừa hay sao? Nếu vậy sao xứng gọi là pháp môn viên đốn?
Xin đáp: Chưa đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn ắt sẽ chưa thể rộng làm Phật sự cứu độ chúng sanh. Ví như chiếc xe yếu nhỏ chẳng kham chở nặng, chim cánh yếu ớt khó lòng bay cao. Nếu cứ gắng gượng làm, chẳng những vô hiệu quả, chỉ e mình lẫn người đều bị mắc họa! Vì thế, trước cần phải cầu sanh Tịnh Độ, gặp Phật, nghe pháp, chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, đạt đại trí huệ, đại biện tài, đầy đủ các oai lực thần thông, mới hòng trở vào thế giới này cứu tế chúng sanh.
Cứ đó mà suy: Bỏ khổ chính là vì muốn cứu khổ cho chúng sanh, đấy chính là tâm đại bi của Bồ Tát. Cầu vui là vì muốn ban vui cho chúng sanh. Đấy chính là tâm đại từ của Bồ Tát. Như vậy còn dám bảo là hạng Nhị Thừa chỉ biết riêng cầu điều tốt lành cho chính mình nữa chăng?
Nếu hiểu theo Lý, “bỉ độ” là tự tánh, “danh vi Cực Lạc” là chỉ Niết Bàn. “Kỳ quốc chúng sanh” là chỉ người đã chứng đắc tự tánh. “Vô hữu chúng khổ” nghĩa là đã đoạn trừ hết thảy phiền não, “đản thọ chư lạc” là đạt được giải thoát dài lâu. “Cố danh Cực Lạc” nghĩa là: Do đã chứng đắc tự tánh, đã đoạn sạch kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc phiền não, đã đạt được sự giải thoát dài lâu, nên gọi đó là Niết Bàn.
1.1.2. ƯỚC QUỐC ĐỘ Y BÁO(ước theo y báo để giải thích danh hiệu Cực Lạc)
Chánh kinh:
Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu táp vi nhiễu. Thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc.
(Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc bảy tầng lan can, bảy tầng lưới mành, bảy tầng hàng cây, đều là bốn báu, vây quanh khắp cả. Vì thế cõi ấy tên là Cực Lạc).
Giải:
Đoạn kinh này là căn cứ trên phương diện y báo để giải thích danh hiệu Cực Lạc.
“Hựu”có nghĩa là lại. Đoạn trên đã giảng về chánh báo, trong đoạn này, Phật dựa theo y báo để giải thích, nên Ngài lại gọi vị đương cơ là Xá Lợi Phất lần nữa.
“Lan thuẫn”:Những thanh lan can đặt theo chiều ngang gọi là Lan, theo chiều dọc là Thuẫn.
Chữ “la võng”chỉ lưới báu. La có nghĩa là kết lại: dây vàng, chân châu, trăm ngàn thứ báu khác nhau trang nghiêm kết hợp lại thành màng lưới. Khắp bốn phía màng lưới ấy treo các linh báu, quang minh, màu sắc hoa lệ, chói lọi, choáng cả mắt người.
“Hàng thọ”:hàng là bày lớp, sắp theo thứ tự, hàng lối không tạp loạn.
Lan thuẫn là những vật để trang nghiêm lầu gác. Hàng thọ là những thứ để trang hoàng cho mặt đất, la võng là những thứ để trang hoàng trên không trung. Mỗi thứ đều có bảy tầng. Ý nghĩa của “bảy tầng” sẽ được giải thích rõ trong phần sau.
Màu sắc của đất báu cõi Cực Lạc thù thắng khôn sánh. Phía ngoài tất cả các cung điện, lầu gác đều có một tầng lan thuẫn vây quanh. Ngoài mỗi tầng lan thuẫn lại có một tầng hàng cây, phủ lên trên chúng là bảy tầng lưới báu. Phía ngoài hàng cây lại có một tầng lan thuẫn, phía trên lan thuẫn lại che một tầng lưới báu, tầng tầng xen kẽ như thế cho đến bảy tầng. Hoặc một tầng lan thuẫn bao quanh hai hàng cây, phủ bởi hai tầng lưới báu. Lần lượt phối hợp như thế, mỗi mỗi đều trang nghiêm.
Mỗi thứ hàng cây, lưới báu, lan thuẫn đều do bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành nên bảo là “giai thị tứ bảo”(đều là bốn báu). Chẳng hạn như, cây báu thì do thuần bằng một thứ báu, hay hai thứ báu cho đến bốn thứ báu hợp thành. Hoặc rễ vàng, lá bạc, hoa lưu ly, quả pha lê.... Nên biết rằng nói “do bốn báu hiệp thành” đó cũng chỉ là khái lược đó thôi, chứ thật sự thì là do vô lượng trùng trùng vô tận thứ báu hợp thành vậy.
“Châu táp vi nhiễu”là bao quanh trọn khắp bốn phía. Những hàng cây báu, lan thuẫn báu, lưới báu ấy không những chỉ bao bọc quanh các cung điện, lầu gác, mà quanh vườn rừng, ao chuôm v.v... đều có các thứ cây báu, lưới báu, lan thuẫn bao quanh như thế. Chẳng những chỉ nơi Phật, Bồ Tát ở mới trang nghiêm như thế mà bất cứ chỗ nào trong cõi Cực Lạc cũng đều được trang nghiêm tráng lệ như thế. Toàn cõi thế giới đều được trang nghiêm hoa lệ, tuyệt mỹ như thế đó nên bảo là “châu táp vi nhiễu”. Những sự trang nghiêm kỳ ảo như vậy đều do nguyện lực thù thắng chẳng thể nghĩ bàn của đức Từ Phụ A Di Đà tạo thành.
“Thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc”:Đây chính là câu tiếp nối ý trên để kết lại. Ý nói do có những thứ lan thuẫn, lưới báu, cây báu thù thắng trang nghiêm tuyệt mỹ như thế, chẳng gì có thể so sánh nổi, diễn tả nổi, cho nên cõi Phật A Di Đà mới mang tên là Cực Lạc. Trong các kinh Vô Lượng Thọ và Quán kinh đã diễn tả rất chi tiết các sự trang nghiêm ấy. Nên nhớ những điều được tường thuật trong kinh này chỉ mang tính khái lược. Chẳng hạn Vô Lượng Thọ kinh nói có trăm ngàn tầng, kinh này chỉ nói bảy tầng. Quán kinh nói giữa các tầng lưới báu, hiển hiện cung điện trời, cây báu phóng quang, hoa báu phủ kín, tỏa ngát các mùi hương kỳ diệu, chim thiêng dập dìu, hót tiếng hòa nhã... Tuy hai kinh diễn tả chi tiết hay đại lược khác nhau, ý nghĩa về sự trang nghiêm vẫn như nhau không khác.
Xét về Lý:
- “Bảy tầng” biểu thị bảy khoa đạo phẩm (tứ niệm xứ, tứ chánh cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chánh đạo phần). Bảy tầng còn có nghĩa là khi đã vãng sanh về cõi ấy thì chẳng còn phạm phải những lỗi họa do ba nghiệp nơi thân, bốn nghiệp nơi miệng nữa.
- “Bốn báu” ngụ ý bốn đức (Thường, Lạc, Ngã, Tịnh).
- “Lan thuẫn” biểu thị tự tánh về chiều dọc cùng tột ba đời, về chiều ngang trùm khắp mười phương.
- “Bảo võng” (lưới báu) biểu thị tự tánh bao la pháp giới.
- “Hàng thọ” biểu thị tự tánh trưởng dưỡng thiện căn.
- Chữ “bỉ quốc” (cõi ấy) ngầm chỉ tự tánh (tự tánh sẵn đủ hết thảy công đức vô vi, như cõi ấy là cõi an vui bao thứ trang nghiêm).
- “Cực Lạc thế giới” biểu thị cảnh giới của pháp thân (cõi Cực Lạc mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới Pháp Thân hay cảnh giới Niết Bàn cũng mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn).
1.2. BIỆT THỊ Y CHÁNH TRANG NGHIÊM(giảng riêng về sự trang nghiêm nơi y báo, chánh báo)
1.2.1. Y Báo trang nghiêm(sự trang nghiêm nơi y báo)
1.2.1.1. Trì các hàng thọ(ao, gác, hàng cây)
1.2.1.1.1. Chánh trần(phần tường thuật)
Chánh kinh:
Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, hữu thất bảo trì; bát công đức thủy sung mãn kỳ trung. Trì để thuần dĩ kim sa bố địa.
(Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu. Nước tám công đức đầy ắp trong đó. Đáy ao thuần dùng cát vàng để phủ).
Giải:
Trong phần trước, đức Thế Tôn đã giải thích về danh hiệu Cực Lạc dựa trên hai phương diện y báo và chánh báo. Trong phần này, Phật giảng rõ hơn về những cảnh thọ dụng trang nghiêm của y báo, chánh báo.
“Thất bảo trì”: Nói “thất bảo trì” để phân biệt với những cái ao chỉ do đất đá tạo thành trong cõi Sa Bà này. Ao cõi Cực Lạc do bảy thứ báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não hợp thành nên gọi là “thất bảo trì” (ao bằng bảy báu).
Thật ra, theo kinh Vô Lượng Thọ, các ao ấy hoặc thuần bằng một chất báu tạo thành, hoặc do hai, ba cho đến bảy thứ báu xen lẫn nhau tạo thành, giống như những hàng cây báu vậy. Kích thước mỗi cạnh của ao ấy từ bốn mươi, năm mươi dặm tăng dần cho đến tám vạn bốn ngàn dặm, to như biển cả. Kinh Thụy Ứng Bản Khởi chép: “Các ao ấy rộng hẹp, sâu cạn từ mười do tuần cho đến trăm ngàn do tuần. Bên bờ ao có những cây chiên đàn, hoa, lá rũ xuống, mùi thơm ngào ngạt”. Do trong kinh này Phật chỉ lược giảng nên không nêu rõ từng chi tiết như thế.
Những ao báu ấy chính là nơi thai sen sẽ nở để những người niệm Phật được sanh vào Cực Lạc, mà cũng là nơi để người cõi Cực Lạc tắm gội trong ấy. Có vô lượng vô số các ao như vậy.
Nước trong những ao ấy có đủ tám công đức: Trừng tịnh (lắng trong, tinh khiết); thanh lãnh (trong trẻo, mát lạnh); cam mỹ (ngon ngọt), khinh nhuyễn (nhẹ nhàng, mềm mại); nhuận trạch (tươi tắn, thấm nhuần), an hòa (êm ả, không chảy xiết, gầm réo); trừ cơ khát (uống vào hết đói, khát); trưởng dưỡng thiện căn (tăng trưởng, nảy nở các căn lành).
“Sung mãn kỳ trung”:Sung là sung túc, nghĩa là chẳng bị khô cạn. Mãn là đầy ắp, nhưng không dâng tràn ngập như nước trong cõi thế gian này. Chữ “kỳ trung” ý nói: trong các ao bảy báu như vừa nói. Thứ nước có đủ tám công đức ấy tuyệt chẳng thể thấy trong cõi Sa Bà này, chỉ trong cõi Cực Lạc mới có thứ nước tám công đức luôn đầy ắp trong các ao bảy báu, chưa từng khô cạn, cũng chẳng hề gây ngập lụt, chảy tràn bờ.
Nước trong cõi Sa Bà này, hễ khuấy liền sủi bọt, chảy qua chỗ bẩn liền dơ, chẳng thường “trừng tịnh”. Ánh nắng hun liền nóng, lửa nấu liền sôi nên chẳng thường “thanh lãnh”. Hễ mưa lớn ắt ngập lụt, hễ chảy xiết thì hung hiểm nên chẳng thường “an hòa”. Hễ lẫn lộn tạp chất thì bị đổi vị, đổi màu, gặp lúc khô hạn liền khô cạn nên chẳng thường “nhuận trạch”. Hễ gần biển thì mặn, tù đọng lâu ngày sẽ trở thành hôi thối nên chẳng thường “cam mỹ”. Gặp chỗ úng tắc liền biến thành tù đọng, gặp lạnh bị đóng băng nên chẳng thường “khinh nhuyễn”. Uống nhiều nước sẽ bị trướng bụng, ngâm nước nhiều sẽ bị bệnh nên chẳng thường “trừ cơ khát”. Lại chẳng thể tăng trưởng thiện căn.
Nước trong cõi Cực Lạc có đủ tám đức mầu nhiệm, dù qua bao nhiêu kiếp, tánh đức của nước ấy chẳng hề biến đổi mảy may. Bởi những lẽ đó, nước trong cõi Cực Lạc được xưng tụng là “công đức thủy”.
Nên biết rằng: kinh A Di Đà nói nước trong cõi Cực Lạc có tám đức, chứ thật ra, nó còn có nhiều đức tánh mỹ diệu thù thắng khác, xin tạm kể ba đức theo kinh Vô Lượng Thọ:
a) Nước có thể tùy thuận theo ý muốn: “Nước tám công đức lặng trong đầy ắp, thanh tịnh, thơm sạch. Các thượng thiện nhân vào ao bảy báu để tắm gội cho thân thể trong sạch, ý muốn nước ngập đến chân, muốn ngập đến gối, đến eo, đến nách, đến cổ và rưới lên thân, thảy đều như ý. Muốn nước rút xuống, nước liền rút xuống. Điều hòa, lạnh, ấm không gì là chẳng vừa ý, mở mang tinh thần, sung sướng tấm thân, gột rửa cấu nhơ trong tâm. [Nước] trong sáng, lặng sạch, sạch dường như không có hình chất vậy”.
b) Nước có khả năng thuyết pháp: “Nước chảy không chậm, không nhanh, an tường, thong thả chảy đi, sóng vỗ vang ra vô lượng tiếng mầu nhiệm tự nhiên: tiếng niệm Phật, hoặc tiếng niệm Pháp, hoặc tiếng niệm Tăng, tiếng tịch tịnh, tiếng Vô Ngã, tiếng Ba La Mật, cho đến các tiếng mầu nhiệm, xứng theo lòng muốn, không ai nghe mà không phát tâm thanh tịnh, thành thục thiện căn, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển vô thượng Bồ Đề”.
c) Tắm xong đạo pháp sẽ tăng tiến.
Nước là loài vô tình mà có được những công năng như thế thì thật là điều chẳng thể nghĩ bàn vậy!
“Trì để thuần dĩ kim sa bố địa”:dùng thuần cát làm bằng mạt vàng để phủ đáy ao. Đây cũng là nói vắn tắt; vì như kinh Đại Bổn chép: “Có ao thuần bằng một chất báu, cát phủ đáy ao cũng thuần bằng một chất báu. Ao bằng vàng ròng dùng bạc trắng làm cát phủ đáy. Ao thủy tinh dùng lưu ly làm cát phủ đáy... Ao bằng hai chất báu tạo thành, cát phủ đáy ao cũng bằng hai chất báu, cho đến bảy báu cũng giống như thế”. Quán kinh cũng chép:“Vàng ròng làm kênh, phía dưới đều dùng kim cang nhiều màu để làm cát phủ đáy”.
Xét về Lý:
- Thất bảo tượng trưng cho Thất Thánh Tài (Tín, Giới, Văn, Xả, Huệ, Tàm, Quý. Năm thứ đầu như của báu, hai thứ sau như người gìn giữ của cải. Chúng sanh do chẳng giữ gìn nên cực bần cùng. Thánh nhân do giữ gìn những đức tính ấy nên chúng được gọi là Thánh Tài).
- Nước tám công đức biểu trưng Bát Thánh Đạo.
- Đáy ao trải cát vàng biểu thị Chân Như triệt để bất biến.
Chánh kinh:
Tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não nhi nghiêm sức chi.
(Bốn phía có thềm bậc, đường đi do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên lại có lầu, gác, cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng).
Giải:
“Tứ biên giai đạo”:Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía là ý nghĩa của chữ Tứ. Biên là bờ ao. Chỗ có tầng, cấp gọi là Giai. Chỗ bằng phẳng để đi từ chỗ này qua chỗ khác thì gọi là Đạo. Bên bờ ao có cấp bậc để dễ lên xuống, có đường để đi qua lại. Dù là thềm bậc hay lối đi đều bằng bốn báu gộp lại thành. Những chất báu ấy hoặc xen kẽ nhau, hoặc dùng thuần một thứ nối tiếp nhau.
“Thượng hữu lâu các”: Chữ “thượng” có ba cách hiểu: phía trên ao báu, phía trên chỗ thềm bậc, lối đi, và trên hư không. Nhà có nhiều tầng gọi là Lâu; lầu cao gọi là Các.
“Diệc”có nghĩa là cũng.
“Dĩ”là dùng.
“Nghiêm sức”nghĩa là trang hoàng hết sức trang nghiêm, hoa lệ.
Ý nói: Không những riêng ao bằng bảy báu, lối đi, thềm bậc dùng bốn báu ghép thành, mà ngay cả những lầu đài, đền gác cũng dùng vàng, bạc v.v... bảy thứ báu để trang hoàng, đủ mọi màu sắc, hình dáng. Những lầu gác dùng làm chỗ cư ngụ cho các bậc thượng thiện nhân, hoặc dùng để ngoạn cảnh, để nghỉ ngơi, hoặc dùng làm nơi thuyết pháp. Người vãng sanh cõi Cực Lạc sẽ gởi chất trong hoa sen nơi ao bốn báu. Khi hoa sen nở, sẽ theo các thềm bậc, đường đi lên bờ, vào ở trong các lầu gác báu, rồi gia nhập pháp hội, gặp Phật, nghe pháp.
Kinh Đại Bổn nói chi tiết hơn như sau: “Giảng đường, tinh xá, cung điện, lầu, gác của Đức Phật A Di Đà đều bằng bảy báu, hơn hẳn chỗ ở của vị Thiên Đế cõi trời Lục Dục đây cả trăm ngàn vạn lần. Thậm chí các cung điện, lầu gác hình sắc tương xứng, cao thấp, lớn, nhỏ, bằng một thứ báu, hai thứ báu cho đến vô lượng thứ báu”.
Quán kinh cũng chép: “Vàng ròng [trải] trên mặt đất, trong mỗi một thứ báu có năm trăm ánh sáng nhiều màu. Ánh sáng ấy [hình dáng] như hoa, hợp thành đài quang minh, lầu gác ngàn vạn, do trăm thứ báu hợp thành.... Hai bên lầu gác đều có lọng hoa, vô lượng nhạc khí, tám thứ gió mát (gió từ tám phương) lay động các nhạc khí ấy diễn nói các âm thanhKhổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã”.
Trong kinh đây chỉ nói đại lược là “bảy báu”, chứ không thuật đủ các thứ báu.
“Kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, xích châu, mã não”:
Vàng, bạc là hai thứ thường thấy trong cõi này nên không cần giải thích.
* Lưu Ly là tiếng Phạn, nói cho đủ là Phệ Lưu Ly (Vairudya), Hán dịch là Thanh Sắc Bảo (chất báu có màu xanh nước biển), vì nó có màu xanh biếc. Còn dịch là Bất Viễn Sơn vì ngọn núi sanh ra chất báu này không xa thành Ba La Nại cho lắm, nên được mang tên là Bất Viễn Sơn. Theo Ngài Khuy Cơ, Lưu Ly có đến năm màu khác nhau.
* Pha Lê cũng là tiếng Phạn, nói cho đủ là Tốt Pha Chí Ca (sphatika), đôi chỗ còn phiên là Phệ Chi Ca hay Phả Chi Ca. Tàu dịch là Thủy Ngọc vì trông nó từa tựa như thủy tinh; có ba màu: đỏ, trắng, xanh dương.
* Xa Cừ nói cho đủ là Mâu Sa Lạc Yết Lạp Bà (musàragalva), Hán dịch là Thanh Bạch Gián Sắc (màu xanh, trắng xen kẽ) hoặc Thanh Bạch Sắc Bảo, dựa trên màu sắc mà đặt tên. Lại còn gọi là Đại Bối vì lấy từ vỏ một loại trai lớn trong biển. Hình dạng của nó giống như cái niềng bánh xe.
* Xích Châu: do một loài trùng có màu đỏ sanh ra. Do sắc nó đỏ tươi nên có tên như thế.
* Mã Não: tiếng Phạn là A Thấp Ma Yết Lạp Bà (Ashmagarbha), dịch là Mã Não Bảo, màu chất này giống như màu óc con ngựa nên mới đặt tên như thế. Lại còn dịch là Chử Tạng. Mã Não được phân biệt ra làm hai loại: Sơn Mã Não và Thủy Mã Não. Có thuyết nói Mã Não chính là một loại Thạch Anh (quartz) kết tinh.
Trong thất bảo, vì sao lại lấy Vàng làm đầu? Vì có bốn nghĩa:
- Thể chất của vàng rất kiên cố (không bị biến chất dù có giồi, mài, nung, đập, chôn vùi chẳng hư nát).
- Tánh vàng lại mềm mại.
- Màu vàng tỏa sắc rực rỡ.
- Vàng được coi là rất giá trị.
Bảy thứ báu vừa kể trên chỉ là mượn danh hiệu cõi này để tạm diễn tả, chứ mỗi thứ báu đều thù thắng, siêu việt hơn các thứ báu cùng tên trong cõi này đến trăm ngàn vạn lần.
Có kẻ bắt bẻ: “Vua Nghiêu ở chòi tranh, vua Vũ tránh nơi cung thất, Nhan Hồi ngụ trong xóm nghèo. Cổ thánh tiên hiền chỉ quý ở đức, chẳng trọng xa hoa, sao riêng Phật, thánh cõi Tây Phương lại chẳng làm như thế? Đấy có phải là tham ưa cảnh hoa lệ, vọng cầu hướng ngoại đó chăng?”
Xin đáp: Ôi! Cật vấn như vậy là vẫn chưa hiểu thấu bi tâm của đấng A Di Đà nên mới nghi như vậy! Phải biết rằng: Phật vì lợi sanh thương vật, mở ra phương tiện lớn lao hòng thích hợp với mọi cơ nghi, dùng đại hạnh nguyện vô lượng công đức để trang nghiêm cõi Tịnh Độ Cực Lạc ngõ hầu chúng sanh biết khổ, cầu vui, chán uế ưa tịnh, phát tâm tu hành niệm Phật để rồi rốt ráo sẽ thành Phật. Đến như tự tánh vốn sẵn đủ hằng sa công đức, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, thì dù thất bảo trang nghiêm vẫn chưa đủ là vi diệu thù thắng nữa là!
Làm như vậy chẳng qua là “trước dùng dục để lôi kéo, sau sẽ khiến cho nhập Phật trí”. Đấy chính là một diệu pháp phương tiện để dẫn độ chúng sanh. Liên Trì đại sư từng bảo: “Ví như đang ở trong cõi đói lạnh, chợt nghe có chốn no ấm, đang ở lâu trong chốn tối tăm, chợt thấy cảnh quang minh, ai mà không thân tâm hớn hở, mau mau bỏ cái cũ chọn lấy cái mới cơ chứ! Nếu được vãng sanh, rốt cục sẽ được giải thoát. Hãy nên biết phương tiện tiếp dẫn như thế đó!”
Xét về Lý:
- “Tứ biên giai đạo” biểu thị giảng dạy bốn phương pháp niệm Phật.
- “Lầu gác” biểu thị chân trí an trụ trong lý Vô Sanh.
Chánh kinh:
Trì trung liên hoa đại như xa luân. Thanh sắc thanh quang; hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang; bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết.
(Hoa sen trong ao to như bánh xe. Màu xanh, ánh sáng xanh. Màu vàng ánh sáng vàng. Màu đỏ ánh sáng đỏ. Màu trắng ánh sáng trắng, vi diệu hương khiết).
Giải:
Ao báu là chỗ để thác sanh vào Cực Lạc. Hoa sen là nơi để gởi chất. Hoa sen hàm nghĩa ly cấu thanh tịnh. Chẳng những các ao do bảy báu tạo thành, mà những hoa sen mọc trong ấy cũng do thất bảo tạo thành: rễ bám trong cát vàng, hoa xòe trên mặt nước tám công đức, quang minh, màu sắc chói ngời, vi diệu thơm sạch, khác hẳn với hoa sen nảy từ chốn bùn lầy, nước đọng trong cõi Sa Bà.
Câu “đại như xa luân”diễn tả kích thước, hình dáng hoa sen, ý nói: hoa sen trong ao báu cõi Cực Lạc to như bánh xe vàng của Chuyển Luân Thánh Vương thường dùng (bánh xe vàng của Chuyển Luân Thánh Vương to một do tuần. Chuyển Luân Thánh Vương tức là Kim Luân Vương, đứng đầu trong bốn loại Luân Vương, cai trị bốn đại châu. Thấp nhất là Thiết Luân Vương chỉ cai trị một châu Nam Thiệm Bộ).
Nói “to bằng bánh xe” là chỉ nói về hoa sen có kích thước nhỏ nhất. Quán Kinh chép: “Trong mỗi một ao, có sáu mươi ức hoa sen bằng bảy báu tròn trịa, to đúng mười một do tuần”. Do thân tướng của chúng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư có khác biệt nên hoa sen phải to nhỏ tương xứng, chứ không thể có kích thước nhất định được. Sở dĩ có thân tướng khác biệt là do trong lúc tu nhân vãng sanh, có chuyên gắng hay lười nhác sai khác, nên chiêu cảm được thân thù thắng hay kém cỏi khác biệt.
Thêm nữa, “xa luân” chẳng những dùng để mô tả hình dạng của hoa mà còn nhằm để biểu thị phẩm đức của hoa. Bánh xe (luân) có ba công năng: vận chuyển, nghiến nát, phi hành:
- Bánh xe có công năng chuyên chở. Cũng thế, hoa sen cõi Cực Lạc có công năng chuyên chở người niệm Phật trong mười phương thoát khỏi biển khổ sanh tử, sanh về Cực Lạc, chuyển phàm thành thánh.
- Bánh xe lăn đến đâu, sẽ nghiến nát vật gì nó lăn qua. Cũng vậy, hoa sen cõi Cực Lạc là chốn để người niệm Phật gởi chất, một khi đã được vãng sanh cõi Cực Lạc thì dĩ nhiên phiền não đã bị nghiến nát.
- Bánh xe vàng của Luân vương có thể bay đi mười phương. Cũng vậy, hoa sen cõi Cực Lạc có thể bay đến mười phương tiếp dẫn người niệm Phật vãng sanh cõi Cực Lạc. Đấy chính là ý nghĩa “phi hành”.
Bốn câu “thanh sắc thanh quang...” diễn tả sự thù thắng của những hoa sen đó. Hoa nào tỏa quang minh màu đó, khác nào châu ngọc lóng lánh, ánh sáng rực rỡ. Hoa sen cõi Cực Lạc do thất bảo hợp thành chói lọi khôn sánh, nên mới chói rực quang minh.
Hoa sen màu xanh gọi là Ưu Bát La (Utpala), hoa vàng tiếng Phạn là Câu Vật Đầu (Kumuda), hoa sen đỏ là Bát Đầu Ma (Padma), hoa sen trắng là Phân Đà Lợi (Pundarika).
Do thân của những vị được vãng sanh cõi Cực Lạc có quang minh nên thai sen cũng phát quang minh rực rỡ. Thật ra, những hoa sen ấy hoặc chỉ có một màu, hoặc có nhiều màu, vô lượng quang minh, màu sắc.
Ở đây chỉ nói bốn màu là nói giản lược. Kinh Vô Lượng Thọ nói rộng hơn nhưng cũng chỉ đề cập đến vài màu như xanh, vàng, đỏ, trắng, huyền, son, tía v.v... Quang minh chói ngời màu sắc, màu sắc rực rỡ tỏa sáng khác nào mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi mỗi hoa lại phóng ra ba trăm sáu mươi ngàn ức quang minh v.v... Như vậy, mỗi hoa sen có vô lượng màu sắc, mỗi màu lại chiếu rọi ra vô tận quang minh. Quang minh, màu sắc trùng trùng phản chiếu lẫn nhau. Mỗi quang minh hàm chứa vô lượng màu, mỗi quang minh lại dung hàm vô lượng quang minh. Chẳng thể suy lường, hình dung được nổi!
Những hoa sen ấy vừa để trang nghiêm cõi Cực Lạc, vừa làm thai bào cho những người được vãng sanh Cực Lạc. Do chúng sanh vãng sanh Cực Lạc đã đoạn dâm dục nên chẳng còn phải thọ thai do cha mẹ sanh thành, nên đều là liên hoa hóa sanh. Chúng sanh trong mười phương, hễ nghe đến pháp môn Niệm Phật mà tín nguyện phụng hành thì trong ao bảy báu nơi Cực Lạc liền nảy sanh một đóa sen báu, có ghi tên người ấy. Hoa sen ấy thuận theo niệm lực mà nảy nở, tùy theo công hạnh của người niệm Phật sẽ thù thắng hay kém cỏi. Nếu người niệm Phật chuyên gắng, nỗ lực thì hoa sen ngày càng tươi tốt, xinh đẹp bội thường. Nếu lười biếng, buông lung hoặc giữa đường buông bỏ thì hoa sen sẽ ngày một tàn tạ, thậm chí héo rũ, rồi biến mất.
Nếu một đời tinh tấn, chuyên tinh niệm Phật thì lúc lâm chung liền được vãng sanh, thọ sanh trong hoa sen báu thanh tịnh. Như vậy gọi là “liên hoa hóa sanh”. Khi hoa nở sẽ gặp Phật, liền ngộ Vô Sanh. Theo Quán kinh, tùy theo công đức tu hành sâu cạn, hành nhân sẽ vãng sanh trong chín phẩm sen, hoa sẽ nở chậm hay lâu. Cũng vì tất cả hành nhân vãng sanh Cực Lạc sẽ thọ sanh trong hoa sen nên Cực Lạc thường được gọi là Liên Bang, pháp môn Tịnh Độ được gọi là Liên Tông, người đồng tu Tịnh nghiệp gọi là Liên Hữu.
Hỏi: Người niệm Phật trong mười phương thế giới rất đông, làm sao có đủ hoa sen trong ao bảy báu để họ gởi thân được?
Đáp: Phải nhớ là cõi Cực Lạc do công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà tạo thành, nên chẳng giống như cõi thế gian này có sắc chất chướng ngại. Khác nào trăm sông, ngàn suối, vạn khe đổ vào biển cả, biển cả vẫn chẳng dâng trào. Muôn vạn hình bóng soi vào trong gương, gương vẫn chẳng chướng ngại. Ao báu chốn Cực Lạc khác nào biển cả, như gương. Người cầu được vãng sanh khác nào trăm sông, vạn suối, giống như muôn hình ảnh mà thôi. Vậy thì còn lo chi sẽ không có chỗ, sẽ bị chướng ngại lẫn nhau nữa ư!
Câu “vi diệu hương khiết”lược tả bốn đức của hoa sen. Hoa sen trong cõi Sa Bà này có đủ bốn đức:
- So với các hoa khác, hoa sen tinh tế hơn, xinh đẹp, cao quý, đài các, nhưng không diêm dúa. Đó là Vi.
- Trong một đóa hoa sen có đủ cả nhân lẫn quả. Các loài hoa khác phải nở hoa rồi mới kết quả. Hoa sen thì gương sen chính là quả. Hoa vừa ra búp đã sẵn có quả, thật là chẳng thể nghĩ bàn. Đấy chính là ý nghĩa của chữ Diệu.
- Hoa sen có mùi thơm u nhã, dịu dàng, khiến tinh thần sảng khoái, tâm tưởng nghĩ đến chuyện thanh cao. Đó chính là ý nghĩa của chữ Hương.
- Hoa sen mọc lên từ bùn nhưng chẳng nhuốm bùn. Đấy chính là Khiết.
Thế nhưng hoa sen cõi Cực Lạc còn thù thắng vượt trội hơn nữa. Màu sắc, quang minh đã vượt xa chốn khác, mùi hương của hoa sen cõi Cực Lạc càng đặc biệt diệu kỳ hơn nữa.
Hoa sen cõi Cực Lạc có những đặc tính sau:
- Do thất bảo hợp thành, không chốn nào được như thế, nên bảo là Vi.
- Màu sắc đã vô lượng, lại còn có thể phóng quang, nên bảo là Diệu.
- Mùi hương thơm ngát lạ lùng, bốn mùa chẳng biến đổi, nên bảo là Hương.
- Phát sanh từ nước có đủ tám công đức, trọn không bị nhiễm bẩn, nên bảo là Tịnh.
Hơn nữa, quang minh, màu sắc dung nhiếp lẫn nhau, kích thước không hạn định, nên bảo là Vi. Là chỗ gởi thân cho người vãng sanh, dẫu nhiều vô lượng vẫn không trở ngại lẫn nhau, nên bảo là Diệu. Hương thơm nhiệm mầu ngào ngạt, mùi thơm thanh khiết lan tỏa khắp chốn, nên bảo là Hương. Không hề diêm dúa, thể chất thanh tịnh, nên gọi là Khiết.
Lại nữa, có hoa nhưng không có sắc chất, nên bảo là Vi. Nhiều hoa nhưng không hề chướng ngại lẫn nhau, nên bảo là Diệu. Tỏa mùi thơm ngào ngạt khắp chốn, nên bảo là Hương. Chẳng nhiễm trần cấu vì không có sắc chất, tinh khiết bậc nhất, nên bảo là Khiết.
Ngài Nam Đình Hòa Thượng và pháp sư Văn Châu lại giảng ý nghĩa bốn chữ “vi diệu hương khiết” như sau:
“Chữ Vi có bốn nghĩa:
a) U vi (ẩn kín): Do rễ hoa ngập chìm dưới đáy ao, mắt chẳng thấy được, nên bảo là “u vi”.
b) Ẩn vi: Chẳng sanh trưởng trên cao nguyên hay trên đất bằng, chẳng đua chen hương sắc cùng các loại hoa khác, nên bảo là “ẩn vi”.
c) Tế vi: Mỗi cánh sen có tám vạn bốn ngàn đường vân giống như nét vẽ của trời, nên bảo là “tế vi”.
d) Tinh vi: do thất bảo hợp thành, trân kỳ, lộng lẫy, cao sang, nên bảo là “tinh vi”.
Với các ý nghĩa u vi, ẩn vi thì hoa sen cõi này cũng có, riêng tế vi và tinh vi chỉ mỗi hoa sen Cực Lạc mới có.
Chữ Diệu có mười hai nghĩa:
a) Trổ hoa liền có quả, chẳng phải đợi đến khi hoa tàn mới kết quả, đấy chính là “nhân quả đồng thời diệu”.
b) Nhiễm mà chẳng nhiễm, chẳng nhiễm mà nhiễm, đấy là “cấu tịnh song phi diệu” (dơ sạch cùng mất).
c) Cánh hoa bọc lấy hạt, hạt nằm la liệt giữa gương hoa. Đấy chính là “tổng biệt tề chương diệu” (chung và riêng cùng phô bày).
d) Sáng xòe ra, đêm khép lại, đấy chính là “ẩn hiển tùy nghi diệu”.
e) Hoa lớn có trăm ngàn vạn đóa hoa sen vây quanh làm quyến thuộc. Đấy chính là “chủ bạn tương tham diệu” (chủ và bạn quây quần, ảnh hưởng lẫn nhau)
f) Ba phẩm thượng, trung, hạ; mỗi phẩm lại chia thành ba phẩm nữa. Tùy theo tu nhân trong đời trước thế nào sẽ thọ sanh trong phẩm hoa ấy, chẳng lẫn lộn. Đấy chính là “thắng liệt phân minh diệu” (hơn kém rạch ròi).
g) Lớn từ một do tuần đến trăm ngàn vạn ức do tuần, đấy chính là “tiểu đại vô định diệu” (lớn nhỏ không nhất định).
h) Chẳng hề có cảnh Xuân nở Thu tàn, lúc nào cũng đẹp đẽ như mới. Đấychính là “hàn thử bất thiên diệu” (lạnh nóng chẳng thay đổi).
i) Thuần sắc, thuần quang, tạp sắc, tạp quang, đấy chính là “thái tố giao huy diệu” (hoa nhiều màu lẫn hoa thuần một màu chen nhau tỏa sáng).
j) Hoa sen sanh trưởng từ Cực Lạc nhưng thường có thể hiện đến cõi này để tiếp đón người sẽ được vãng sanh. Đấy chính là “động tịnh nhất nguyên diệu” (động và tịnh cùng một nguồn).
k) Chư Phật và thánh chúng ngồi xếp bằng trên hoa. Chúng sanh niệm Phật, gởi thân trong hoa. Đấy chính là “phàm thánh kiêm thành diệu” (phàm lẫn thánh cùng thành tựu).
l) Người phương này niệm Phật, hoa liền đề tên. Siêng, nhác vừa khác, tươi héo liền phân, đấy chính là “cảm ứng minh phù diệu” (sự cảm ứngngầm tương hợp).
Về Hương thì chia thành “uế trung hương” và “hương trung hương”:
- Hoa sen cõi Sa Bà đây sanh trưởng từ bùn nhơ nhưng chẳng nhiễm, mùi hương thanh đạm, u nhã, đấy chính là Uế Trung Hương.
- Hoa sen cõi Cực Lạc, quang minh lẫn màu sắc đều khác lạ, mùi hương cành khác, ngào ngạt, nồng nàn, vượt hơn hẳn hết thảy các mùi hương khác. Đấy chính là Hương Trung Hương.
Về chữ Khiết cũng chia ra làm Cấu Trung Khiết và Khiết Trung Khiết:
- Hoa sen cõi này mọc lên từ bùn nhưng chẳng nhơ, rạng rỡ thanh tịnh. Đấy chính là Cấu Trung Khiết (sạch trong nhơ).
- Hoa sen cõi Cực Lạc bắt rễ từ cát vàng, sanh từ nước tám công đức, thể chất là diệu bảo, khác với những loài hoa cỏ tầm thường, khiết tịnh không gìsánh nổi. Đấy chính là Khiết Trung Khiết”.
Xét về Lý:
“Hoa sen” biểu trưng tự tánh thanh tịnh; “phóng quang” biểu trưng bản thể của tự tánh tịch tịnh nhưng thường chiếu. Hoa sen có bốn màu:
- Màu xanh thuộc hành Mộc, thuộc về mùa Xuân. Mùa Xuân tươi non khởi đầu một năm, biểu thị tâm là gốc của vạn vật, tức là Pháp Thân đức. Xuân về, hết thảy cỏ cây đâm chồi, nẩy lộc, biểu trưng trí huệ có thể chiếu soi hết thảy chân lý, đó chính là Bát Nhã đức. Mùa Xuân thời tiết ôn hòa, ai nấy đều ưa thích. Đó chính là ý nghĩa an lạc, hay nói cách khác là Giải Thoát đức.
- Màu vàng thuộc hành Thổ, nằm ở vị trí trung ương, thuộc về chủ vị. Như vậy, màu vàng biểu thị Trung Đạo hay chủ vị; biểu thị tâm là gốc của vạn pháp. Đấy chính là Pháp Thân đức. Màu vàng là màu của đất, mà đất có công năng sanh trưởng vạn vật, biểu thị Chân Trí chiếu soi hết thảy lý, tức là Bát Nhã đức. Đất là nơi mọi người chúng ta an trụ, biểu thị sự an trụ trong Niết Bàn, đấy chính là Giải Thoát đức.
- Màu đỏ thuộc hành Hỏa ở phương Nam. Mùa Hạ là lúc vạn vật phát triển sung mãn nhất, biểu thị tự tánh có vô lượng công đức thù thắng, đấy chính là Pháp Thân đức. Hỏa (lửa) có quang minh, biểu thị tự tánh có đủ hết thảy quang minh trí huệ; đấy chính là Bát Nhã đức. Lửa cháy tiêu hết thảy vạn vật, biểu thị trí huệ có công năng đoạn hoặc, tức là Giải Thoát đức.
- Màu trắng: thuộc về hành Kim ở Tây phương, tương ứng với mùa Thu. Bản chất của Kim là kiên cố, biểu thị tự tánh thường trụ bất biến. Đấy chính là Pháp Thân đức. Sắc của nó chói lọi, biểu thị tự tánh có đủ hết thảy trí, đấy chính là Bát Nhã đức. Tánh của hành Kim nhu nhuyễn, biểu thị tự tánh an lạc tự tại, tức là Giải Thoát đức.
Thêm nữa, sắc trắng biểu thị Pháp Thân thanh tịnh, khí Thu dìu dịu biểu thị tự tánh tịch diệt, trời Thu mát mẻ, trong trẻo biểu thị tự tánh an hòa.
Ngài Khuy Cơ cho rằng bốn màu sắc của hoa sen nói ở đây nhằm biểu thị người sanh trong Tịnh Độ thành tựu bốn điều: tâm không siểm khúc, chẳng nói lời hư dối, chứng tứ Niết Bàn, đắc tứ trí. Pháp sư Đạo Nguyên lại cho rằng bốn loại hoa sen nhằm tượng trưng cho bốn mươi địa vị trong Chánh Định Tụ tức là: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng và Thập Địa.
Hoa sen biểu thị pháp thân ly cấu thanh tịnh. “Đại như xa luân” (to như bánh xe) biểu thị Báo Thân viên mãn trang nghiêm. Các quang minh biểu thị tự tánh có đủ vô lượng quang minh. “Vi diệu hương khiết” biểu thị tứ đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
1.2.1.1.2. Kết thành
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị, công đức trang nghiêm.
(Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế đấy).
Giải:
Đấy chính là đoạn văn để kết lại.
Đại lược, câu văn trên hiển thị ý: Tất cả những cảnh sắc thù thắng trong cõi Cực Lạc như thế đó đều là do đại bi, đại nguyện, đại hạnh, vô lượng của Phật Di Đà cảm thành. Nguyện hạnh, công đức là nhân, trang nghiêm là quả. Có nhân như thế ắt phải có quả như thế!
“Thành tựu”nghĩa là hạnh viên mãn, nguyện được thỏa. Đức Di Đà nay đã thành Phật, nguyện của Ngài đã viên mãn, thành tựu không dối.
Chữ “như thị”chỉ tất cả các sự trang nghiêm đã nói ở phần trên: ao báu, nước tám công đức, lầu gác, hoa sen v.v...
“Công đức”:đại nguyện hạnh chẳng thể nghĩ bàn và những điều tu thành của đức Di Đà gọi là Công Đức. Nếu chỉ chăm lo những điều phước thiện thế gian thì đó chỉ là công đức hữu lậu, còn kém cỏi. Trang nghiêm tự tánh chính là công đức vô lậu, rất thù thắng. Nay công đức của Đức Phật A Di Đà là do vận dụng những hạnh nguyện chẳng thể nghĩ bàn tạo thành nên công đức ấy thật vô lậu thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn.
“Trang nghiêm”:Trang là tráng lệ, nghiêm là nghiêm sức (trang hoàng đẹp đẽ). Diệu cảnh Tây Phương chính là đối tượng được trang nghiêm, được thành tựu, còn đại nguyện hạnh của đức Di Đà chính là chủ thể thực hiện sự trang nghiêm, sự thành tựu ấy. Cõi Cực Lạc mỗi mỗi đều trang nghiêm khôn sánh là do lúc Phật Di Đà còn tu nhân đã phát ra đại nguyện rộng lớn, đã trải qua bao kiếp tu hành đại hạnh. Sự trang nghiêm ấy là do vô lượng công đức xứng tánh tạo thành (xứng hợp với chân như tự tánh vốn sẵn đủ các công đức nên gọi là “xứng tánh công đức”).
Nếu xét về Lý, câu “thành tựu như thị công đức trang nghiêm” hiển thị tự tánh đầy đủ hết thảy công đức. Người niệm Phật nếu tín nguyện niệm Phật sẽ trong niệm niệm ngộ nhập chân tánh, đầy đủ các công đức trang nghiêm như vậy.
1.2.1.2. Hoa, nhạc, kim địa(hoa trời, nhạc trời, đất bằng vàng ròng)
1.2.1.2.1. Chánh thị diệu cảnh(diễn bày cảnh mầu nhiệm)
Chánh kinh:
Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn đà la hoa.
(Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Đức Phật ấy, thường trỗi nhạc trời. Vàng ròng làm đất. Ngày đêm sáu thời, mưa xuống hoa mạn đà la cõi trời).
Giải:
Phần này diễn tả cảnh ngũ trần thượng diệu được hưởng thọ bởi những người đã vãng sanh Cực Lạc.
“Thiên nhạc”chính là thanh trần (tức là những thứ được cảm nhận bởi tai – nhĩ căn).
“Kim địa”chính là sắc trần (đối tượng cảm nhận của mắt), “thiên hoa” chính là sắc trần và hương trần. Rải hoa, đi kinh hành chính là xúc trần.
“Phạn thực” (dùng cơm) là vị trần.
Nước, chim, gió, cây vang ra pháp âm chính là thanh trần.
Trong đoạn kinh văn vừa dẫn trên, ta thấy: trên thì thiên nhạc rền trời, dưới thì đất bằng vàng ròng óng ánh, nào là hoa trời phơi phới rơi xuống, trên dưới sáng ngời. Chẳng những tai nghe tiếng nhạc du dương, mà mắt cũng thấy hoa trời thanh thoát, dạo gót trên đất vàng óng ả; quả đáng gọi là Cực Lạc chẳng ngoa.
Trước hết kinh đề cập đến thanh trần:
“Thường tác thiên nhạc”:Có hai loại thiên nhạc:
a) Chư thiên chi nhạc: tức là các loại âm nhạc do chư thiên trong tam giới thường tấu lên để dâng hiến đức giáo chủ cõi Cực Lạc và các thánh chúng.
b) Thiên nhiên nhạc: nghĩa là loại âm nhạc tự nhiên vang ra tiếng, không cần người diễn tấu như kinh Đại Bổn chép: “Cũng tự nhiên có vạn thứ âm nhạc, không tiếng nhạc nào là không thanh tịnh, trong trẻo, thông suốt, vi diệu, trong sáng, thanh nhã, hết thảy các thứ âm thanh trong thế gian chẳng sánh được nổi”.Quán kinh cũng chép: “Các loại nhạc khí treo trên hư không như tràng báu của trời, chẳng đánh mà tự phát ra tiếng, chưa hề gián đoạn”.
Âm nhạc cõi Cực Lạc đã không phải nhọc công diễn tấu, âm vận, thanh điệu lại diệu tuyệt, trang nhã, vượt hẳn âm nhạc thế gian cả một trời một vực.
Trong hai chữ “thường tác” thì: Luôn như thế, chẳng biến đổi là Thường; gõ, khảy là Tác. “Thường tác” lại có hai ý:
a) Thời thường(nghĩa là thường có luôn, nhưng không luôn luôn): Ý chỉ các loại nhạc do chư thiên thường diễn tấu. Chư thiên thường tấu nhạc cúng dường, nhưng không phải lúc nào cũng tấu nhạc cả.
b) Vĩnh thường(vĩnh viễn có mãi): tức là các loại thiên nhiên lúc nào cũng diễn tấu, ngày đêm sáu thời không lúc nào bị gián đoạn cả.
Do bởi những nghĩa ấy nên bảo là “thường tác thiên nhạc”.
“Hoàng kim vi địa”(vàng ròng làm đất): Câu này nói đến sắc trần thượng diệu. Trong kinh đây chỉ nói một cách giản lược là “hoàng kim” bởi lẽ hoàng kim đứng đầu thất bảo. Chứ thật ra, theo kinh Vô Lượng Thọ, mặt đất cõi Cực Lạc hoặc thuần bằng một thứ báu hoặc do nhiều chất báu hợp thành, chẳng hề nhất định. Sở dĩ vàng ròng cùng bảy báu xen kẽ làm đất là do chúng sanh cõi Cực Lạc tâm niệm thanh tịnh, nên cảm được đất báu bằng phẳng, nhu nhuyễn, đẹp đẽ đến thế.
“Trú dạ lục thời”(ngày đêm sáu thời): Trú là ban ngày, Dạ là ban đêm. “Lục thời” là ngày và đêm đều có ba thời: sơ, trung, hậu, gộp thành sáu thời, nên bảo là “trú dạ lục thời”. Cũng có sách giải thích là ngày và đêm, mỗi buổi đều có sáu thời. Chẳng hạn, các giờ Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân là sáu thời ban ngày. Có thuyết cho rằng: cõi Cực Lạc khi hoa nở là ngày, hoa khép lại là đêm.
Thật ra, nói ngày hay đêm cũng là chỉ thuận theo phương này mà nói để thính chúng dễ lãnh hội đó thôi. Chứ thật ra cõi Cực Lạc không hề tối tăm, thân ai cũng có quang minh, cần chi phải có mặt trời, mặt trăng soi sáng!
“Vũ thiên mạn đà la hoa”:Vũ nghĩa là rơi xuống, tuôn xuống. Chữ Thiên ở đây chỉ chư thiên.
Mạn Đà La là tên một loại hoa ở cõi trời, Hán dịch là Thích Ý (đẹp ý) hay Diệu Hảo. Vì loài hoa này cả sắc lẫn hương đều diệu mỹ tuyệt vời nên có tên như thế. Ngoài ra, hoa gọi là Thích Ý: Vì các vị thánh chúng thuộc địa vị Tam Hiền, Thập Thánh cõi Cực Lạc (thường gọi là Giáo Nội Phàm Phu) vẫn còn có tâm phân biệt, nên hoa Mạn Đà La đây sẽ tùy theo tâm ý của từng người mà biến hiện đẹp đẽ sai khác. Có chỗ còn dịch Mạn Đà La là Bạch Hoa vì hoa này khiết bạch khôn sánh.
Ở đây, Phật cũng nói giản lược, chỉ nêu một loại hoa, chứ thật ra phải nói là “trời mưa xuống bốn thứ hoa” mới phù hợp với câu “thành chúng diệu hoa” (đựng các hoa đẹp ấy).
Bốn thứ hoa là: Mạn đà la (bạch hoa), mạn thù sa (hoa đỏ), ma ha mạn đà la, ma ha mạn thù sa. Trong các loại hoa cõi trời, bốn loại vừa kể thù thắng nhất nên chư thiên thường rưới bốn loại hoa này để cúng dường chư Phật và Bồ Tát. Vì thế kinh mới chép là “trú dạ lục thời, thường vũ thiên mạn đà la hoa”. Bất cứ lúc nào chư thiên thường rải xuống các loại hoa mầu nhiệm như vậy để biểu thị ý tán thán, cúng dường. Theo kinh Vô Lượng Thọ, hoa rơi xuống tụ lại thành từng loại theo đúng màu sắc không tạp loạn. Gió cuốn hoa cũ, đất nứt ra thâu lấy, lại mưa hoa mới để trang nghiêm đất báu.
Bốn loại hoa trời vừa nói trên có những đức tánh sau:
- Nghiêm tịnh cõi nước: biểu thị chúng sanh cõi ấy dùng thiện pháp để trang hoàng thân mình.
- Hoa nở tung, thấy rõ cả đài: biểu thị pháp chân thật thù thắng hơn pháp của Nhị Thừa.
- Trước là hoa, sau là quả: biểu thị nhân quả trước sau của người vãng sanh trong cõi ấy.
- Mùi hương lan xa, ai ngửi thấy cũng vui thích, biểu thị người sanh về Tịnh Độ, hương thơm giới đức tỏa ngát mười phương.
Hơn nữa, kinh đây chỉ nói trời mưa hoa Mạn Đà La (bạch hoa) nhằm biểu thị: người sanh về Tịnh Độ chỉ có bạch nghiệp.
1.2.1.2.2. Trì hoa cúng Phật(cầm hoa cúng Phật)
Chánh kinh:
Kỳ độ chúng sanh thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích thành chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật. Tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực, kinh hành.
(Chúng sanh cõi ấy thường mỗi sáng sớm, đều dùng y kích đựng các diệu hoa, cúng dường mười vạn ức Phật ở những phương khác. Cho đến giờ ăn, trở về nước mình, dùng cơm, kinh hành).
Giải:
“Kỳ độ chúng sanh”(chúng sanh trong cõi ấy): chữ Chúng Sanh chỉ tất cả những người niệm Phật đã sanh trong cõi Cực Lạc. Trừ mình Đức Phật được xưng tụng là bậc Đại Giác, từ hàng Bồ Tát trở xuống đều gọi là “chúng sanh”.
“Thường dĩ thanh đán”:Ở đây, chữ Dĩ có nghĩa là “vào lúc”. Ý nói: thường vào lúc sáng sớm. “Thanh đán” có nghĩa là lúc mới vừa rạng sáng. Lúc ấy, phương Đông có những tia sáng chiếu rọi, nên bảo là “thanh đán”. Nói “thường dĩ” là hàm ý: ngày nào cũng làm như thế, chẳng hề mỏi lười, cứ vào rạng sáng là cầm hoa đi cúng Phật để tỏ lòng kính mộ tột bậc vậy.
“Các dĩ y kích thành chúng diệu hoa”(ai nấy đều dùng y kích đựng các diệu hoa): “Các” có nghĩa là mỗi người đều làm như thế. “Dĩ” là dùng, lấy. Có hai cách giải thích chữ “y kích”:
a) Là một thứ vật dụng để đựng hoa trong cõi Cực Lạc (giống như cái đãy đựng hương hay giỏ đựng hoa trong thế gian này).
b) Y kích có nghĩa là vạt áo; vì xét theo tự dạng, “kích” chính là vạt áo, tà áo.
Pháp Sư Bân Tông cho rằng cách giải thích thứ hai xác đáng hơn vì: “Lúc thiên hoa vừa rơi xuống, liền cầm ngay vạt áo hứng lấy, sao còn phải đợi tìm đồ đựng. Dùng ngay vạt áo hứng hoa, khi rải hoa sẽ buông vạt áo. Tự nhiên, tiện lợi nào bằng? Đấy cũng là một điều khoái ý của cõi Tịnh Độ”.
“Thành” (chữ thạnh (thịnh) đọc theo âm bằng) có nghĩa là chứa đựng. Chữ “chúng” đã minh xác nào phải chỉ dùng “y kích” để đựng có mỗi một loại hoa mạn đà la mà thôi đâu! Do hương sắc thù thắng chẳng thể nghĩ bàn nên bảo là “diệu”. “Hoa” ở đây là thiên hoa, chẳng cần ai phải chăm bón, tưới tắm, cứ tự nhiên kết nụ, khai hoa. Những hoa ấy màu sắc chói ngời, mùi hương u khiết. Khi rải lên, quang sắc của hoa chói ngời ngời, hương xông ngát mũi; hết thảy mọi loài danh hoa trong thế gian này chẳng thể nào bén gót nổi. Vì thế thiên hoa được gọi là “diệu hoa”.
Thật ra, chúng sanh cõi Cực Lạc chẳng chỉ hứng lấy hoa trời mà còn hứng cả hoa của những cây báu, vì chúng cũng thường rưới muôn hoa xuống mặt đất. Hương sắc của những hoa cây báu ấy cũng dị thường trân quý, rất đáng dùng để cúng Phật.
“Cúng dường tha phương thập vạn ức Phật”:Cúng là dâng, Dường là cung kính. Như vậy, “cúng dường” có nghĩa là kính dâng lên. Có ba thứ cúng dường:
a) Tài cúng dường: sắp dọn các thứ hương, hoa, thức ăn dâng cúng Tam Bảo.
b) Kính cúng dường: dùng tâm chí thành tán thán, lễ bái Tam Bảo.
c) Hạnh cúng dường: còn gọi là Pháp Cúng Dường. Có nghĩa là tâm chân thành, kiên cố, đứng như pháp thọ trì, tinh tấn tu hành.
Nói tỉ mỉ hơn có đến năm mươi thứ cúng dường, nhưng e quá rườm rà nên không thuật đủ ở đây.
Nay dâng hoa cúng Phật, xét về Sự tuy thuộc về Tài Cúng Dường, nhưng trên Lý đã đủ cả ba loại cúng dường. Bởi lẽ hành động ấy đã hàm ý vui vẻ ca ngợi, tán thán Phật đức, nghe pháp, thọ trì vậy.
“Tha phương”: Các chúng sanh cõi ấy coi Cực Lạc là quê hương nên gọi là “bổn quốc”, gọi các cõi Phật khác là “tha phương” (phương khác).
“Thập vạn ức Phật”: dù là thập, hay vạn hoặc ức cũng chỉ là những con số ước lệ hòng diễn tả số nhiều đến cùng cực, chứ nào phải nhất định chỉ có mười vạn ức đó ư! Chữ Phật trong câu này chỉ chư Phật trong mười phương thế giới.
Chúng sanh cõi Cực Lạc hứng lấy diệu hoa nào phải để nhìn ngắm, hưởng thụ suông, mà là để rộng vun bồi cội đức, rộng tu hạnh cúng dường. Vì thế, trước hết, họ dâng cúng lên đức Bổn Sư cõi ấy là Phật A Di Đà; sau đấy, mới lần lượt ngồi cung điện bảy báu hay ngự hoa sen báu, bay qua các cõi Phật trong mười phương cúng dường chư Phật. Ở mỗi nơi đều trần thiết cúng phẩm lớn lao, lắng nghe tin nhận diệu pháp. Số lượng các cõi nước Phật họ đi qua nhiều hay ít tùy theo nguyện lực, chứ chẳng phải chỉ có mười vạn ức cõi Phật mà thôi!
“Tức dĩ thực thời hoàn đáo bổn quốc”:câu này nói lên sự phi hành cúng dường của chúng sanh cõi Cực Lạc thật là thần tốc; đến lúc thọ trai buổi sớm đã kịp đi đến mười phương cúng dường xong, trở về cõi Cực Lạc. Rạng sáng hứng lấy hoa ra đi, đến giờ thọ trai sáng đã về, khoảng thời gian ấy thật là ngắn ngủi. Nếu chẳng do sức nhiệm mầu của thần túc, dễ hồ đi về nhanh chóng đến mức ấy ư? Khoa học hiện đại đoan quyết: mỗi một giây, mặt trời xoay được mấy vạn dặm. Nhưng nếu đem so với sức thần túc của các vị thượng thiện nhân cõi Cực Lạc, tốc độ của mặt trời chẳng thấm vào đâu!
Sức thần túc ấy do tịnh nghiệp của họ tự chiêu cảm, mà cũng là do đại nguyện lực của Phật A Di Đà cảm thành. Bởi lẽ đức Di Đà đã phát nguyện ai sanh trong cõi Cực Lạc cũng đều thuộc vào Chánh Định Tụ, trụ trong ba bất thoái chuyển. Do vậy, chúng sanh cõi Cực Lạc đương nhiên sẽ có đủ lục thần thông.
Thần Túc thông còn gọi là Thân Như Ý Thông, có ba diệu dụng:
a) Năng vận thần lực(thần lực có khả năng chuyên chở): Phi hành tự tại, đến mọi nơi một cách cực kỳ nhanh chóng.
b) Chuyển biến thần lực: Có thể chuyển biến từ một sang nhiều, từ lớn thành nhỏ và ngược lại.
c) Thánh như ý thần lực: sự biến hóa không lường, hóa hiện vô cùng.
“Phạn thực”nghĩa là cúng dường chư Phật xong, trở về cõi Cực Lạc, gặp đúng lúc thọ trai buổi sớm, bèn theo chúng dùng cơm. Do thần lực của Phật, chúng sanh cõi Cực Lạc khi ăn cơm dùng toàn các thứ quý báu như thất bảo làm bát đựng, cơm trăm vị tùy ý hiện tiền, chẳng cần phải nấu nướng, bày biện, dọn dẹp. Cứ ăn xong là tự nhiên biến mất, chẳng phải nhọc lòng rửa ráy, phơi phóng, úp cất chi cả. Mà thật ra cũng không có ăn nữa, chỉ nhìn thấy tâm đã no đủ rồi.
Kinh Thụy Ứng Bản Khởi cũng chép: “Những người vãng sanh, nếu lúc muốn ăn thì ứng khí(bát đựng thức ăn) bằng thất bảo tự nhiên hiện ra trước mặt, cơm trăm vị tự nhiên đầy ắp. Tuy là có thức ăn, nhưng thật sự không ăn, chỉ thấy sắc, ngửi mùi đã tưởng là ăn. Tự nhiên no đủ, thântâm nhu nhuyễn, chẳng tham đắm vị. Ăn xong biến mất, đến thời lại hiện ra”.
Nghe vậy, ắt sẽ có kẻ vấn nạn rằng: người cõi Cực Lạc thân có quang minh, trọn không có nhật, nguyệt soi sáng, thì biết lúc nào là lúc thọ trai? Ngài Khuy Cơ đáp: “Chuông vàng tự gióng, khánh ngọc vang xa, chúng thánh vân tập, tự nhiên đến hội”.
Không những chỉ thức ăn mà y phục, các vật cần dùng vừa tưởng nghĩ đến đã hiện ra, không hề phải nhọc công cầu tìm, lo liệu.
Những sự sung sướng về cái ăn, cái mặc trong cõi Cực Lạc như vừa kể thật ra chỉ hiện hữu trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ. Bởi lẽ chúng sanh trong cõi này là hạng đới nghiệp vãng sanh, tập khí vẫn còn, nên mới có những ý niệm uống ăn, mặc dùng như thế. Chứ còn ba cõi trên không còn tập khí, nên cũng không còn thấy có những tướng trạng này, mà thường dùng Thiền Duyệt làm thức ăn vậy.
“Kinh hành”:tức là đi nhiễu xung quanh, đi vòng quanh. Hiểu theo nghĩa hẹp, kinh hành là đi vòng quanh điện đường, tháp thờ Phật, hay chỉ nhiễu quanh bàn Phật. Kinh hành có tác dụng giúp thân thể điều hòa, không bị trì trệ, điều tâm cho khỏi phóng dật.
Chúng sanh cõi Cực Lạc thọ trai xong, ai nấy tùy ý đi dạo: hoặc tản bộ bên đất vàng ròng, hoặc đi vòng quanh ao báu. Người thích niệm Phật liền niệm Phật, kẻ chuộng tham thiền sẽ tham thiền, tùy ý vui sướng tấn tu. Thật là phong độ giải thoát của một cõi Tịnh Độ, đáng khiến cho phàm nhân phải ngưỡng mộ xiết bao!
Trong cõi Cực Lạc, mọi trần cảnh đều là lạc cảnh, người Cực Lạc tiếp thọ trần cảnh, nhưng chẳng hề bị trần cảnh nhiễu loạn đạo tâm. Bởi lẽ cái gọi là “trần cảnh” đó cũng chỉ là thuận theo phương này mà gọi là trần cảnh. Chứ thật ra, chúng đều là những cảnh sắc thanh tịnh vô biên, tâm chúng sanh cõi ấy cũng thanh tịnh vô biên.
Nếu chúng ta có thể tịnh tâm niệm Phật, nhất niệm hồi quang phản chiếu thì trần cảnh cõi này cũng sẽ biến thành tịnh cảnh; đúng như Liên Trì đại sư đã dạy: “Cầm thìa, buông đũa, miệng miệng chẳng lìa. Giở gót, động thân, bước bước đạp lên. Lẽ đâu lại vùi đầu ăn uống, để luống qua một đời, dạo nước chơi non, nhọc nhằn muôn dặm”(ý nói: Phải luôn luôn nhớ Phật, niệm Phật trong mọi hành vi, cử chỉ, mọi thời khắc, đừng để luống uổng thời gian vô ích).
Hễ tịnh tâm niệm Phật thì Tịnh Độ, Sa Bà nào hai. Vọng niệm khởi lên ắt Đông Độ, Tây Phương cách tuyệt!
1.2.1.2.3. Kết thành trang nghiêm(kết lại về sự trang nghiêm)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
Giải:
Đây là đoạn văn kết thán (kết lại lời khen ngợi). Hai chữ “như thị” chỉ các thứ thiên hoa, thiên nhạc... vừa nói ở trên. Mỗi một thứ sự vật diệu kỳ như thế, không thứ nào chẳng phải là do nguyện hạnh của Phật A Di Đà cảm thành.
Nếu đem so với bổn nguyện của Phật A Di Đà, thì “đất bằng vàng ròng” chính là kết quả của lời nguyện thứ 32 “quốc độ trang hoàng đẹp đẽ”; “phạn thực” chính là kết quả của lời nguyện 38 “y thực tự nhiên tùy ý hiện đến”; “tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc” (ngay vào đúng lúc ăn liền trở về nước mình) chính là kết quả của lời nguyện thứ 23 “cúng dường chư Phật” và lời nguyện thứ 9 “đều được thần túc”) v.v...
Xét về Lý:
- “Thiên nhạc” biểu thọ định - huệ dung hòa.
- “Hoàng kim vi địa” (vàng ròng làm đất) biểu thị tự tánh vạn kiếp thường hằng chân thực, tâm địa bình đẳng bất biến.
- “Thiên vũ diệu hoa” (trời mưa diệu hoa) biểu thị tự tánh khai giải rạng ngời (lúc mê tánh thì giống như hoa còn búp, chưa nở. Lúc ngộ, giống như hoa đã nở tung); đồng thời hàm ý: dùng tịnh hoa thiên nhiên tự tánh để trang nghiêm tâm địa.
- “Thành hoa cúng Phật” (đựng hoa cúng Phật) biểu thị tự tánh trang nghiêm. Dùng tịnh hoa tự tánh để cúng dường chư Phật sẵn có nơi tự tánh.
- “Tha phương” biểu thị tùy duyên diệu dụng.
- “Thập vạn ức độ” biểu thị tự tánh dung thông, trùm khắp. Đến giờ ăn trở về biểu thị tự tánh chẳng đến, chẳng đi, mà cũng là vừa đến vừa đi.
- “Bổn quốc” biểu thị tự tánh thường trụ.
- “Phạn thực” biểu thị ý trưởng dưỡng huệ mạng.
- “Kinh hành” biểu thị ý tự tánh sẵn lưu lộ vô ngại.
1.2.1.3. Hóa cầm diễn pháp(các loài chim do Phật biến hiện ra diễn thuyết diệu pháp)
1.2.1.3.1. Lệ điểu danh(nêu tên các loài chim)
Chánh kinh:
Phục thứ Xá Lợi Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu: Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng chi điểu.
(Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các thứ chim kỳ diệu, nhiều màu: Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, chim Cộng Mạng).
Giải:
Đoạn này thuyết minh lần nữa về thanh trần kỳ diệu trong cõi Cực Lạc, thể hiện ý hữu tình thuyết pháp.
“Phục”có nghĩa là lại, lần nữa. “Thứ”là tiếp theo.
Nói “phục thứ” nhằm hàm ý: trên đã minh thị các thứ diệu cảnh, tiếp theo đây sẽ tường thuật các thứ chim biến hóa, gió thổi cây thuyết pháp v.v...
“Thường hữu”:trong sáu thời luôn luôn có các sự việc như thế.
“Chủng chủng kỳ diệu”:chẳng phải chỉ có một loại. Do số loại quá nhiều nên bảo là “chủng chủng”. Hình dáng các loài chim ấy rất lạ lùng, đẹp đẽ nên bảo là “kỳ”. Tiếng chim hót vang thành tiếng thuyết pháp nên bảo là “diệu”. Những loài chim ấy có nhiều màu nên bảo là “tạp sắc”.
Như vậy, các loài chim cõi Tây Phương không màu nào chẳng có, không hình dáng nào chẳng tồn tại. Hình dạng, màu sắc đã phong phú lại đẹp tuyệt vời.
Bạch Hạc: loài chim này mỏ, cổ và chân đều dài, cánh xòe ra rất rộng, bay nhanh, tiếng kêu trong vắt, vang đi rất xa. Trong các giống hạc, loài hạc trắng, mào son là quý nhất.
Khổng Tước(chim công): trông giống như con Trĩ. Thân dài hơn ba thước, cánh ngắn nhỏ, chim trống rực rỡ, hoa lệ. Lông đuôi cực dài, lúc xòe ra dựng lên như cái quạt lớn, sắc biếc, có những điểm vàng viền xanh trông như những con mắt to. Giống chim này sống ở những nước thuộc nhiệt đới như Ấn Độ, Thái Lan v.v...
Anh Vũ(két, vẹt): loài chim này có nhiều màu: vàng, xanh đọt chuối, hồng, trắng, xám, tía... Loại mỏ hồng, lông hồng được coi là quý nhất. Mỏ nó to ngắn, phần trên khoằm xuống trùm phần dưới, lưỡi to dày, chân có hai ngón đưa ra trước, hai ngón quặp ra sau. Giống này học được tiếng người. Cổ thi có câu:
Hàm tình dục thuyết cung trung sự,
Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn
(Nặng lòng toan kể chuyện cung đình,
Chú vẹt đậu đó thôi đành lặng thinh)
Xá Lợi: Tàu dịch là Thu Lộ, là một loài chim mắt rất đẹp. Có chỗ còn dịch loài chim này là Xuân Lộ.
Ca Lăng Tần Già: Hán dịch là Diệu Âm, khi còn ở trong trứng đã hót. Tiếng nó thanh thao hay hơn các loài chim khác. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ chép: “Loài chim này phát ra âm thanh vi diệu, dù trời hay người, không ai [phát ra âm thanh hay] bằng, chỉ trừ có âm thanh của Như Lai”.
Cộng Mạng:Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã dịch tên loài chim này là Sanh Sanh. Kinh Pháp Hoa gọi là Mạng Mạng. Kinh Tạp Bảo Tạng gọi là Cộng Mạng, nghĩa là hai đầu chung một thân. Gọi cho đủ theo âm Phạn là Kỳ Bà Kỳ Bà (Jiva jiva). Loài chim này tuy mỗi đầu có tâm thức khác biệt, nhưng cùng một thọ mạng.
Trong quá khứ, đức Thích Ca và Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) từng làm chim Cộng Mạng. Một ngày nọ, cùng bay ra ngoài. Điều Đạt mê ngủ, Thích Ca vẫn thức, thấy có trái cây thơm tho bèn mổ ăn. Mùi hương sực nức khiến đầu đang ngủ thức dậy, càu nhàu: “Sao mày dối tao, chỉ ăn một mình vậy? Tao sẽ ăn trái độc để trả thù mày”. Ăn quả độc xong, cả hai cùng chết tươi!
Cõi Tây phương có vô lượng loài chim, ở đây kinh chỉ nêu đại lược sáu thứ. Hai loại chim Ca Lăng và Cộng Mạng chỉ thấy có ở Ấn Độ. Những loài chim Khổng Tước, Bạch Hạc, Anh Vũ... được coi là những loài chim quý trong thế gian này nên kinh đặc biệt nêu ra.
1.2.1.3.2. Điểu diễn pháp âm(chim hót ra pháp âm)
Chánh kinh:
Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ Đề phần, bát chánh đạo phần, như thị đẳng pháp.
(Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót ra tiếng hòa nhã. Tiếng ấy diễn bày: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ Đề phần, bát chánh đạo phần, các pháp như thế đó).
Giải:
Chữ “thị chư”chỉ các loài Bạch Hạc, Khổng Tước.... vừa nhắc tới ở đoạn trên. Đêm ngày phát ra tiếng, ý nói: Các loài chim hóa hiện ấy thuyết pháp không hề gián đoạn.
“Hòa nhã”: Hòa là không thô bạo, dữ dội; ý nói: tiếng kêu thanh tao, dịu dàng, không giống như tiếng kêu chói chang, rè đục của các loài quạ, chim lợn... Nhã có nghĩa là chẳng thô tháp, hèn kém. Âm thanh hòa dịu khiến cho người nghe vợi đi tâm nóng nảy, gấp rút, loạn tưởng tự bình. Âm điệu tao nhã khiến người nghe sanh tâm vui thích, tâm ý thanh thản, khoáng đạt.
“Kỳ âm diễn sướng”: chữ “kỳ âm” chỉ các âm thanh hòa nhã của các loài chim. Âm thanh của chúng có thể “diễn” nói các diệu pháp, khiến cho tâm người nghe sảng khoái (“sướng”) nên bảo là “diễn sướng”.
Thêm nữa, giải nói một cách phân minh là “diễn”; giải nói một thông đạt, không vấp váp là “sướng”.
Như vậy, “hòa nhã” là âm thanh khiến lòng người vui thích, “diễn sướng” là thuyết pháp không bị vướng vấp.
Tuy những âm thanh ấy hòa nhã khiến lòng người vui sướng, nhưng chúng chẳng hề khiến người nghe mê tâm tham đắm. Chúng thuyết pháp không vướng mắc khiến người nghe phát sanh Huệ Tư Tu, tăng trưởng đạo tâm. Chúng sanh cõi Cực Lạc được bất thoái chuyển cũng là nhờ vào tăng thượng duyên này vậy.
Trong những pháp được các loài chim này diễn nói, các pháp như ngũ căn, ngũ lực v.v... được kể rõ ra vì chúng chính là những pháp trọng yếu để tu hành nhập đạo.
1) Ngũ Căn:
Căn có hai nghĩa:
- Sanh trưởng: Cây phải nhờ vào rễ mới có thể sanh hoa kết quả. Hành nhân phải nhờ vào năm pháp này mới có thể kết thành đạo quả nên gọi là Ngũ Căn.
- Hộ trì:Cây phải nhờ rễ bám chặt vào đất thì cành, nhánh, hoa, lá mới không bị héo rũ, chẳng bị gió lốc, mưa cuồng quật đổ. Cũng thế, nếu tu hành năm pháp này thì đạo niệm sẽ chẳng bị lui sụt, chẳng bị hết thảy nghịch cảnh lay động hay biến chuyển.
Ngũ Căn gồm:
a. Tín căn: tin sâu các đạo pháp thì mới thành tựu được hết thảy Thánh Đạo. Tin sâu xa, ưa thích chân lý thì gọi là Tín Căn. Riêng với hành nhân niệm Phật, Tín Căn là tin tưởng sâu xa rằng tất cả những sự trang nghiêm nơi y báo, chánh báo cõi Cực Lạc đều là do nguyện hạnh chẳng thể nghĩ bàn của đức Từ Phụ A Di Đà tạo thành, chân thật chẳng dối, phát nguyện kiên cố, quyết định vãng sanh.
b. Tấn căn:Nương theo sự thật mình đã tin mà khởi sự tu hành. Đối với hết thảy đạo pháp đều siêng cầu, chuyên tinh tu tập thì gọi là Tấn Căn. Đối với người niệm Phật, Tấn Căn là đã tin tưởng sâu sa pháp Niệm Phật là pháp bậc nhất trong các hạnh, rồi cứ thế chăm chỉ, chuyên nhất suốt đêm ngày trì niệm một câu A Di Đà Phật chẳng quên.
c. Niệm căn: đối với các đạo pháp mình đang tu phải yêu thích, mong mỏi, niệm niệm chẳng quên, thậm chí chẳng sanh một niệm nào khác. Đấy gọi là Niệm Căn. Riêng đối với người niệm Phật, đã mong cầu được sanh về Tây Phương, lòng chăm chắm gởi nơi đức Di Đà, niệm niệm dốc lòng nơi Cực Lạc, vĩnh viễn chẳng sanh ý niệm nào khác, thì gọi là Niệm Căn.
d. Định căn: nhiếp tâm chăm chú nơi pháp đang tu, chẳng để ý tưởng tán loạn thì gọi là Định Căn. Người niệm Phật đã chuyên tưởng niệm vãng sanh, bèn buông bỏ vạn duyên, thâu tóm tâm cho khỏi tán loạn, niệm nào cũng tương ứng với danh hiệu Di Đà, chẳng bị vọng tưởng tạp loạn khuấy nhiễu thì gọi là Định Căn.
e. Huệ căn: Huệ chiếu hiện tiền, chánh quán phân minh, chẳng xen lẫn vọng tưởng thì gọi là Huệ Căn. Đối với người niệm Phật, không những nhiếp tâm chẳng loạn, mà nội tâm còn phải thường chiếu, chẳng bị ngoại cảnh mê hoặc, tùy duyên làm mọi việc, nhưng việc tu hành chẳng bị trở ngại gì.
2) Ngũ Lực:
Năm pháp này cùng tên với năm pháp trước, nhưng nhờ tăng trưởng đắc lực, bài trừ hết thảy nghiệp chướng, chẳng bị các pháp khác chèn ép, lại còn có khả năng hàng phục các pháp khác, nên gọi là Lực.
Lực còn có nghĩa là Kiên Cố, tức là năm pháp này chẳng bị lay động bởi các pháp khác. Ngũ Lực gồm:
a. Tín Lực: Tín Căn tăng trưởng đắc lực, chẳng bị các mối nghi lung lạc, lại phá trừ được mê hoặc phiền não, chánh tín kiên cố nên gọi là Tín Lực. Riêng với người niệm Phật, Tín Lực là triệt để tin tưởng sâu xa nơi pháp môn Niệm Phật, quyết định cầu vãng sanh, chẳng bị bất cứ pháp môn nào khác lung lạc, dao động. Tín tâm kiên cố, chuyên chí niệm Phật, trước sau như một chẳng hề lui sụt, trọn không có ý niệm nào khác.
b. Tấn Lực: Tấn Căn tăng trưởng đắc lực, phá trừ mọi nỗi lười nhác, phóng dật nơi thân tâm, siêng tu chánh đạo, thành tựu đại sự xuất thế thì gọi là Tấn Lực. Đối với người niệm Phật, Tấn Lực là do tinh tấn đắc lực, nhất tâm niệm Phật dũng mãnh chẳng lùi, ngày đêm sáu thời chẳng quên một câu A Di Đà Phật, phá trừ sạch hết thảy các pháp bất thiện: biếng nhác, bê trễ v.v...
c. Niệm Lực: Niệm Căn tăng trưởng đắc lực, phá trừ các tà tưởng, thành tựu hết thảy công đức chánh niệm xuất thế thì gọi là Niệm Lực. Đối với người niệm Phật, do niệm lực kiên cố nên niệm niệm thuần chánh, chẳng sanh khởi hết thảy vọng tưởng tà niệm, niệm niệm chẳng quên sáu chữ hồng danh. Nhất tâm, nhất ý chuyên cầu Tây Phương.
d. Định Lực: Định Căn tăng trưởng đắc lực, trừ được hết thảy loạn tưởng, các Thiền Định phát sanh thì gọi là Định Lực. Đối với người niệm Phật thì do định tâm kiên cố, tâm chẳng tán loạn, chỉ giữ mỗi một mình chánh niệm, chẳng bị hết thảy vọng tưởng, tạp lự khuấy động, thường đạt được niềm vui tịch tĩnh mầu nhiệm.
e. Huệ Lực: Huệ Căn tăng trưởng đắc lực, chiếu soi trọn vẹn hết thảy các pháp, phá trừ hết thảy những kiến giải của tà ma, ngoại đạo, đoạn diệt những chấp trước thiên lệch, Tiểu Thừa, phát Chân Vô Lậu Trí, thì gọi là Huệ Lực. Đối với người niệm Phật, do Huệ Lực kiên cố nên hiểu biết một cách phân minh rằng: Pháp môn Niệm Phật thật là trọng yếu, nhiệm mầu. Lại còn có thể thật sự hiểu rõ tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, thấu tỏ yếu chỉ: “Tâm tức là Phật, tâm này là Phật”. Do quán huệ chiếu soi tất cả nên chẳng bị lầm lạc bởi những kiến giải, tà thuyết của ma tà, ngoại đạo.
c) Thất Bồ Đề Phần:
Bồ Đề dịch là Giác. Thất Bồ Đề Phần còn gọi là Thất Giác Chi (Chi có nghĩa là phần, hàm ý: lúc hành nhân tu tập, tùy từng thời mà tùy nghi thực hành). Ngũ Căn, Ngũ Lực đã kiên cố, do Huệ Lực sanh khởi Chân Vô Lậu Trí (trí thanh tịnh đã đoạn sạch phiền não. Đoạn Hoặc chứng Lý chính là diệu dụng của trí này. Đây chính là thánh trí của Tam Thừa). Thất Giác Chi gồm:
a. Trạch Pháp Giác Chi: Trạch có nghĩa là chọn lựa. Lúc hành nhân quán sát các pháp cũng như lúc tu hành các đạo phẩm chánh và phụ, sẽ dùng trí huệ quán chiếu phân minh, khéo biết phân biệt, suy xét đâu là chân, đâu là ngụy, chẳng lầm lạc chọn lấy các pháp hư ngụy, nên gọi là “trạch pháp giác chi”. Trong vô lượng pháp môn, chọn lấy pháp môn Niệm Phật là thích đáng nhất.
b. Tinh Tấn Giác Chi: Chẳng tạp là Tinh, không lui sụt là Tấn. Lúc hành nhân tu tập sẽ dùng trí huệ quán chiếu phân minh, khéo hiểu rõ ràng, chẳng tu lầm các pháp khổ hạnh vô ích, tinh tấn hướng đến đạo pháp chánh chân, chẳng lười chẳng nhác, nỗ lực trừ khử những tập khí xấu ác, khiến cho sự ác đã sanh phải dứt, sự ác chưa sanh chẳng thể sanh, hướng đến thiện pháp của Phật đạo, sáu thời dụng công nghiêm mật, nên gọi là “Tinh Tấn Giác Chi”. Nay nếu nương theo một câu hồng danh tinh tấn tu hành để thoát khỏi sanh tử, nhanh chóng siêu sanh cõi Cực Lạc thì đấy mới đúng là đại hạnh trọng yếu, tuyệt diệu nhất.
c. Hỷ Giác Chi: Hỷ là hoan hỷ hay pháp hỷ. Như lúc hành nhân sở đắc pháp nào, tâm sanh hoan hỷ sẽ dùng trí huệ quán chiếu phân minh, hiểu rõ thấu suốt, chẳng vui theo các pháp điên đảo như chấp đoạn, chấp thường, chấp có, chấp không. Hành nhân trụ vào pháp hỷ chân chánh nên gọi là Hỷ Giác Chi. Nay được nghe pháp môn thù thắng là pháp Niệm Phật đây phải sanh hoan hỷ lớn lao, tu hành đúng theo lời dạy.
d. Trừ Giác Chi: Trừ nghĩa là đoạn trừ. Lúc hành nhân đoạn trừ các phiền não và các kiến (kiến là năm lợi sử: thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ, kiến thủ kiến, tà kiến và năm độn sử: tham, sân, si, mạn, nghi), huệ chiếu hiện tiền, khéo hiểu biết rành rẽ, đoạn trừ các pháp hư ngụy, tăng trưởng các thiện căn chân chánh, thì gọi là Trừ Giác Chi. Dùng một câu Di Đà để trừ các vọng tưởng, phiền não, chẳng khởi tán loạn, nhất tâm niệm Phật.
e. Xả Giác Chi:Xả là xả ly (lìa bỏ). Lúc hành nhân buông bỏ các sở kiến và những cảnh bất thiện thì liền vận trí huệ chiếu soi phân minh, khéo có thể hiểu biết rành rẽ, thấy những cảnh bị buông bỏ đều là hư ngụy, chẳng thật, vĩnh viễn chẳng nhớ tưởng đến nữa. Đấy gọi là Xả Giác Chi. Nay người niệm Phật nhất tâm niệm Phật, buông bỏ vạn duyên, chuyên chí cầu sanh Cực Lạc, vĩnh viễn buông bỏ uế độ Sa Bà.
f. Định Giác Chi: Định tức là Thiền Định. Lúc hành nhân phát khởi các môn Thiền Định tốt lành thì vận dụng trí huệ quán sát để hiểu biết rành rẽ Thiền như thế nào là ngụy (nếu tu Thiền mà chưa đoạn trừ phiền não, chưa rốt ráo sanh tử, sẽ giống như lấy đá đè cỏ. Hành thiền như thế gọi là tu Hữu Lậu Định), thế nào là chân (đối với Hữu Lậu Thiền chẳng sanh lòng yêu thích, chấp trước thì khác nào đã nhổ cỏ cả rễ nên gọi là Vô Lậu), chẳng sanh khởi sự mê đắm lầm lạc vào Hữu Lậu Thiền. Đấy gọi là Định Giác Chi. Công niệm Phật sâu xa đạt đến mức nhất tâm bất loạn thì tam muội hiện tiền, nhưng cũng vẫn chẳng sanh vọng tâm vui thích hay chấp trước chi cả!
g. Niệm Giác Chi: Niệm chính là tư niệm (nghĩ nhớ). Lúc hành nhân tu tập các đạo pháp, bèn dùng trí huệ chiếu soi phân minh, khéo hiểu biết rành rẽ, thường tu tập sao cho Định lẫn Huệ đều được cân bằng. Khi tâm hôn trầm, sẽ nghĩ đến việc dùng ba Giác Chi: Trạch Pháp, Tinh Tấn, Hỷ để cảnh tỉnh, cổ vũ chính mình, chẳng để tâm bị hôn trầm. Nếu lúc tâm trôi nổi, động loạn thì sẽ dùng ba Giác Chi: Trừ, Xả, Định để nhiếp phục tâm, chẳng để tâm bị lao chao, loạn động. Do điều hòa, chế phục tâm một cách tùy thuận, thích hợp, nên bảo là Niệm Giác Chi. Hành nhân niệm Phật phải thường giác chiếu sao cho Định lẫn Huệ được cân bằng, chẳng bị hôn trầm hay tán loạn làm chướng ngại, chẳng trụ trong hai thái cực Có và Không, dẫu suốt ngày niệm Phật nhưng niệm mà vô niệm, chẳng niệm mà niệm. Đấy mới chân chánh đạt đến công phu niệm Phật.
4) Bát Thánh Đạo Phần:
Tám pháp này chính là những hạnh để thành tựu thánh quả nên gọi là Thánh Đạo. Chúng còn được gọi là Bát Chánh Đạo Phần. Vì chẳng thiên lệch, tà vạy nên bảo là Chánh. Chúng là những đường lối để đạt đến Niết Bàn nên gọi là Đạo. Chúng lại là những con đường lớn giúp ta siêu phàm nhập thánh nên gọi là Chánh Đạo.
Do Định Huệ luôn được cân bằng nhờ Niệm Giác Chi, hành nhân y theo những chánh đạo này để an ổn tu hành thì sẽ chóng đạt tới địa vị Phật. Bát Chánh Đạo gồm:
a. Chánh Kiến: đắc chân giác huệ vô lậu, thấy biết các lý một cách phân minh, chẳng bị lầm lạc, an trụ trong sự thấy biết chân chánh thanh tịnh, xa lìa hết thảy các tà kiến, những điều kiến giải đều hợp với chánh lý nên gọi là Chánh Kiến. Hành nhân niệm Phật thấy pháp Trì Danh đây thật đúng là con đường để liễu sanh thoát tử thành tựu Phật đạo, là con đường tắt nhất trong những con đường tắt.
b. Chánh Ngữ:Dùng trí vô lậu gìn giữ khẩu nghiệp, thường nói lời chân chánh hiền thiện, xa lìa hết thảy những tà ngôn (các tội nói dối, ác khẩu, nói đôi chiều, nói thêu dệt đều gộp trong đây). Trụ trong chánh ngữ thanh tịnh, nói ra điều gì cũng đều hợp với chánh lý, nên gọi là Chánh Ngữ. Người niệm Phật khẩu nghiệp thanh tịnh, trong mười hai thời bớt nói năng để chuyên trì Phật hiệu.
c. Chánh Tư Duy: Dùng trí vô lậu thâu nhiếp ý nghiệp, thường suy nghĩ các thiện pháp chánh đạo, xa lìa hết thảy loạn tưởng, suy nghĩ xằng bậy. Trụ trong tư duy thanh tịnh, chân chánh, nghĩ đến điều gì cũng hợp với chánh lý. Đó gọi là Chánh Tư Duy. Người niệm Phật phải thanh tịnh ý nghiệp, tâm chuyên tưởng cõi Tịnh Độ, chuyên chí nơi Tây Phương.
d. Chánh Nghiệp: Dùng trí vô lậu gìn giữ thân nghiệp, vì pháp vì đạo, xa lìa hết thảy ác nghiệp tà hạnh như sát, đạo, dâm v.v... Trụ trong hạnh nghiệp thanh tịnh, chân chánh, làm bất cứ việc gì cũng đều hợp với chánh lý. Đấy gọi là Chánh Nghiệp. Hành nhân niệm Phật thân nghiệp thanh tịnh, ngoài việc tu niệm Phật ra, chẳng những không tạo các điều ác mà còn siêng năng thực hành thiện sự.
e. Chánh Mạng: Dùng trí vô lậu để gìn giữ mạng sống một cách chân chánh, kiếm sống một cách thanh tịnh, xa lìa hết thảy các hình thức tà mạng (chẳng hạn như vì lợi mà trá hiện tướng dạng đặc biệt, vì lợi dưỡng mà tự khoe khoang công đức, xem tướng tốt xấu, vì lợi thuyết pháp, lớn giọng, ra oai để người khác sợ hãi phải cúng dường, dùng các lời lẽ hoa mỹ ca ngợi công đức cúng dường để người nghe động tâm cúng dường nhiều hơn...). Giữ lối sống thanh tịnh, chân chánh, đúng như cổ đức đã bảo: “Thà giữ đạo chánh mà chết, chứ chẳng phi đạo để sống”; tức là vì trọng đạo nên coi thường lẽ sống chết. Người niệm Phật cam sống đạm bạc, chẳng làm việc phi đạo để cầu lợi dưỡng.
f. Chánh Tinh Tấn:Dùng trí vô lậu để khuất phục sự lười nhác, siêng cầu đạo quả chân chánh, xa lìa hết thảy tà hạnh, trụ trong hạnh tinh tấn thanh tịnh chân chánh, chẳng tu lầm các khổ hạnh vô ích thì gọi là “chánh tinh tấn”. Người niệm Phật trong mười hai thời nhất tâm niệm Phật, siêng cầu vãng sanh.
g. Chánh Niệm:Dùng trí vô lậu để chế phục các vọng tưởng, nghĩ đến các thiện pháp chân chánh, xa lìa hết thảy tà niệm, trụ trong ý niệm thanh tịnh, chân chánh, tất cả ý niệm đều hợp với chánh đạo, thì gọi là Chánh Niệm. Người niệm Phật chuyên nghĩ nhớ đến Phật Di Đà, kiêng dè, trừ bỏ các vọng niệm.
h. Chánh Định:Dùng trí vô lậu để trừ tán loạn, thân tâm tịch tĩnh, xa lìa hết thảy tà định (chẳng hạn như thứ thiền định vô tâm của ngoại đạo), an trụ tịch tĩnh thì gọi là Chánh Định. Người niệm Phật chuyên chí nơi Tây Phương, duyên chặt nơi đức Di Đà, chẳng bị cảnh sắc lay chuyển, siêng tu Niệm Phật tam muội.
Những điều vừa được nói trên chính là bốn khoa trong bảy khoa đạo phẩm, dù kinh văn không kể hết, nhưng đã hàm ý nêu trọn cả ba mươi bảy phẩm trợ đạo (ngoài bốn khoa trên, kể thêm Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc). Đạo có nghĩa là thông suốt, tức là các hạnh pháp để tu; Phẩm có nghĩa là chủng loại. Như vậy ba mươi bảy đạo phẩm có nghĩa là ba mươi bảy môn hạnh pháp để tu hành hòng đạt đến Phật quả.
Để dễ nhớ ba mươi bảy đạo phẩm này, Pháp Tướng tông (Duy Thức học) có câu: “Tam tứ, nhị ngũ, chích thất, đơn bát”; tức là có ba môn bắt đầu bằng chữ Tứ (Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc), hai môn Ngũ (Ngũ Căn, Ngũ Lực), một môn Thất (Thất Giác Chi) và một môn Bát (Bát Chánh Đạo).
Do ba mươi bảy phẩm trợ đạo chính là cốt tủy của việc tu hành trong mọi pháp môn, dù Tiểu thừa hay Đại Thừa đều phải tuân tu cả, nên xin lược giải thêm về ba khoa còn lại:
1) Tứ Niệm Xứ(còn gọi là Tứ Niệm Trụ):
Niệm là cái tâm quán sát, thuộc về Trí; Xứ là cảnh được quán bởi tâm, như vậy Xứ thuộc về Pháp. Dùng trí quán sát cảnh thì gọi là Niệm Xứ. Quán thành bốn pháp Niệm Xứ này sẽ lìa được bốn nỗi khổ điên đảo do thân, thọ, tâm và pháp gây ra, thành tựu sự vui do bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đem lại.
Tất cả chúng sanh do ngũ uẩn mà sanh khởi bốn thứ điên đảo: đối với Sắc, Thọ sanh khởi Tịnh đảo (bất tịnh mà tưởng là Tịnh nên gọi là Tịnh đảo, tức là chấp Tịnh một cách điên đảo); đối với Thọ khởi Lạc đảo; đối với Tưởng và Hành sanh khởi Ngã đảo; đối với Thức sanh khởi Pháp đảo. Tứ Niệm Xứ chính là diệu dược để đối trị bốn thứ điên đảo ấy, và gồm có:
a. Quán thân bất tịnh: Quán nội ngoại sắc thân (thân của mình là nội thân, thân người khác là ngoại thân) chỉ là do hai thứ cấu nhơ: tinh cha và trứng mẹ kết thành, da, thịt, mủ, máu, mũi rãi, phân tiểu, từ đầu đến chân thuần là bất tịnh; thật đáng ghê tởm! Chúng sanh điên đảo vọng sanh chấp trước, niệm niệm tham luyến, chẳng thấy bất tịnh. Vì thế, Phật dạy quán thân bất tịnh. Nhờ quán thân bất tịnh sẽ đoạn trừ được Thân Kiến. Hành nhân niệm Phật phải thường tưởng niệm cõi Cực Lạc liên hoa hóa thân, rốt ráo thanh tịnh; chẳng như cõi này sắc thân ô uế, dễ hư hoại.
b. Quán Thọ là khổ: nhận lãnh gọi là Thọ. Sáu căn chạm xúc sáu trần có những sự cảm nhận nghịch cảnh, thuận cảnh. Gặp thuận cảnh sanh vui, gặp nghịch cảnh đâm ra buồn khổ. Gặp cảnh chẳng thuận chẳng nghịch phát sanh ý tưởng chẳng khổ, chẳng vui (kinh gọi là Vô Ký). Lạc Thọ chính là Hoại Khổ (vì chóng tan biến mất đi), Khổ Thọ chính là Khổ Khổ (đã khổ còn chịu khổ thêm), Vô Ký Thọ chính là Hành Khổ. Chúng sanh điên đảo tưởng khổ là vui, tham đắm mọi thứ, lầm tạo ác nghiệp, chẳng biết tam giới như nhà lửa. Vì thế, Phật dạy “quán thọ là khổ”. Nhờ quán thọ là khổ sẽ trừ được Ái Kiến. Người niệm Phật nên thường tưởng niệm bốn cõi Tịnh Độ, tất cả những cảnh mình chạm xúc nơi đấy đều diệu lạc thù thắng, chẳng như cõi này thuần khổ không vui.
c. Quán tâm vô thường: Chữ “tâm” ở đây chỉ thức thứ sáu là Ý Thức. Nghĩa là thức tâm này hư vọng, chẳng thật. Chúng sanh do mê muội bất giác nên niệm niệm rong ruổi chấp trước, chẳng biết thức tâm sanh diệt trong từng sát na, chẳng hề có tánh thường trụ. Vì thế, Phật dạy quán tâm vô thường. Do quán điều này, trừ được Tâm Kiến. Người niệm Phật phải thường niệm sự chứng ngộ tự tâm chân tánh thường trụ nơi cõi Cực Lạc, chẳng giống như cái tâm sanh diệt vô thường trong cõi Sa Bà này.
d. Quán pháp vô ngã: Hết thảy y báo, chánh báo trong tam giới của Sa Bà này đều là huyễn hóa, chẳng hề có thật tánh. Chúng sanh điên đảo, lầm chấp nhân ngã thị phi, chốn chốn chấp trước tạo nghiệp thọ khổ. Chẳng biết thân do tứ đại giả hợp, pháp do nhân duyên tạo thành. Quán suốt năm uẩn vốn là vô ngã, nên phá được Ngã Kiến. Vì thế, Phật phải dạy quán pháp vô ngã. Người niệm Phật phải thường tưởng niệm cõi Cực Lạc y báo, chánh báo trang nghiêm, diệu dụng chân thật, chẳng phải như cõi Sa Bà, mọi thứ đều huyễn hóa, giả tạo.
Trong cõi Cực Lạc mọi thứ đều thanh tịnh, sao còn phải diễn giảng bốn pháp này? Đó là ước về Phàm Thánh Đồng Cư độ mà luận. Chúng sanh do đới nghiệp vãng sanh nên Phật dạy họ quán trở lại cõi Sa Bà để hiểu thấu suốt bốn thứ điên đảo, sanh tâm nhàm chán uế độ, một lòng tấn tu đạo nghiệp, mau chứng thượng phẩm.
2) Tứ Chánh Cần(Tứ Chánh Đoạn):
Siêng năng tinh tấn đúng với chánh lý nên gọi là Chánh Cần. Tứ Chánh Cần lấy tinh tấn làm thể, gồm có:
a. Dĩ sanh ác linh diệt(ác đã sanh thì làm cho mất): Lúc hết thảy ác niệm sanh khởi thì mau mau phát tâm từ bi để nhanh chóng trừ diệt ác niệm. Nên biết rằng cứ nhất tâm niệm Phật sẽ đoạn được hết thảy ác niệm.
b. Vị sanh ác linh bất sanh(ác chưa sanh đừng cho sanh): ác niệm tuy chưa phát sanh nhưng thường siêng gắng tinh tấn đề phòng, gìn giữ, khiến chúng vĩnh viễn chẳng thể sanh khởi. Muốn như vậy thì không chi bằng nhất tâm niệm Phật.
c. Vị sanh thiện linh sanh(thiện chưa sanh khiến sanh): Lúc thiện tâm chưa nảy nở thì luôn luôn khởi niệm từ bi, nhất tâm tinh tấn khiến cho thiện niệm mau chóng được phát sanh. Nếu nhất tâm niệm Phật thì hết thảy ác niệm chẳng sanh, đấy chính là sanh khởi hết thảy thiện niệm vậy.
d. Dĩ sanh thiện linh tăng trưởng(thiện đã sanh khiến tăng trưởng): thiện tâm đã sanh phải gìn giữ, vun bồi, luôn luôn tinh tấn khiến nó tăng trưởng thêm. Nếu nhất tâm niệm Phật thì tự nhiên sẽ tăng trưởng hết thảy thiện pháp.
3) Tứ Như Ý Túc:
Bốn pháp này chính là bốn thứ thiền định. Như Ý là sở nguyện được thỏa. Túc có nghĩa là cái để nương dựa vào. Chẳng hạn như thân thể phải nhờ vào chân để đứng. Thực hành bốn pháp thiền định này thì sở cầu mới được như ý, nên gọi là Như Ý Túc. Tứ Như Ý Túc lấy Định làm thể, gồm:
a. Dục Như Ý Túc: Ở đây, Dục có nghĩa là ý thích hâm mộ những điều vui sướng, đã được lợi ích do tu tập thì càng mong đạt nhiều lợi ích hơn nữa. Trong hết thảy việc tu hành, nếu tâm chẳng ham muốn, ưa thích pháp mình đang tu thì làm sao thành tựu được! Người niệm Phật nếu tâm luôn hâm mộ, ham thích cõi Cực Lạc thì sẽ quyết định được vãng sanh.
b. Niệm Như Ý Túc: niệm niệm thuần chánh. Ở đây, Niệm có nghĩa là nhất tâm chuyên chú vào một việc gì. Nếu tu tập mà không chuyên chú nhất tâm vào pháp đang tu thì làm sao thành tựu. Cũng thế, người niệm Phật phải niệm niệm nghĩ nhớ Phật Di Đà, tâm tâm tưởng Cực Lạc thì mới quyết định được vãng sanh.
c. Tấn Như Ý Túc: Tinh Tấn tiến tu, siêng năng không gián đoạn. Dù tu bất cứ pháp nào, không có sự tinh tấn thì không cách chi thành tựu được. Cũng thế, người niệm Phật nếu luôn siêng năng trì niệm một câu Di Đà chẳng ngơi sẽ quyết định được vãng sanh không ngờ gì nữa!
d. Tư Như Ý Túc(còn gọi là Huệ Như Ý Túc): suy nghĩ, so lường cặn kẽ gọi là Tư. Đối với hết thảy pháp tu tập, nếu chẳng xét suy cặn kẽ thì khó lòng thành tựu cho được. Người niệm Phật phải để tâm suy xét, hiểu rõ một cách triệt để rằng trong các pháp môn, pháp Niệm Phật là bậc nhất, biết thế nào là pháp khổ, pháp vui thì tâm mới chân thành tha thiết, thì cõi Cực Lạc mới có phần vậy!
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo này, pháp Tứ Niệm Xứ đứng đầu vì trước hết phải nghe hiểu pháp mới có thể nghĩ nhớ được. Tiếp đó, do nghĩ nhớ sẽ siêng tu nên Tứ Chánh Cần được kể ngay sau Tứ Niệm Xứ. Do siêng năng nên tu và chứng đều đạt được các điều như ý. Vì thế, Tứ Như Ý Túc được liệt vào vị trí thứ ba. Đã Như Ý sẽ tạo thành Ngũ Căn. Do Ngũ Căn nên sẽ có Ngũ Lực, từ Ngũ Lực sẽ dẫn khởi Thất Giác Phần. Cuối cùng, Bát Thánh Đạo chính là đường lối thực tiễn để thực hiện Thất Giác Phần.
Trong kinh này, điều được đề cao là Tín nên kinh nhắc ngay vào Ngũ Căn. Chữ “đẳng” ám chỉ các pháp không kể rõ ra như Tứ Niệm Xứ v.v...
Ba mươi bảy đạo phẩm vừa kể bao trùm vô lượng pháp môn, là căn bản của hết thảy đạo pháp như luận Trí Độ đã xác quyết: “Ba mươi bảy đạo phẩm không gì là chẳng gồm thâu”.Luận Tỳ Bà Sa còn dùng thí dụ sau đây để minh họa: Niệm Xứ như hạt giống, Chánh Cần như gieo trồng, Như Ý như nảy mầm; Ngũ Căn như bén rễ, Ngũ Lực như đâm cành, trổ lá xum xuê; Thất Giác Chi như nở hoa; Bát Thánh Đạo như kết quả. Muốn chứng đắc quả vị mà bỏ qua không thực hành ba mươi bảy đạo phẩm này có khác chi toan mò trăng đáy nước!
“Như thị đẳng pháp”:Hai chữ “như thị” chỉ các pháp Ngũ Căn, Ngũ Lực... vừa nêu trên. Chữ “Đẳng” hàm ý còn nhiều pháp khác nữa như Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần.... hoặc Tứ Nhiếp Pháp, Lục Độ, cho đến vô lượng pháp môn.
Xét về Lý, các pháp Ngũ Căn, Ngũ Lực... biểu thị tự tánh sẵn có vô lượng pháp môn.
Phần Bốn
1.2.1.3.3. Văn pháp hoạch ích(nghe pháp được lợi ích)
Chánh kinh:
Kỳ độ chúng sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
(Chúng sanh cõi ấy nghe những tiếng đó xong, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng)
Giải:
“Kỳ độ”(cõi ấy) tức là cõi Cực Lạc.
“Văn thị âm dĩ”:chữ “thị âm” chỉ các pháp âm do các loài chim phát ra, Dĩ có nghĩa là đã xong, đã hoàn tất. Ý nói: sau khi được nghe các pháp âm ấy, ai nấy đều xưng niệm Tam Bảo, nên bảo là “giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”.
Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo. Bảo có nghĩa là tôn quý. Phật, Pháp, Tăng là ba thứ tôn quý nhất trong mọi pháp xuất thế và thế gian.
Phật được gọi là Lưỡng Túc Tôn vì phước lẫn huệ đều trọn vẹn. Pháp được gọi là Ly Dục Tôn vì có thể khiến cho hết thảy thoát ly dục lạc. Tăng được xưng là Chúng Trung Tôn vì làm bậc thầy, là khuôn mẫu cho chúng sanh noi theo, rất đáng tôn kính. Tam Bảo có thể cứu giúp cho chúng sanh xuất ly nỗi khổ sanh tử, hưởng vui Niết Bàn nên còn quý hơn tài bảo thế gian. Vì của cải thế gian chỉ có thể đem lại no ấm cùng những dục lạc hư huyễn trong thế gian, không đem lại sự vui vĩnh viễn, giải thoát trọn vẹn sanh tử như Tam Bảo.
Tam Bảo lại có nhiều loại:
1) Tam Thân Tam Bảo: Tam Bảo tương ứng với Pháp Thân, Báo Thân và Ứng Thân.
a. Pháp Thân Tam Bảo: Tự tánh bất biến là Phật Bảo. Tịch mà thường chiếu là Pháp Bảo. Tịch lẫn chiếu chẳng hai là Tăng Bảo.
b. Báo Thân Tam Bảo: Tự tánh bất biến, chiếu mà thường tịch là Phật Bảo. Diệu dụng tùy duyên, tịch mà thường chiếu là Pháp Bảo. Dẫu thị hiện vẫn chẳng lìa tịch diệt là Tăng Bảo.
c. Ứng thân Tam Bảo: Đức Thích Ca giáng tích hoàng cung, thị hiện tám tướng thành đạo, đầy đủ ba mươi hai tướng hảo là Phật Bảo. Ba tạng diệu điển là Pháp Bảo. Đại chúng thường theo học với Phật từ khi Ngài chuyển pháp luân là Tăng Bảo.
2) Tứ giáo Tam Bảo:
a. Tạng giáo Tam Bảo: Đoạn sạch kiến hoặc và tư hoặc, chứng Niết Bàn thiên không chính là Phật Bảo. Sanh diệt Tứ Đế, sanh diệt thập nhị nhân duyên, pháp môn Lục Độ chỉ thuộc về Sự thì gọi là Pháp Bảo. Tu tập Không Quán theo kiểu phân tích, kể từ bậc đoạn Kiến Hoặc trở xuống là Tăng Bảo.
b. Thông Giáo Tam Bảo: Đoạn Kiến - Tư Hoặc, đánh phá tập khí, chứng chân đế Niết Bàn là Phật Bảo. Vô sanh Tứ Đế, bất sanh diệt thập nhị nhân duyên, pháp môn Lục Độ thuộc về mặt Lý chính là Pháp Bảo. Tu Không Quán theo kiểu thể nhận bản thể, từ bậc đánh phá tập khí trở xuống thì thuộc về Tăng Bảo.
c. Biệt giáo Tam Bảo: Đoạn Kiến, Tư, Trần Sa Hoặc, lại đoạn mười hai phẩm vô minh, chứng Trung Đạo Vô Trụ Niết Bàn thì là Phật Bảo. Vô lượng Tứ Đế, bất tư nghị nhân duyên, bất tư nghị lục độ pháp môn... là Pháp Bảo. Lần lượt tu Tam Quán (Không, Giả, Trung), đoạn sạch Kiến, Tư, Trần Sa Hoặc, từ bậc đoạn mười hai phẩm vô minh trở xuống là Tăng Bảo.
d. Viên Giáo Tam Bảo:Đoạn sạch ba hoặc, vĩnh viễn dứt trừ hai thứ sanh tử (phần đoạn và biến dịch), chứng trọn vẹn ba đức rốt ráo của Niết Bàn (pháp thân, giải thoát, Bát Nhã) thì là Phật Bảo. Vô tác Tứ Đế, bất tư nghị thập nhị nhân duyên, xứng tánh lục độ pháp môn v.v... là Pháp Bảo. Tu nhất tâm tam quán, đoạn từ mười hai phẩm vô minh trở lên là Tăng Bảo.
3) Trụ Trì Tam Bảo:
Trụ là ở trong thế gian. Như vậy, Trụ Trì Tam Bảo chính là thế gian Tam Bảo. Trì có nghĩa là duy trì, ý nói: huệ mạng của Phật phải nhờ vào loại Tam Bảo này mới tồn tại trong thế gian dài lâu. Các tượng Phật bằng đủ các chất liệu chính là Phật Bảo. Tam Tạng kinh, luật, luận chính Pháp Bảo, tỳ kheo nghiêm trì giới luật, hoằng truyền thánh giáo chính là Tăng Bảo.
4) Tự Tánh Tam Bảo:
Lấy tự tánh linh giác chẳng mê muội của chúng sanh làm Phật Bảo. Lấy tánh có sẵn đủ hằng sa công đức làm Pháp Bảo. Tánh tướng bất nhị, lý trí ngầm dung thông nhau chính là Tăng Bảo.
Tứ giáo Tam Bảo, Tam thân Tam Bảo và Trụ Trì Tam Bảo là tướng, nhưng tướng vốn hàm chứa tánh, nhất thể Tam Bảo (tự tánh Tam Bảo) là tánh. Tánh chẳng rời tướng, tánh hiện hữu nơi tướng, nên tánh, tướng bất nhị vậy.
Các loài chim biến hóa nơi cõi Cực Lạc hót ra những tiếng tuyệt mỹ nào phải chỉ để người nghe sướng tai, khoái ý thôi đâu! Tiếng chim hót còn diễn đủ mọi pháp Tiểu thừa, Đại Thừa, Nhất Thừa, khiến cho người cõi Cực Lạc sanh khởi ý niệm xưng tán Tam Bảo, tấn tu đạo nghiệp. Cõi Cực Lạc dùng đủ mọi phương tiện phù hợp căn tánh muôn loài để khuyên nhắc, cổ vũ. Người nghe pháp hỷ sung mãn, quảng phát Bồ Đề tâm. Thật là diệu dụng bất tư nghì của đức Từ Phụ A Di Đà vậy!
Ba chữ “niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng” còn có thể hiểu như sau:
- Chúng sanh sống trong cõi Cực Lạc, nghĩ nhớ đến nguyện lực rộng lớn, oai đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Từ Phụ. Đó chính là niệm Phật.
- Nghĩ đến chim chóc, cây cối, nước, gió... đều diễn diệu pháp, nghe xong giải ngộ, tâm sanh hoan hỷ như được uống cam lộ, hưởng niềm vui pháp vị. Đấy chính là niệm Pháp.
- Nghĩ nhớ các Bồ Tát và các bậc thượng thiện nhân thường yêu mến, bảo vệ mình, thường được ở chung một nơi với các Ngài, đồng tu, đồng chứng. Đấy chính là niệm Tăng.
Giải thích như vậy là ước theo Tam Bảo của người khác mà luận. Đó chính là Sự niệm. Nếu theo tự tánh Tam Bảo mà luận thì:
- Các loài chim trong cõi Cực Lạc hót tiếng mầu nhiệm, xưng tán trọn vẹn các công đức của Phật, khiến cho người nghe liền ngộ giải bổn giác thanh tịnh thường trụ Phật tánh của chính mình. Đấy là niệm Phật.
- Hoặc tiếng chim tuyên dương tam thừa diệu pháp, khiến người nghe ngộ giải hằng sa pháp môn sẵn đủ nơi tự tánh của chính mình. Đấy chính là niệm Pháp.
- Hoặc tiếng chim diễn nói pháp chứng đắc của tam thừa, khiến cho người nghe ngộ giải lý trí hòa hợp, tự tánh bất nhị. Đấy chính là niệm Tăng.
Niệm như vậy là Lý niệm.
Thêm nữa:
- Quán tự tâm thường chiếu, các pháp vằng vặc phân minh. Đấy là niệm Phật.
- Quán tự tâm chiếu mà thường tịch, trọn không có hai pháp. Đấy là niệm Pháp.
- Quán tự tâm tịch mà thường chiếu, chiếu nhưng thường tịch, còn chính là mất, mất chính là còn, có chính là không, không tức là có, trong không có Diệu Hữu. Đấy là niệm Tăng.
Niệm Tam Bảo một cách viên mãn thì sẽ phát khởi trọn vẹn ba tâm: Niệm Phật chính là chánh nhân để phát khởi Lý tâm Phật tánh. Niệm Pháp là liễu nhân để phát khởi Huệ Tâm Phật Tánh. Niệm Tăng chính là duyên nhân để phát khởi Thiện Tâm Phật Tánh. Ba tâm đã phát khởi viên mãn thì ba hoặc (Kiến, Tư, Trần Sa) sẽ đoạn trừ trọn vẹn nên tự nhiên sẽ chứng lên ba ngôi Bất Thoái vậy.
Nếu luận theo Lý, Tam Bảo được nói trong kinh A Di Đà đây là nhằm biểu thị tự tánh sẵn đủ ba đức: Phật là Pháp Thân đức; Pháp là Bát Nhã đức; Tăng là Giải Thoát đức.
1.2.1.3.4. Vĩnh vô ác đạo(trọn không có các đường ác)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Nhữ vật vị thử điểu, thật thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ vô tam ác đạo.
Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữuthật?
(Xá Lợi Phất! Ông chớ bảo những loài chim ấy thật vì tội báo mà sanh. Vì sao như thế? Cõi nước Phật ấy không có ba đường ác.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy còn không có cái tên ác đạo, huống hồ là thật có?)
Giải:
Đây là đoạn kinh văn để phá nghi cho thính chúng. Đức Thế Tôn sợ thính chúng đâm nghi: trong bốn mươi tám nguyện, Đức Di Đà từng thệ nước Ngài trọn không có tam ác đạo. Cớ sao cõi Ngài lại có lắm chim như thế, há chẳng phải là điều mâu thuẫn với bổn nguyện xưa kia hay sao? Chúng sanh được vãng sanh cõi Tịnh Độ luôn luôn được nghe diệu pháp nhuần thấm thân tâm, đoạn hẳn các ác niệm tham, sân, si... vì sao lại phải chiêu cảm lấy tội báo sanh trong cầm thú như thế?
Để đoạn trừ những mối nghi ấy, Phật phải răn dè đừng sanh khởi những nghi vấn lầm lạc như thế, cũng như giải thích rõ duyên do hiện hữu của các loài chim đó.
“Vật vị”(đừng bảo, đừng nói) là tiếng dùng để răn nhắc; ý nói: chớ đừng hiểu lầm, rồi nói sai lạc là những loài chim đẹp đẽ, hót hay ấy chính là kết quả của tội báo. Chúng sanh cõi Cực Lạc tâm niệm thuần thanh tịnh, lẽ đâu lại phải chiêu cảm lấy nghiệp phải sanh trong ác đạo?
Hai chữ “thử thị”chỉ những loài chim đã kể ở trên như bạch hạc, khổng tước v.v...
“Tội báo sở sanh”nghĩa là do tạo tội nghiệp nên chiêu cảm ác báo thọ sanh trong đường ác.
“Sở dĩ giả hà?”là câu hỏi; ý nói: Vì sao chẳng được nói xằng là những con chim ấy do tội báo mà có?
Tiếp đó, là lý do: Cõi Cực Lạc do đại nguyện hạnh công đức trang nghiêm của đấng Từ Phụ A Di Đà tạo thành, trọn không có tam ác đạo.
Tam Ác Đạo, còn gọi là Tam Đồ, hoặc Tam Ác Thú, tức là:
a) Địa Ngục: tiếng Phạn là Na Lạc Ca, nơi thọ khổ kịch liệt.
b) Ngạ Quỷ (quỷ đói): chịu nhiều khủng bố, đói khát dài lâu cả mấy ngàn năm. Nếu tội nghiệp thâm trọng, dù có đến bên thực phẩm cũng chẳng ăn được.
c) Súc Sanh: còn gọi là Bàng Sanh, do tạo nghiệp phải thọ báo xương sống nằm ngang. Súc Sanh chỉ chung muôn loài chim bay, thú chạy, côn trùng. Trong cảnh giới này, chúng luôn ăn nuốt, áp bức lẫn nhau.
Do đây là ba cảnh giới cảm thọ của kẻ tạo ác nên gọi là Tam Ác Đạo.
Keo kiệt, bủn xỉn là nhân của Ngạ Quỷ. Nóng giận là nhân của Địa Ngục. Ngu si là nhân của Súc Sanh.
Cõi Cực Lạc trang nghiêm khôn sánh, thất bảo hợp thành, nghĩ đến ăn liền có, nghĩ đến mặc liền được, hết thảy mong cầu thảy được như ý. Còn chỗ nào để Tham phát sanh nữa ư? Các vị Bồ Tát và hàng thượng thiện nhân cõi ấy yêu kính, hỗ trợ nhau thì Sân làm sao còn phát khởi cho được? Hết thảy chúng sanh thường nghe diệu pháp, tâm thường liễu ngộ, thì làm sao còn Si được nữa? Đã không có ba ác nhân ấy, lẽ nào còn có khổ quả tam đồ! Bởi thế, Phật khẳng định: “Vô tam ác đạo”.
“Kỳ Phật quốc độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thật?”(cõi nước Phật ấy còn không có cái tên ác đạo, huống là thật có?): Dùng ngay chánh nguyện của đức Di Đà để giảng rõ duyên do không có ba ác đạo. Đời đời, kiếp kiếp, đức Phật A Di Đà chẳng hề trái nghịch bổn nguyện. Nếu bổn nguyện bị trái làm sao thành Phật được? Ngài từng phát nguyện: “Như lúc tôi thành Phật, trong nước tôi ai nấy chẳng nghe đến những danh hiệu bất thiện”. Bởi bổn nguyện đó, trong cõi Cực Lạc, tên của ba ác đạo vĩnh viễn không bao giờ được nghe nói đến. Chỉ cái tên suông còn không có thì làm sao có chuyện những loài chim ấy thật sự là do ác báo chiêu cảm cho được!
1.2.1.3.5. Phật lực sở thành(do Phật lực mà thành tựu những sự như thế)
Chánh kinh:
Thị chư chúng điểu giai do A Di Đà Phật, dục linh pháp âm tuyên lưu, biến hóa sở tác.
(Các loài chim ấy đều do A Di Đà Phật muốn cho pháp âm được lưu turyền nên biến hóa ra).
Giải:
Đoạn kinh văn này giảng rõ duyên khởi của các loài chim ấy. Hết thảy những giống chim kỳ diệu đó đều là do đức Từ Phụ A Di Đà vận dụng thần lực chẳng thể nghĩ bàn biến hiện ra, ngõ hầu trong suốt sáu thời, pháp âm luôn được diễn xướng, lưu truyền, khiến cho chúng sanh không lúc nào, không chỗ nào chẳng nghe. Do thường nghe nên luôn được lợi ích vô tận (đây chính là kết quả của lời nguyện thứ mười sáu “tùy hỷ nghe pháp”).
Những loài chim trong cõi Cực Lạc chẳng thuộc loài súc sanh là quả báo của ngu si, cũng chẳng phải là loài thiên điểu dẫu có thể thuyết pháp nhưng vẫn chẳng lìa khỏi nghiệp báo (nghĩa là: những kẻ lúc làm người miệng hay giảng pháp, nhưng chẳng tu hành chân thật, thì sau khi chết đi, sẽ cảm báo sanh làm loài chim trên cõi trời. Do thói quen cũ, vẫn có khả năng thuyết pháp, nhưng vẫn là do nghiệp báo chiêu cảm, chứ không phải do chư Phật biến hiện ra).
Xét về Lý:
- “Vô tam ác đạo” biểu thị tự tánh vốn không có các phiền não tham, sân, si...
- “Biến hóa sở tác” biểu thị tự tánh có diệu dụng tùy duyên biến hiện.
Hỏi: Di Đà thần lực, biến ra đủ loại thân Phật, khiến ai thấy tướng hảo cũng đều phát tâm, nghe phạm âm ngộ đạo, sao nay lại hóa làm loài chim để giảng diễn pháp môn?
Đáp: Hóa thân làm Phật chưa đủ lạ lùng, hy hữu. Hiện làm chim thiêng thật là hiếm có. Chúng sanh thấy chim còn có khả năng thuyết pháp vi diệu như thế sẽ phát sanh ý tưởng thù thắng, tín tâm càng sâu chắc. Đâu phải chỉ linh cầm thuyết pháp không thôi, nào là rừng quỳnh, lưới báu cũng đều diễn pháp âm, suối chảy, gió lay cũng cực đàm chân giáo!
Ngoài ra, chúng sanh do đới nghiệp vãng sanh nên tập khí vẫn còn. Thuận theo tâm ý ưa thích các loài chim đẹp lạ, hót hay, cũng như tâm trạng ưa thích chuyện hiếu kỳ của họ mà Phật hóa hiện như thế, để làm phương tiện dẫn dụ họ luôn tưởng niệm, tu tập diệu pháp.
Nói cách khác, Phật biến hiện ra các loài linh cầm thuyết pháp chính là để thành tựu Tứ Tất Đàn:
a) Thế giới tất đàn: thuận theo tâm ưa thích của chúng sanh, hóa hiện các loài chim đẹp đẽ, hót hay khiến họ hoan hỷ.
b) Nhân tất đàn: chim thường thuyết pháp kỳ diệu khiến người luôn phát sanh thiện niệm.
c) Đối trị tất đàn: do thấy chim có khả năng diễn thuyết pháp vi diệu như thế, không còn dám coi thường chúng, tâm phân biệt tự mất.
d) Đệ nhất nghĩa tất đàn: Do chim chính là Ứng Thân của Phật Di Đà nên chúng sanh sẽ giải ngộ: Phật, chúng sanh và Pháp Thân bình đẳng.
1.2.1.4. Phong thọ hiệp vận(gió và cây cùng hòa tiếng)
1.2.1.4.1. Chánh xuất diệu âm(nói về âm thanh mầu nhiệm)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động chư bảo hàng thọ cập bảo la võng, xuất vi diệu âm. Thí như bách thiên chủng nhạc đồng thời câu tác.
(Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và lưới mành báu, vang tiếng vi diệu; ví như trăm ngàn thứ nhạc đồng thời hòa tấu).
Giải:
Đoạn kinh trước minh thị hữu tình thuyết pháp, đoạn này trần thuật vô tình thuyết pháp. Như vậy, hữu tình lẫn vô tình đều có khả năng tuyên dương pháp âm, khiến người nghe phát tâm Bồ Đề dũng mãnh, tưởng niệm Tam Bảo, được lợi ích thù thắng. Đó cũng là một trong các thắng duyên giúp cho chúng sanh chứng được Bất Thoái.
“Vi phong”là gió nhẹ, trong lành, nhu hòa, chẳng nhanh, chẳng chậm, chẳng nóng, chẳng lạnh, khiến người yêu thích.
“Chư bảo hàng thọ”là những hàng cây báu do thất bảo hợp thành, chỉnh tề chẳng loạn.
“Bảo la võng”là những mành lưới do các thứ báu kết thành. Mỗi khi gió nhẹ thổi qua, chúng khua động lẫn nhau, chạm ngọc, lay vàng, tạo thành vô lượng âm thanh vi diệu, thánh thót, ngân nga, thù thắng không cách gì diễn tả trọn hết nổi. Vì thế, kinh đành mượn tạm thí dụ “trăm ngàn thứ âm nhạc cùng hòa tấu” để hình dung ít phần. Chứ kỳ thật, dù trăm ngàn thứ nhạc hòa tấu cũng chẳng bằng được một phần trong vạn phần. Kinh Đại Bổn từng so sánh nhạc ấy còn hay hơn trăm ngàn vạn lần nhạc trong cõi trời Lục Dục.
“Vi phong” chính là ngọn gió tốt lành nhất trong những ngọn gió, diệu âm chính là âm thanh tối thắng trong các âm thanh. Cũng giống như tiếng hót của các hóa cầm, tiếng nhạc này cũng diễn thuyết diệu pháp. Do những tiếng nhạc ấy vượt hơn hết thảy nên bảo là Vi, có khả năng diễn pháp nên bảo là Diệu.
Xét về Lý;
- Gió nhẹ thổi các hàng cây báu biểu thị trí Tam Quán chiếu Tam Đế Lý (trí đồng pháp giới như gió, lý chứa vạn pháp như cây).
- Trăm ngàn thứ nhạc đồng thời cùng tấu biểu thị nhất niệm bổn tâm sẵn đủ bách giới thiên như (4).
1.2.1.4.2. Văn thanh tấn đạo(nghe âm thanh tăng tấn đạo nghiệp)
Chánh kinh:
Văn thị âm dĩ, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm.
(Nghe tiếng này rồi, tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng).
Giải:
Chữ “âm” trong câu “văn thị âm”chỉ những âm thanh vi diệu do gió lùa qua cây báu, mành lưới báu phát ra, cũng như những pháp âm được diễn nói.
Chữ “tự nhiên” hàm ý: Chẳng cần phải nhắc nhở, khuyến khích, tâm xưng niệm Tam Bảo cứ tự nhiên phát sanh.
Niệm Phật lại có ba loại:
a) Tâm niệm: trong tâm thường tưởng nghĩ đến Phật.
b) Niệm nhỏ tiếng chỉ vừa đủ riêng mình nghe.
c) Niệm lớn tiếng. Niệm lớn tiếng có mười công đức:
- Trừ được sự mê ngủ.
- Thiên ma kinh sợ.
- Tiếng niệm nghe thấu mười phương.
- Dứt sự khổ trong tam đồ.
- Những tiếng động bên ngoài không xâm nhập được.
- Tâm chẳng tán loạn.
- Dũng mãnh tinh tấn.
- Chư Phật hoan hỷ.
- Tam muội hiện tiền.
- Vãng sanh Tịnh Độ.
Niệm Phật còn phân biệt ra bốn loại như sau:
a. Tâm niệm miệng chẳng niệm.
b. Miệng niệm tâm chẳng niệm.
c. Tâm lẫn miệng cùng niệm.
d. Tâm lẫn miệng đều không niệm.
Trong bốn loại này, nên thực hành loại thứ nhất và loại thứ ba.
Hỏi: Nước, chim, cây cối v.v... ngày đêm phát ra âm thanh thuyết pháp không lúc nào gián đoạn, phải chăng là quá ồn náo, những người ưa thích sự tịch tĩnh biết làm thế nào đây?
Đáp: Cõi Cực Lạc chẳng phải như Sa Bà, hết thảy diệu âm đều là do công đức chẳng thể nghĩ bàn của Đức Phật A Di Đà tạo thành, mỗi thứ gì trong cõi ấy cũng đều tùy thuận tâm nguyện của chúng sanh. Những âm thanh cũng không ngoại lệ. Người muốn nghe thì được nghe, người thích lặng lẽ thì tự nhiên cảm thấy lặng lẽ, như kinh Đại Bổn đã giảng rõ: “Muốn được nghe thì riêng mình liền được nghe. Ai chẳng muốn nghe liền riêng mình chẳng nghe”.
Hơn nữa: Vạn pháp duy tâm. Nếu như tâm địa không bị ngăn lấp thì hết thảy những cảnh chạm vào mắt không thứ nào chẳng phải là cảnh thù thắng, tiếng nào lọt vào tai cũng thành chân lý mầu nhiệm; chứ phải đâu mình cõi Tây phương? Cổ đức đã nói:
Khê thanh tận thị quảng trường thiệt,
Sơn sắc vô phi thanh tịnh thân
(Tiếng suối thảy đều là tướng lưỡi rộng dài, không sắc núi nào chẳng phải là thân thanh tịnh).
Lại như Ngài Hương Nghiêm nghe tiếng tre đụng nhau mà ngộ đạo, cho đến cổ nhân nghe tiếng oanh kêu mà đốn ngộ. Có phải là đối với bậc đốn ngộ thì hữu tình lẫn vô tình cõi này cũng có khả năng thuyết pháp đó chăng? (Trúc là vô tình, oanh là hữu tình). Huống hồ tiếng nước, tiếng chim, tiếng cây cõi Cực Lạc lại chẳng được vậy sao? Chẳng qua là người mê vẫn cứ mờ mịt chẳng tỉnh, người ngộ khoảnh khắc hiểu rõ. Nếu như có thể chẳng chấp khăng khăng Sự là Sự thì toàn Sự tức là Lý, chẳng chấp chết cảnh là cảnh, thì toàn cảnh tức là tâm. Sự lý viên dung, tâm cảnh bất nhị, thứ gì cũng là đạo, vật gì cũng là tự tánh cả, như thường nói: “Tình và vô tình đồng viên chủng trí”.
Được như vậy thì chim oanh mùa Xuân, cái én mùa Thu cũng có thể luận đàm diệu đế; trúc biếc, tùng xanh nào ngại phô trọn lý chân; lẽ đương nhiên như thế. Nếu chẳng thể triệt ngộ lý này, chưa đích thân chứng được cảnh này thì dẫu có bàn suông lẽ duy tâm, luận suông thánh cảnh, vẫn đọa vào Thiên Không, vạn kiếp chẳng được nghe danh hiệu Phật mà thôi!
1.2.1.4.3. Tổng kết nhị nghiêm (tổng kết hai sự trang nghiêm)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
(Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế)
Giải:
Đoạn kinh văn này tổng kết hai sự trang nghiêm vừa được nói trong đoạn trước: chim thiêng thuyết pháp và gió thổi cây vang diệu pháp. Cứ mỗi đoạn, đức Thế Tôn lại kết lại từng điều đã dạy ngõ hầu người nghe thâm tín Cực Lạc, mau mau phát nguyện cầu sanh Tây Phương.
Chữ “như thị” chỉ chim thiêng thuyết pháp, diệu âm phát ra khi gió thổi qua cây báu. Những thứ ấy đều là do nguyện hạnh, công đức của đức Di Đà tạo thành. Khi tu nhân, đức A Di Đà từng nguyện: “Lúc tôi thành Phật, người trong nước tôi, tùy theo chí nguyện, những điều muốn nghe tự nhiên được nghe. Nếu chẳng thế, chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Bởi thế, chim biến hóa và tiếng vi diệu do gió lùa qua cây báu đều là do đại nguyện ấy cảm thành.
Kinh còn chép: “Sau khi phát nguyện, tu hành, Ngài thường dùng vẻ mặt từ hòa, lời nói dịu dàng để làm lợi lạc cho chúng sanh”; bởi đó, chim thiêng, cây báu đều phát ra diệu âm. Kinh còn chép: “Đối với Phật, Pháp, Tăng, Ngài luôn tín trọng cung kính”;vì thế, nay chúng sanh nghe những diệu âm ấy đều tưởng niệm Tam Bảo.
Cứ thế mà suy, ta thấy rõ: Mỗi một sự trang nghiêm trong cõi Cực Lạc, không điều gì chẳng phải là do nguyện hạnh của đức Di Đà cảm thành. Nguyện hạnh chính là cái nhân dẫn khởi sự trang nghiêm, sự thành tựu. Chim, cây, gió, nước v.v... cho đến hết thảy sự trang nghiêm chính là quả được thành tựu vậy.
Nên biết rằng: pháp pháp duy tâm, tự tánh vốn sẵn Cực Lạc, tự tánh chính là Di Đà. Thế nên kinh mới dạy: “Tâm tịnh thì cõi nước tịnh, tâm sáng Phật hiện tiền”.Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà nghĩa là như vậy. Hết thảy những cảnh thù thắng trang nghiêm của cõi Cực Lạc là những thứ luôn sẵn có trong tự tánh của chính chúng ta, nào phải từ bên ngoài mà thành. Chẳng hạn như: lan can báu, hàng cây báu chính là do tự tâm sẵn có vạn thiện trí đức mà thành; ao, gác, hoa sen là do tự tâm sẵn có thắng nhân Đại Thừa huệ hạnh mà thành...
Muốn chứng ngộ điều ấy, phải mau phát tâm tinh tấn, phát nguyện niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, thì tâm sẽ tự nhiên rỗng toang, khai ngộ, chứng ngay tự tánh Di Đà, thấy ngay duy tâm Tịnh Độ! Lúc ấy tự - tha nào còn ngăn cách, như người uống nước lạnh nóng tự hay, bất tất phải khoa môi múa mép luận bàn xuông nữa ư!
1.2.2. Chánh báo trang nghiêm
1.2.2.1. Giáo chủ
1.2.2.1.1. Lược thích danh hiệu(giải thích sơ lược về danh hiệu của đấng giáo chủ)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà?
(Xá Lợi Phất! Ông nghĩ thế nào? Cớ sao Đức Phật ấy hiệu là A Di Đà?)
Giải:
Đoạn này trình bày về sự trang nghiêm nơi chánh báo. Chánh báo gồm có Chủ và Bạn. Chủ tức là giáo chủ cõi Cực Lạc, tức Phật A Di Đà. Bạn là chúng Thanh Văn, Bồ Tát, thiên nhân cõi Cực Lạc.
Trước hết, Đức Phật giải thích ý nghĩa của danh hiệu A Di Đà vì danh hiệu A Di Đà chính là tông yếu của toàn bộ bản kinh này. Đấy chính là vạn đức hồng danh, là diệu dược để cứu độ chúng sanh trong thời Mạt Pháp. Trì Danh chính là pháp môn Phật muốn đặc biệt đề cao trong kinh này, nên Ngài mới giải thích hai ý nghĩa chính yếu của danh hiệu A Di Đà.
Pháp môn Trì Danh được xưng tụng là diệu hạnh là vì:
1) Chỉ trì một câu danh hiệu Phật mà có thể vượt ngang ra khỏi tam giới. Đấy chính là đường lối tu hành giản tiện, nhanh chóng, ngắn gọn nhất.
2) Chỉ cần mười niệm thành tựu liền được đới nghiệp vãng sanh. Đấy chính là điều kỳ diệu đặc biệt lạ lùng nhất.
3) Chỉ cần vãng sanh Cực Lạc ắt sẽ chứng đắc ba thứ bất thoái. Đấy chính là điều mầu nhiệm viên đốn nhất.
Để dẫn khởi đến việc giải thích ý nghĩa thù thắng của danh hiệu A Di Đà, Đức Phật nêu câu hỏi: “Ư nhữ ý vân hà?”(ý ông nghĩ thế nào?)
Chữ Ý ở đây cho thấy Ngài Xá Lợi Phất đã hiểu ý nghĩa danh hiệu A Di Đà, nhưng vẫn lặng thinh không đáp. Bởi lẽ, Ngài là bậc Bồ Tát thị hiện thân Thanh Văn, là bậc trí huệ đệ nhất, lẽ đâu không biết đến nghĩa lý thù thắng này. Ngài lặng thinh vì muốn đích thân kim khẩu của đức Thích Tôn giảng diễn, ngõ hầu tứ chúng trong pháp hội lẫn vô lượng chúng sanh trong muôn đời sau đều sanh lòng thâm tín nơi danh hiệu A Di Đà thù thắng này.
Hơn nữa, trí huệ của Ngài Xá Lợi Phất dù là bậc nhất, vẫn chẳng thể sánh bằng Phật trí. Với trí huệ thù thắng siêu việt của bậc Đại Giác, đức Thế Tôn sẽ chọn lấy những ý nghĩa thù thắng đặc biệt nhất trong vô lượng ý nghĩa thù thắng chẳng thể nghĩ bàn của danh hiệu A Di Đà khiến cho thính chúng đều được hưởng vô biên lợi ích.
Nếu xét theo Lý, câu hỏi: “Ư nhữ ý vân hà?” chính là câu nhắc nhở hành nhân phải hồi quang phản chiếu nơi tự tánh để nhận chân ý nghĩa của danh hiệu A Di Đà.
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại. Thị cố hiệu vi A Di Đà.
(Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy quang minh vô lượng chiếu mười phương cõi nước, chẳng bị chướng ngại. Vì thế, hiệu là A Di Đà)
Giải:
Danh hiệu của đức giáo chủ cõi Cực Lạc bao hàm vô lượng nghĩa. Kinh này chỉ chú trọng đến 2 phương diện: quang minh và thọ lượng.
“A Di Đà”: Hán dịch là Vô Lượng Quang, ý nói đức Phật A Di Đà có vô lượng quang minh. Ngài còn được gọi là Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang cho đến Siêu Nhật Nguyệt Quang. Các danh hiệu này đều hàm ý quang minh thù thắng vô lượng.
Trong Mật giáo, còn xưng Ngài là Cam Lộ Vương Như Lai. Bồ Đề Tâm Nghi Quỹ chép: “Đức Phật này còn gọi là Vô Lượng Thọ Phật, tiếng Phạn là A Di Đà Du Sái (Amitayus); hoặc là A Di Đà Bà Da Bột Đà (Amitabhaya Buddha). Hán dịch là Vô Lượng Quang Minh Phật”. Sở dĩ, Ngài được gọi là Cam Lộ Vương vì chú Vãng Sanh có đến mười chữ A Mi Lật Đa (amrta – cam lộ). Cũng vì thế, chú Vãng Sanh còn được gọi là Thập Cam Lộ Chú.
Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Quang minh của Đức Phật rực rỡ đẹp đẽ hết sức, kỳ diệu, thù thắng vô cực, sáng hơn ánh sáng của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần, là vua trong các quang minh của chư Phật. Vì thế, Ngài hiệu là Vô Lượng Quang Phật”.
Đây là kết quả của lời nguyện thứ 12 khi Ngài còn đang tu nhân: “Lúc tôi thành Phật mà quang minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu thấu trăm ngàn vạn ức na do các cõi Phật thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”.Kinh Vô Lượng Thọ bảo: “Quang minh của Đức Phật ấy chiếu xa nhất, quang minh của chư Phật chẳng bằng”.
Quang minh của Phật có hai loại:
1) Nội quang: tức là dùng trí để chiếu Lý.
2) Ngoại quang: tức là quang minh nơi thân, chiếu soi ra ngoài.
Quang minh nói trong kinh này chính là ngoại quang.
Lại có ba loại quang minh như sau:
1) Bổn quang: quang minh của Pháp Thân, rất viên dung, chẳng có hạn lượng.
2) Trí quang: quang minh của Báo Thân, chiếu trọn khắp pháp giới.
3) Thân quang: quang minh của Ứng Thân, tùy theo cơ cảm mà biến hiện. Thân quang lại chia thành hai loại: Thường quang và phóng quang.
a. Thường quang: Chẳng hạn như đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật quang minh chiếu xa một tầm (khoảng tám thước).
b. Phóng quang: do nhân duyên đặc biệt, Phật liền phóng quang từ ngay diện môn (phần giữa mũi và miệng) hoặc phóng quang từ giữa hai mày, cho đến các quang minh phát ra từ chân, tay, toàn thân v.v...
Vô lượng quang nói ở đây chính là quang minh của Ứng Thân kể cả Thường Quang lẫn Phóng Quang. Chữ “vô lượng” biểu thị quang minh tột bực thù thắng. Câu “chiếu mười phương cõi nước” biểu thị cảnh được chiếu thật là rộng lớn; chẳng phải chỉ hạn cuộc trong một hai thế giới.
“Vô sở chướng ngại”(chẳng bị chướng ngại) nghĩa là chiếu một cách triệt để, xuyên núi, thấu vách, tột cùng chốn sâu kín, xuyên suốt chốn tối tăm. Thế gian thường bảo mặt trời là lớn nhất, nhưng thật ra mặt trời chỉ chiếu khắp tứ đại châu, vẫn bị mây giá, sương mù che khuất ánh sáng; cũng chẳng chiếu thấu khoảng dưới đáy chậu úp hay những vật giấu trong nhà tối. Như vậy, chẳng những quang minh của mặt trời có hạn lượng mà còn bị chướng ngại nữa. Nếu đem so với Phật quang, thật chẳng khác đem vi trần sánh với núi Tu Di vậy.
Nói vậy ắt sẽ có kẻ gạn rằng: Phật quang đã chiếu khắp mười phương, không chi chướng ngại, sao ta chẳng thấy được Phật quang?
Đáp: Phàm phu bị Tư Hoặc, Trần Sa, vô minh là các thứ phiền não chướng lấp nên chẳng tương ứng với Giác Tánh của Phật, lại tương ứng trần lao (bội giác hiệp trần) nên chẳng thấy được Phật quang. Cũng giống như mặt trời chiếu khắp đại địa, nhưng kẻ đui chẳng thấy được, có nên bảo là do chưa từng thấy nên bảo xằng là chẳng có ánh mặt trời hay chăng? Chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, dẫu Phật quang hiện tiền vẫn chẳng được thấy. Nếu đã đủ thiện căn, lại thêm sức tín nguyện tha thiết, chân thành niệm Phật thì còn thấy được thân Phật, huống hồ là quang minh?
Hơn nữa, theo kinh Vô Lượng Thọ, quang minh của Đức Phật A Di Đà có công năng khiến cho chúng sanh khi được quang minh ấy chiếu đến thì tam cấu (ba thứ phiền não: Tư Hoặc, Kiến Hoặc, Trần Sa) sẽ hoàn toàn tiêu trừ, dứt sạch mọi nỗi khổ, sau khi thọ chung, đều được giải thoát. Trong quang minh còn hiện vô số hóa Phật, mỗi Đức Phật có hai vị Bồ Tát làm thị giả. Mỗi một Đức Phật lại có tám vạn bốn ngàn tướng hảo, trong mỗi tướng hảo lại có tám vạn bốn ngàn tướng hảo khác. Mỗi tướng hảo có tám vạn bốn ngàn quang minh chiếu vô lượng vô biên thế giới. Cứ như thế, quang minh trùng trùng điệp điệp đến vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn tạo lợi ích cho chúng sanh.
Chánh kinh:
Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật thọ mạng cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp. Cố danh A Di Đà.
(Lại này Xá Lợi Phất! Thọ mạng của Đức Phật ấy và nhân dân của Ngài là vô lượng a tăng kỳ kiếp, nên tên là A Di Đà).
Giải:
Đoạn này căn cứ trên thọ mạng để giải thích danh hiệu A Di Đà. Đức Phật ấy chẳng những quang minh vô lượng, mà thọ mạng cũng vô lượng vô số, nên hiệu là A Di Đà. Vì thế, chữ A Di Đà còn được dịch là Vô Lượng Thọ.
Kinh Đại Bổn chép: “Thọ mạng của Đức Phật ấy chẳng thể tính kể. Giả sử chúng sanh trong mười phương thế giới đều thành Thanh Văn, Duyên Giác, dốc cạn trí lực trong trăm ngàn kiếp để tính toán vẫn chẳng thể biết được tận cùng [thọ mạng ấy]”. Đây chính là kết quả của lời nguyện mười ba “thọ mạng vô lượng” đã phát trong thời gian Ngài còn tu nhân: “Nếu lúc tôi thành Phật, thọ mạng có hạn lượng, thậm chí thọ trăm ngàn ức na do tha thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Nay nguyện ấy đã thành nên danh phải xứng với thực vậy.
“Thọ mạng”:Thọ là tuổi thọ, Mạng là sanh mạng. Tuổi thọ của con người dựa theo sự sanh diệt của thân mạng để xác định; vì thế mới gọi là “thọ mạng”.
Đức Phật có ba thân: Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Thân nên thọ mạng cũng có ba loại:
a) Pháp thân: Tự tánh thanh tịnh pháp thân lấy Lý tánh làm thọ mạng, muôn đời vẫn như vậy, chẳng sanh, chẳng diệt, vô thỉ vô chung.
b) Báo Thân là thân thọ dụng, lấy trí huệ làm thọ mạng. Báo thân do tu hết thảy công đức viên mãn mà thành, một phen đã đạt được sẽ vĩnh viễn tồn tại, có khởi đầu nhưng không có kết thúc.
c) Ứng thân là thân thị hiện, lấy nhân duyên làm thọ mạng, tùy cơ cảm mà thành, thị hiện sanh diệt, chẳng những có khởi đầu mà còn có kết thúc. Do nhân duyên thù thắng hay kém cỏi mà cảm thọ mạng dài hay ngắn.
Ở đây nói thọ mạng của Phật A Di Đà vô lượng chính là luận về Ứng Thân. Ứng Thân có thọ mạng thù thắng là do nhân duyên thù thắng cảm thành.
Trong Quang Minh Huyền Nghĩa, Tổ Thiên Thai Trí Khải giảng: “Pháp, Báo, Ứng là ba thân. Do ba pháp tụ lại nên gọi là Thân. Tức là Lý pháp tụ họp thì gọi là Pháp Thân. Trí pháp tụ họp lại thì gọi là Báo Thân. Công đức pháp tụ họp lại thì gọi là Ứng thân”. Như vậy, Pháp Thân là căn cứ theo cảnh mà nói, Báo Thân là căn cứ vào Trí, Ứng thân là căn cứ vào Dụng (công dụng). Vì Dụng tùy thuộc vào nhân duyên, tùy thuộc vào cơ cảm, nên Ứng Thân có sanh diệt, thọ mạng có dài ngắn.
“Cập kỳ nhân dân”:Chẳng những thọ mạng của Đức Phật là vô lượng, mà tất cả mọi người trong cõi Cực Lạc đều có thọ mạng vô lượng. Kinh viết “cập kỳ nhân dân” là sử dụng đảo ngữ, nếu nói thuận thì phải viết: “Bỉ Phật cập kỳ nhân dân thọ mạng vô lượng”.
Cõi Cực Lạc không có khái niệm vua tôi, cha con, sao lại gọi là “nhân dân”? Phật là đấng Pháp Vương, chúng sanh sanh về cõi Cực Lạc, khâm thừa Phật Đà giáo hóa, tôn kính Phật như cõi này tôn kính vua. Huống hồ Phật chính là vua của cả mười pháp giới, chứ nào phải chỉ là vua một nước mà thôi đâu!
“Vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp”:Chữ Kiếp nói cho đủ là Kiếp Ba (kalpa), Hán dịch là Thời Phần (hàm nghĩa phân biệt thời tiết), hoặc dịch là Trường Thời. Đơn vị thời gian ngắn nhất là Sát Na, đơn vị thời gian dài nhất là Kiếp Ba. Kiếp lại có ba thứ: Tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp.
Từ lúc con người thọ chỉ 10 tuổi khởi tính, cứ qua một trăm năm mới tăng thêm được một tuổi thọ. Tăng như thế đến khi thọ được tám vạn bốn ngàn tuổi, thì qua một trăm năm, bắt đầu giảm một tuổi. Như thế cho đến khi tuổi thọ chỉ còn mười năm. Chu trình một lần tăng một lần giảm như thế tính ra là một ngàn sáu trăm tám mươi vạn năm. Đấy là một tiểu kiếp.
20 tiểu kiếp, tức là ba ức ba ngàn sáu trăm vạn năm, là một trung kiếp.
Gộp bốn trung kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không, tức là mười ba ức bốn ngàn bốn trăm vạn năm là một đại kiếp.
“A-tăng-kỳ”:Đời Tấn dịch là Vô Số, đời Đường dịch là Vô Ương Số. Đây là một trong mười con số lớn của Ấn Độ (mười con số lớn là Vô Số, Vô Lượng, Vô Biên, Vô Đẳng, Bất Khả Số, Bất Khả Xưng, Bất Khả Tư, Bất Khả Lượng, Bất Khả Thuyết, Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết). Cách tính là lấy vạn vạn là một Ức. Vạn Ức là một Triệu. Một ngàn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn (chín chữ vạn) triệu là một a tăng kỳ. A Tăng Kỳ lần A Tăng Kỳ là một Vô Lượng. Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên. Cứ tính như thế mà tăng dần lên cho đến con số lớn thứ mười là Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết. Như vậy, thọ mạng của Phật A Di Đà chẳng phải là một đại kiếp mà là vô số đại kiếp, không những thế còn là vô lượng vô biên đại kiếp, nên bảo là “vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp”.
Thật ra, trên đây cũng chỉ là ước lượng dựa theo các con số hữu lượng để tính toán hàm hồ như vậy thôi, chứ thật ra số lượng chẳng phải chỉ là như vậy. Theo như phẩm Thọ Lượng trong kinh Hoa Nghiêm thì: “Một kiếp trong cõi Sa Bà là một ngày đêm trong thế giới Cực Lạc”.Nếu vậy thì chẳng thể tính nổi số, thật chẳng phải là số lượng thông thường thế gian có thể hình dung được nổi. Dù là trí huệ cũng chỉ biết được một phần nhỏ như giọt nước trong biển cả mà thôi!
Nếu xét riêng Ứng Thân, thọ mạng của Phật A Di Đà tuy nói là vô lượng nhưng vẫn là “hữu lượng chi vô lượng”, vì theo kinh Quán Âm Thọ Ký, sau khi Ứng Thân của Phật A Di Đà nhập diệt, Chánh Pháp trụ thế vô lượng kiếp. Ngay giữa đêm hôm Chánh Pháp diệt hết, Quán Thế Âm Bồ Tát liền bổ xứ thành Phật, thành Phật ngay trong đêm hôm ấy, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Cõi nước đổi tên thành Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm. Thọ mạng và chánh pháp của Đức Phật ấy cũng kéo dài vô lượng kiếp.
Khi Chánh Pháp của Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai diệt tận thì Đại Thế Chí Bồ Tát ngay trong đêm ấy, bổ xứ thành Phật; hiệu là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai; thọ mạng cũng vô lượng.
Tuy vậy, Phật đã chứng ba thân, mà Pháp Thân, Báo Thân đã thọ “vô lượng chi vô lượng” thì Ứng Thân cũng có thể nói là thọ “vô lượng chi vô lượng”.
(“Vô lượng chi vô lượng” là con số vô lượng một cách tuyệt đối, không cách nào hình dung, diễn tả nổi dù bằng toán học, vượt hẳn mọi khả năng suy nghĩ, tính toán của con người lẫn thánh nhân. “Hạn lượng chi vô lượng” là con số rất lớn, con người khó hình dung nổi, nhưng vẫn có thể dùng toán học để diễn tả được).
Hiểu một cách tổng quát, Vô Lượng có nghĩa là không còn có hạn lượng, giới hạn gì, Vô Biên là không có ngằn mé, ranh giới nào. Thọ mạng vô lượng vô biên của Đức Phật chính là kết quả của bi nguyện vô biên, của tịnh nghiệp công đức xa rời mọi ác nghiệp Ngài đã tu tập trong vô lượng kiếp.
Vì sao chúng sanh vãng sanh cõi Cực Lạc lại có thọ mạng giống hệt như Đức Phật? Có hai nguyên nhân:
a) Do nương vào Di Đà nguyện lực mà thành. Lời nguyện thứ mười năm của Phật khi còn tu nhân là: “Nếu lúc tôi thành Phật, thọ mạng của người trong nước tôi đều là vô ương số kiếp, không ai có thể tính nổi số ấy. Nếu chẳng như thế, chẳng lấy ngôi Chánh Giác”.
b) Do nguyện lực chính mình, tức là do công sức niệm Phật cảm thành. Nhất tâm niệm Phật, tịnh nghiệp thành tựu, vãng sanh Tịnh Độ, liên hoa hóa thân, đạt được thân thanh hư, chẳng còn mang tấm thân do tứ đại giả hợp, có sanh lão, bệnh tử, chợt tán hoại, chợt vô thường, nên thọ mạng đồng với chư Phật.
Hơn nữa, Phật thọ vô lượng để giáo hóa chúng sanh trong vô lượng kiếp. Chúng sanh được Phật giáo hóa cũng thọ vô lượng kiếp hòng một đời tu tập thành Phật, lại lần lượt giáo hóa chúng vô lượng chúng sanh cho đến khi họ cùng chứng Niết Bàn.
Hỏi: Đức Phật ấy đã có hai danh hiệu, tức là quang minh, thọ mạng thảy đều thù thắng, vì sao Đại Bổn và Quán Kinh chỉ lấy mỗi danh hiệu Vô Lượng Thọ làm đề mục, như vậy có phải là khi xưng niệm như thế đã thiếu sót nghĩa thứ hai chăng?
Đáp: Đấy là dùng Thể để bao gồm Dụng. Thọ là bản thể, Quang Minh là tác dụng. Nếu chẳng chứng được thân vô lượng thọ thì quang minh rốt cục sẽ đi về đâu? Do đã chứng được thân vô lượng thọ thì đương nhiên sẽ đạt được công dụng quang minh vô lượng. Một khi đã nói đến thân vô lượng thọ thì quang minh đồng thời sẽ gồm trong ấy. Đấy là nêu Thể để gồm Dụng vậy. Do đó, chỉ xưng niệm Vô Lượng Thọ đã gồm cả Vô Lượng Quang trong ấy. Nói Thọ nhiếp Quang thì được, nhưng chẳng thể bảo Quang nhiếp Thọ vì nếu ly khai bản thể là Thọ thì chẳng thể có tác dụng là Quang Minh!
Xin dùng một ví dụ để minh họa: Bản thân tấm gương là Thể, tác dụng soi chiếu của tấm gương là Dụng. Hễ có tấm gương thì đồng thời có tác dụng tỏa sáng, soi rọi. Vì thế có thể chỉ nêu Gương để hàm nghĩa Quang. Trái lại nếu chỉ nói Soi Chiếu đã bao gồm Gương trong ấy thì chẳng được. Vì đã không có Gương, lấy đâu có tác dụng soi chiếu
Cần phải biết rằng: trí huệ, quang minh, oai đức v.v... của Phật A Di Đà không gì là chẳng vô lượng. Thế sao lại chỉ dùng hai phẩm đức: quang minh và thọ lượng để xác lập danh hiệu?
1) Ước về Sự:
Ước về thọ mạng và quang minh của Pháp Thân và Báo Thân thì chư Phật đều giống hệt như nhau, chỉ có quang minh và thọ mạng của Ứng Thân là khác biệt. Đấy là vì Ứng Thân do nhân duyên cơ cảm, thị hiện thuận theo từng căn cơ, cho nên thọ mạng có dài ngắn sai biệt, quang minh có to nhỏ bất đồng.
Thọ mạng của Phật A Di Đà đã dài lâu chẳng thể tính kể, quang minh của Ngài cũng thù thắng cùng tột vượt trội hết thảy. Như đức Thích Ca thị hiện tịch diệt năm tám mươi tuổi, còn các Đức Phật khác: hoặc sống ngàn năm, hoặc một vạn năm, hoặc một kiếp cho đến na do tha kiếp. Chẳng vị nào như Phật A Di Đà sống đến vô lượng kiếp.
Còn về quang minh thì đức Thích Ca viên quang soi sáng một tầm, các Đức Phật khác hoặc một do tuần, hoặc mười do tuần, cho đến trăm ngàn vạn do tuần, trọn chẳng có vô lượng quang như đức Phật A Di Đà. Các Đức Phật quang minh chiếu một thế giới, hoặc trăm ngàn vạn ức thế giới, nhưng trọn chẳng có vị nào quang minh chiếu khắp mười phương. Một phương đã có vô lượng vô biên thế giới, huống hồ là thập phương?
Quán kinh chép: “Đức Phật ấy có tám vạn bốn ngàn tướng hảo. Mỗi mỗi tướng hảo có tám vạn bốn ngàn quang minh, chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới chẳng bỏ”.
Đủ thấy quang minh và thọ mạng của Đức Phật A Di Đà vượt trỗi hết thảy chư Phật, đó là điểm thù thắng độc đáo nhất! Vì thế, Ngài đặc biệt dùng quang minh và thọ mạng để lập danh hiệu.
Hỏi: Vì sao Phật Thích Ca và Phật Di Đà cùng thành tựu Phật quả rốt ráo, nhưng quốc độ, quang minh, thọ mạng lại khác biệt một trời, một vực đến thế? Chẳng lẽ Phật đức có hơn kém hay sao?
Đáp: Đại phàm chư Phật xuất thế đều chủ yếu là vì bi nguyện, vì mục đích độ sanh. Quốc độ có tịnh, uế bất đồng; thọ mạng có dài, ngắn sai khác; đại lược là do hai nguyên nhân sau:
a.- Do bổn nguyện tạo thành:
Đức Di Đà phát nguyện trang nghiêm Tịnh Độ để tiếp dẫn chúng sanh khổ não, nên đặc biệt hiện thọ mạng vô lượng, an lạc vô lượng để chúng sanh hâm mộ Cực Lạc mà niệm Phật cầu được vãng sanh. Đức Thích Ca phát nguyện giáng sanh trong cõi đời ngũ trược tà ác để cứu độ chúng sanh còn đang mê đắm. Ngài phải hiện thân thọ mạng ngắn ngủi, dùng sự vô thường cảnh tỉnh mê tình, khiến họ sanh lòng chán ngán uế cảnh cầu sanh cõi Tịnh, chóng được giải thoát. Đấy chính là phương tiện lớn lao nhằm dẫn dụ chúng sanh lìa khổ cầu vui, sao lại nảy lòng ngờ Phật đức có hơn, có kém?
Về quang minh cũng vậy: Do thân Phật trong cõi này đã nhỏ (một trượng sáu) thì quang minh cũng thị hiện chiếu không quá một tầm, nhưng khi cần phải thị hiện thần biến để hóa độ, Phật cũng thị hiện phóng quang minh thấu suốt vô lượng cõi Phật ở phương Đông như trong phẩm Tự kinh Pháp Hoa đã chép rõ ràng đấy thôi!
b.- Do phước đức và ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm như thế:
Phước đức và thiện nghiệp của chúng sanh cõi Cực Lạc cực thâm hậu nên cảm thấy thọ mạng, quang minh của đức Giáo Chủ cũng vô lượng, vô biên. Chúng sanh cõi Sa Bà nghiệp nặng, phước mỏng, nên thấy đức Thích Tôn tám mươi tuổi đã nhập diệt. Đấy chẳng phải là đức Thích Tôn thiếu lòng từ bi, chỉ vì chúng sanh phước bạc phận mỏng nên cơ duyên hóa độ chỉ đến thế mà thôi!
Còn như bảo “quang minh của Phật Thích Ca chẳng chiếu quá một tầm” là chỉ nói về Ứng Thân đó thôi. Chứ về Báo Thân, Pháp Thân, Thường Tịch Quang Độ thì Phật, Phật đều đồng, chẳng hề có chuyện thọ mạng dài ngắn, quang minh chiếu xa hay gần, cõi nước có tịnh, uế chi cả!
2) Ước về Lý:
Vô Lượng Thọ nghĩa là xét theo chiều dọc, Phật Tánh suốt khắp ba đời. Vô Lượng Quang là xét theo chiều ngang, Phật Tánh bao trọn mười phương. Như vậy, hết thảy chúng sanh không ai là chẳng dạo chơi trong biển Di Đà Quả Giác, cứ hễ nhất niệm hồi hướng thì sẽ liền được Phật nhiếp thọ.
Danh hiệu A Di Đà chính là đại tổng tướng môn của pháp giới nên A Di Đà Phật còn được gọi là Pháp Giới Tạng Thân; đấy chính là Phật tánh mỗi người chúng ta đều sẵn có. A Di Đà Phật còn chính là tam đức bí tạng (kho tàng bí mật của ba đức): Vô Lượng Thọ là Giải Thoát Đức, Vô Lượng Quang là Bát Nhã Đức, quang minh và thọ mạng nhất thể chẳng lìa chính là Pháp Thân Đức.
Thêm nữa, xét về Pháp Thân thì: Quang lẫn thọ chẳng hai chính là diệu thể bất biến. Vô Lượng Thọ chính là diệu dụng tùy duyên bất biến. Vô Lượng Quang chính là diệu tướng hiển hiện.
Như vậy, giảng ra danh hiệu A Di Đà chính là để hết thảy chúng sanh nhân danh hiệu ấy sẽ đốn ngộ được tự tánh của chính mình vốn sẵn thông suốt theo chiều dọc, trùm khắp theo chiều ngang, chứng ngay được tam đức bí tạng, thấu rõ diệu chỉ “tâm chính là Phật, Phật chính là tâm, tâm Phật chẳng hai”. Bởi lẽ đó, Phật lấy hai nghĩa Quang và Thọ để lập danh hiệu vậy.
Thêm nữa, Phật Tánh ai cũng sẵn có đó còn có tên khác là Bổn Giác. Một khi gặp được cơ duyên khai ngộ, giáo dưỡng, hay được đánh thức, huân tập bằng vạn đức hồng danh A Di Đà, thì từ Bổn Giác Lý Thể sẽ xuất sanh trí huệ. Trí huệ ấy gọi là Thỉ Giác (do từ vô thỉ chúng sanh bất giác, nay mới giác ngộ nên gọi là Thỉ Giác. Thỉ nghĩa là bắt đầu). Tâm niệm Phật chính là Thỉ Giác Trí. Đức Phật được niệm chính là Bổn Giác Lý.
Kinh nói: “Mười phương chư Phật cùng chung một Pháp Thân”.Do lý thể của pháp thân vô nhị, vô biệt, nên bảo là “cùng chung một pháp thân!” Lý thể của Pháp Thân Phật và lý thể của Bổn Giác của chúng sanh cũng vô nhị, vô biệt giống như thế. Như vậy, niệm Phật chính là niệm Bổn Giác trong chính tâm mình.
Hơn nữa, Thỉ Giác Trí phát sanh từ Bổn Giác Lý, nhưng về bản thể, Thỉ Giác lẫn Bổn Giác chẳng hai nên chúng sanh cũng đồng như Phật chẳng khác!
Mầu nhiệm thay! Một danh hiệu A Di Đà bao gồm vô lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn, một niệm hiện tiền của chúng sanh cũng chẳng thể nghĩ bàn! Nếu thật sự có thể một niệm tương ứng với một niệm Phật, niệm niệm tương ứng với niệm niệm Phật thì lo chi chẳng đốn ngộ tự tánh Di Đà, chứng ngay được duy tâm Tịnh Độ!
Bởi những lẽ trên, niệm Phật chính là niệm tâm, niệm tâm chẳng ngoài niệm Phật. Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm! Như vậy thì thánh hiệu Quang Thọ chính là tâm quang, thọ mạng chẳng thể nghĩ bàn của chính ngay một niệm hiện tiền của chúng ta.
Hiểu sâu hơn, Vô Lượng Quang biểu thị tự tánh thường tịch nhưng thường chiếu. Vô Lượng Thọ biểu thị tự tánh chiếu nhưng thường tịch. Như vậy, A Di Đà chính là Tịch Chiếu bất nhị vậy!
Cũng vì những lẽ trên, trong hai bộ Mạn Đà La: Thai Tạng và Kim Cang Giới của Mật giáo, bốn vị Phật trong ngũ Phật (A Súc Bệ, Bảo Sanh, Bất Không Thành Tựu, A Di Đà, Tỳ Lô Giá Na. Ngũ Phật biểu trưng cho ngũ trí) tùy theo phương vị sẽ có tên sai khác, nhưng Phật A Di Đà luôn không đổi tên.
Trong Thai Tạng Mạn Đà La, đức Phật A Di Đà có hình dáng một vị Phật tóc xoáy trôn ốc, sắc vàng óng, tay kết Định Ấn (lòng bàn tay phải đặt trên bàn tay, ngón trỏ và ngón cái đâu nhau tạo thành hình khuyên giáp nhau), hai mắt nhắm hờ, nhìn xuống. Đấy chính là tướng xuất gia thành đạo của tỳ kheo Pháp Tạng.
Trong Kim Cang Giới Mạn Đà La, Đức Phật A Di Đà đội mão báu, nhưng ấn tướng vẫn như cũ, tiêu biểu cho sự trang nghiêm của Báo Thân.
Theo Nguyên Âm Thượng Sư, tượng Di Đà đứng tay phải kết Định Ấn (hoặc cầm đài sen), tay trái xòe thẳng buông dọc theo thân mình. Năm ngón tay phải biểu thị năm giới: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Hiển Phật, Mật Phật. Năm ngón tay trái biểu thị năm giới: Thiên, nhân, quỷ, súc, địa ngục (Đấy chính là thập giới của Mật giáo). Hai tay trên dưới như vậy tiêu biểu Lý Trí có công dụng khác biệt, nhưng đều cùng một thân, hàm ý: Lý - Trí bất nhị (tay phải là Trí, tay trái là Lý). Hình khuyên do ngón cái và ngón trỏ tạo thành Định Ấn tiêu biểu cho Viên Giác, Bổn Giác hợp cùng Thỉ Giác.
1.2.2.1.2. Thành đạo thời kiếp
Chánh kinh:
Hựu Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp.
(Lại nữa, Xá Lợi Phất! Từ khi đức A Di Đà Phật thành Phật đến nay là mười kiếp)
Giải:
Câu “thành Phật dĩ lai”([từ lúc] thành Phật đến nay) tương ứng với câu “kim hiện tại thuyết pháp” trong Tự phần. Thế nào là “thành Phật”? Nhân hạnh viên mãn là Thành, chứng được Bồ Đề là Phật. Thêm nữa, y báo, chánh báo, bạn lữ, các thứ trang nghiêm cũng đều là “thành” cả.
Nếu luận trên Pháp Thân, tự tánh thanh tịnh vốn sẵn đã là Phật, còn có gì là thành hay chẳng thành, lấy gì mà bàn đến chuyện kiếp số nữa ư! Nếu luận trên Báo Thân, nhân viên quả mãn, chứng đắc Bồ Đề, tựa hồ có thành, luận bàn đến kiếp số cũng không ngại gì! Ứng Thân tùy cơ mà cảm hiện tám tướng thành đạo (giáng hạ từ trời Đâu Suất, thác thai, xuất sanh, xuất gia, hàng ma, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn) nên dĩ nhiên phải có thành, phải có kiếp số.
Như vậy, thành Phật đã mười kiếp là nói về Ứng Thân và Báo Thân đã thành Phật mười kiếp vậy. Nói cách khác: từ khi Phật A Di Đà thành đạo đến nay, thế giới Sa Bà đã trải qua mười chu kỳ thành - trụ - hoại - không (*), nhưng cõi Cực Lạc vẫn y nhiên như cũ, thường luôn vui sướng bất biến! Thật chẳng phải là cõi nước an ổn, khoái lạc thường hằng lắm ư?
Tính cho đến khi thành Phật, đức Phật A Di Đà đã trong vô lượng kiếp lâu xa tu hành bi nguyện, đại hạnh mới thành Phật Quả. Theo kinh Vô Lượng Thọ kể từ thời Phật Định Quang cho đến năm mươi ba Đức Phật xuất thế, nơi Đức Phật sau rốt là Thế Tự Tại Vương, tỳ kheo Pháp Tạng giác ngộ thế gian vô thường, phát ra 48 trọng nguyện, rồi tu thành Phật.
Theo kinh Pháp Hoa, mười sáu vị vương tử của Phật Đại Thông Trí Thắng Như Lai, nhân thấy cha thành Phật, cảm động sâu xa, cũng bỏ nước xuất gia, tu hành phạm hạnh, được thọ ký Bồ Đề. Vị vương tử thứ chín thành Phật ở phương Tây hiệu là A Di Đà.
Theo kinh Bi Hoa, vô lượng kiếp trước có Chuyển Luân vương tên Vô Tránh Niệm, cúng dường Bảo Tạng Như Lai. Vua từng phát nguyện khi thành Phật, cõi nước sẽ trang nghiêm thù diệu khôn sánh. Phật Bảo Tạng thọ ký: “Ông hành Bồ Tát đạo trong hằng sa kiếp rồi sẽ thành Phật ở phương Tây, cõi nước hiệu là An Lạc”.Vua Vô Tránh Niệm nay là Phật A Di Đà.
Trong kinh Nhất Hướng Xuất Sanh Bồ Tát, có kể chuyện vị quốc vương được nghe Phật pháp, bèn phụng trì tinh tấn, trong suốt bảy vạn năm chưa từng ngủ nghỉ, ở riêng một mình trong chốn núi rừng, tu tập Thiền Định, sau độ tám mươi ức trăm ngàn na do tha chúng sanh được bất thoái chuyển. Vị quốc vương ấy thành Phật, hiệu là A Di Đà.
Những vị như tỳ kheo Tịnh Mạng trong kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì, vương tử Tịnh Phước Báo Chúng Âm trong kinh Hiền Kiếp, quốc vương Thắng Oai trong kinh Như Huyễn Tam Ma Địa Vô Lượng Ấn cũng đều là tiền thân của Phật A Di Đà.
Đến khi thành Phật, đức A Di Đà hằng ngày thời thời thuyết pháp, luôn xòe cánh tay tử kim tiếp dẫn chúng sanh, sao ta vẫn cam bề trầm luân, đành phụ tấm lòng thâm thiết của đấng Từ Phụ, chẳng chịu sự tiếp độ giáo hóa của Ngài, có đáng thẹn hổ lắm không?
1.2.2.2. Hóa bạn (đồ chúng được đấng Giáo Chủ hóa độ)
1.2.2.2.1. Thanh Văn chúng:
Chánh kinh:
Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A La Hán, phi thị toán số chi sở năng tri.
(Lại này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn, đều là A La Hán, chẳng thể tính toán để biết được nổi).
Giải:
Đoạn kinh văn này thuyết minh về các hóa bạn (những người được hóa độ của đấng Giáo Chủ).
Thanh Văn là những người do được nghe Đức Phật giảng thuyết pháp Tứ Đế mà ngộ đạo. Thanh Văn được chia làm bốn tầng cấp:
1) Tu Đà Hoàn: Hán dịch là Nhập Lưu, hoặc Dự Lưu (dự vào dòng thánh), thuộc về địa vị Kiến Đạo, đã đoạn sạch tám mươi tám Sử thuộc về Kiến Hoặc, nên gọi là Sơ Quả Thanh Văn.
2) Tư Đà Hàm: Hán dịch là Nhất Vãng Lai hay Nhất Lai, nghĩa là còn phải thọ sanh một lần nữa trong Dục Giới. Thánh quả này thuộc về Tu Đạo, đã đoạn sạch Kiến Hoặc trong tam giới, đoạn được sáu phẩm Tư Hoặc đầu tiên trong Dục Giới của 81 phẩm Tư Hoặc. Địa vị này còn gọi là Nhị Quả Thanh Văn.
3) A Na Hàm: Hán dịch là Bất Lai, nghĩa là không còn phải thọ sanh trong Dục Giới nữa. Địa vị này vẫn thuộc về Tu Đạo, đã đoạn hết ba phẩm Tư Hoặc của Dục Giới còn sót lại. Thánh Quả này còn gọi là Tam Quả Thanh Văn.
4) A La Hán: Hán dịch là Vô Sanh, nghĩa là chẳng thọ sanh trong Tam Giới nữa. Thánh quả này thuộc về địa vị Vô Học, đoạn sạch chín phẩm Tư Hoặc của Dục Giới, sống trong trời A Na Hàm của Sắc Giới, lại đoạn bảy mươi hai phẩm Tư Hoặc; tổng cộng đã đoạn 88 Sử thuộc Kiến Hoặc, tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc. Địa vị này còn gọi là Tứ Quả Thanh Văn.
Câu “giai A La Hán” nhằm chỉ rõ thánh chúng cõi Cực Lạc không còn thuộc trong ba quả vị đầu của Thanh Văn. Kinh không đề cập đến Duyên Giác, hàm ý: Duyên Giác đã tính gộp trong chúng Thanh Văn.
“Phi thị toán số”: Số lượng thánh chúng Thanh Văn nhiều đến nỗi chẳng thể tính toán được nổi. Số lượng ấy khó hay biết đến nỗi đành phải lấy từ ngữ “vô lượng vô biên” để tạm diễn tả. Bởi lẽ như kinh Vô Lượng Thọ đã nói rõ: “Giả sử có các tỳ kheo nhiều đến ức na do tha, trăm ngàn số lượng, đều thành tựu thần thông giống như Mục Liên, muốn tính đếm số lượng Thanh Văn trong hội thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật ấy thì dù có tận hết thần lực vẫn chưa biết được nổi một phần trăm số ấy!”
Vì sao cõi An Lạc lại có chúng Thanh Văn đệ tử? Hàng Tiểu Thừa định tánh Thanh Văn chẳng tin vào các cõi Tịnh Độ phương khác dĩ nhiên quyết định chẳng được vãng sanh cõi Cực Lạc. Còn như các vị hành giả trong Đại Thừa, hành hạnh Bồ Tát, chẳng hạn như bậc Thất Trụ đã đoạn Kiến Hoặc, Tư Hoặc, xét về quả vị tuy đồng Tứ Quả Thanh Văn, nên gọi là Thanh Văn; nhưng thật sự vẫn là hành giả Bồ Tát hạnh.
Hoặc như Quán Kinh Sớ đã chỉ rõ: Những người quen tu tập hạnh Tiểu Thừa, nhưng có tâm xu hướng Đại Thừa, đã chứng tiểu quả Thanh Văn hay không, khi lâm chung, phát khởi đại tâm, phát nguyện vãng sanh nên cũng được vãng sanh. Do đó gọi là Thanh Văn; nhưng là loại Thanh Văn “hồi Tiểu hướng Đại”. Thuận theo căn cơ của họ, Phật cũng thuyết giảng những pháp Thanh Văn, khiến họ dần dần chứng những quả vị Thanh Văn, tấn tu đạo nghiệp Đại Thừa.
Hoặc những người chuyên niệm nhưng chưa hiểu tự tánh Di Đà, hoặc chỉ vì tự lợi mà niệm, nên khi vãng sanh về cõi Đồng Cư Tịnh Độ, sẽ thuộc về chúng Thanh Văn.
1.2.2.2.2. Bồ Tát chúng:
Chánh kinh:
Chư Bồ Tát chúng diệc phục như thị.
(Các hàng Bồ Tát cũng giống như thế).
Giải:
“Chư Bồ Tát chúng”:Bồ Tát là hàng thánh giả tu học Đại Thừa. Chữ “Chư” hàm nghĩa chẳng phải chỉ có một, tức là không những các vị Bồ Tát từ mười phương vãng sanh, mà tất cả các vị Bồ Tát trong Tứ Giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên) cũng đều vãng sanh. Từ hàng Thập Tín cho đến địa vị Đẳng Giác không vị nào là chẳng vãng sanh.
Câu “diệc phục như thị”(cũng giống như thế) ngụ ý chẳng những các chúng Thanh Văn nhiều vô lượng vô biên mà các vị Bồ Tát cũng đông nhiều như thế, chẳng thể tính toán được nổi!
Khi nói đến những vị Thanh Văn, Bồ Tát đó, không phải là chỉ có những vị Bồ Tát, Thanh Văn từ thập phương sanh về Cực Lạc, mà còn là tính gộp tất cả phàm phu vãng sanh cõi Cực Lạc: Nếu là tiểu căn nghe Phật thuyết pháp, sẽ chứng nhập tiểu quả nên gọi là Thanh Văn; bậc đại căn chứng nhập đại quả nên thành Bồ Tát.
Hỏi: Chúng sanh đời trược, nghiệp nặng khó bề hóa độ, nên Phật phải diễn giảng giáo pháp tam thừa. Còn như nhân dân cõi Tịnh Độ lòng tin sâu xa, rất dễ khuyến hóa, cớ sao Phật vẫn giảng Tứ Quả?
Đáp: Vì hai lẽ:
1) Do bi nguyện hóa độ khắp cả căn cơ sâu cạn, nên kẻ ngũ nghịch thập niệm cũng được vãng sanh. Đối với những căn cơ hạ liệt ấy, không thể giảng ngay vào pháp Đại Thừa, phải dùng pháp Tiểu Thừa khiến họ tăng tiến đạo tâm.
2) Hai là quyến thuộc trang nghiêm, đồ chúng đông nhiều: tuy là cõi Tịnh Độ, vẫn có chúng Thanh Văn, vì như kinh Pháp Hoa đã dạy: “Khi Đức
Phật ấy xuất thế, tuy chẳng phải là đời ác, nhưng do bổn nguyện, vẫn nói Tam Thừa”.Hoặc như Quán kinh nói: “Kẻ căn cơ Tiểu Thừa, sanh về cõi ấy, đắc Tứ Quả”.
Xét về Lý:
- A La Hán biểu thị Chân Đế không tịch.
- Bồ Tát biểu thị Tục Đế tùy duyên.
- “Diệc phục như thị” biểu thị Chân Tục bất nhị.
1.2.2.3. Tổng kết
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
(Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế).
Giải:
Đoạn kinh văn này tổng kết tất cả những điều trang nghiêm vừa được diễn giảng ở trên: Phật quang, thọ mạng, Thanh Văn, Bồ Tát. Tuy văn tự giống hệt đoạn văn kết ở trên, nhưng ý nghĩa có khác. Trong đoạn tiểu kết trước, chỉ kết về y báo trang nghiêm. Đoạn này kết lại chánh báo trang nghiêm: trong cõi nước Cực Lạc, hóa chủ, hóa bạn thảy đều vô lượng thù thắng trang nghiêm, không điều gì không là do công đức nguyện hạnh thù thắng chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà tạo thành.
Phần Năm
2. ĐẶC KHUYẾN ƯNG CẦU VÃNG SANH DĨ PHÁT NGUYỆN(riêng khuyên phải nên cầu vãng sanh để phát nguyện)
2.1. Vãng sanh giai đắc bất thoái (hễ vãng sanh đều được bất thoái chuyển)
Chánh kinh:
Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí.
(Lại này Xá Lợi Phất! Chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc đều là bậc Bất Thoái Chuyển)
Giải:
Đã giảng xong y báo, chánh báo trang nghiêm cõi Cực Lạc, trong đoạn này, Đức Phật bèn dẫn dụ chúng sanh phát sanh lòng tin phát nguyện cầu được vãng sanh, hòng đạt được nhân thù thắng xuất thế vô thượng, ngõ hầu vượt ngang ra khỏi tam giới, viên chứng ba thứ Bất Thoái, vĩnh viễn giải quyết xong vấn đề sanh tử, rốt ráo thành Phật.
Để làm được điều này, nếu còn nấn ná trong cõi Sa Bà, phải đoạn sạch cả ba Hoặc. Hơn nữa, cõi này lắm chướng duyên gây thoái thất, khó lòng hoàn thành. Vì thế, trước khi khuyến hóa thính chúng phát nguyện, Đức Phật đặc biệt phô bày nhân duyên thù thắng của cõi Cực Lạc để người nghe sanh lòng hâm mộ, hăm hở phát nguyện cầu sanh.
Những người mới sanh về cõi Cực Lạc, dẫu là mới đến vẫn đều sẽ đạt được địa vị bất thoái nên bảo là “chúng sanh sanh giả”.
“A Bệ Bạt Trí”: Còn phiên là A Duy Việt Trí, Hán dịch là Bất Thoái Chuyển, gồm có ba loại: Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái, trong phần luận về thể dụng của kinh đã bàn qua, ở đây không nhắc lại.
Ngoài ba thứ Bất Thoái nói trên, Ngài Khuy Cơ còn xướng ra năm thứ bất thoái: Tín Bất Thoái, Vị Bất Thoái, Chứng Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Phiền Não Bất Thoái, nhưng không giải thích rõ.
Căn cứ trên công hạnh của người niệm Phật, lại có bốn loại Bất Thoái:
1) Niệm Bất Thoái: người niệm Phật chẳng những niệm đến mức đạt được Sự nhất tâm bất loạn, mà còn có thể tiến nhập Lý Nhất Tâm Bất Loạn (hai thứ Sự và Lý nhất tâm bất loạn này đã được giải thích tỉ mỉ trong sách Yếu Giải), phá vô minh, hiển Phật Tánh. Chánh nhân Phật Tánh hiển hiện nên Lý Tâm phát khởi, chứng được Pháp Thân đức. Liễu nhân Phật Tánh hiển hiện khiến Huệ Tâm sanh khởi, chứng được Bát Nhã đức. Duyên nhân Phật Tánh hiển hiện khiến thiện tâm phát khởi, chứng Giải Thoát đức. Viên chứng ba thứ Phật Tánh như thế, phát trọn vẹn ba thứ tâm như thế, chứng trọn vẹn ba đức như thế, khai Phật tri kiến, sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh nơi cõi Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ, chứng được một phần Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Đó là Niệm Bất Thoái.
2) Hạnh Bất Thoái: Người niệm Phật chẳng những đoạn được Kiến, Tư, Phiền Não, sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ, lại còn có thể hồi Tiểu hướng Đại, từ Không xuất Giả, đi vào cõi tục độ sanh, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, sanh trong Thật Báo Tịnh Độ, chứng một phần Thường Tịch Quang Tịnh Độ, làm bầu bạn cùng với hàng Bất Thoái Bồ Tát. Đấy là Hạnh Bất Thoái.
3) Vị Bất Thoái: Tu hành trong thế giới Sa Bà, tất nhiên phải đoạn Kiến Tư Hoặc, phá Ngã Chấp, chứng Chân Đế, mới an trụ nơi Vị Bất Thoái. Nhưng đối với cõi Cực Lạc, chẳng cần phải đoạn hoặc chứng chân, chỉ cần nhất tâm niệm Phật, lâm chung mười niệm liền được vãng sanh, sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, đến khi hoa nở gặp Phật, niệm niệm cầu thành Phật đạo. Đấy là Niệm Bất Thoái. Thường gặp Phật nghe pháp, ưa thích tu hạnh Đại Thừa, liền chứng Hạnh Bất Thoái, cùng các vị thượng thiện nhân luôn ở chung một chỗ, đó là Vị Bất Thoái. Đây chính là điểm đặc biệt thù thắng nhất của cõi Tịnh Độ, chỉ cần vãng sanh Cực Lạc, ba thứ Bất Thoái đều tự nhiên viên thành.
4) Cứu Cánh Bất Thoái: Hết thảy chúng sanh chẳng cần biết là hữu tâm hay vô tâm, chẳng luận là nhất tâm hay tán tâm, chẳng kể là chỉ một lần xưng niệm thánh hiệu Di Đà hay thánh hiệu của chư Phật phương khác, đều tạo thành chân nhân thành Phật. Dù chỉ nghe người khác xưng niệm Phật hiệu cũng tạo thành thiện căn, rốt ráo sẽ thành Phật. Đấy gọi là Cứu Cánh Bất Thoái.
Trong kinh A Di Đà đây, khi nói đến A Bệ Bạt Trí là nói đến ba thứ Bất Thoái đầu tiên.
Nếu xét về địa vị thì:
a) Sơ Quả trong Tạng Giáo, Kiến Địa trong Thông Giáo, Sơ Trụ trong Biệt Giáo, Sơ Tín trong Viên Giáo đều mới đoạn được Kiến Hoặc, mới chứng nhập Thánh Vị, không còn lui sụt xuống địa vị phàm phu, nên gọi là Vị Bất Thoái.
b) Địa vị Bồ Tát trong Thông Giáo, Thập Hạnh trong Biệt Giáo, Thập Tín trong Viên Giáo không những đoạn được Kiến Hoặc còn phá được Trần Sa, rộng độ chúng sanh, chẳng lui sụt xuống địa vị Nhị Thừa, nên gọi là Hạnh Bất Thoái.
c) Địa vị Sơ Địa trong Biệt Giáo, Sơ Trụ trong Viên Giáo vừa mới đoạn được vô minh, thấy được Phật Tánh, đắc Vô Sanh Nhẫn, tâm tâm tự nhiên lưu nhập Diệu Giác Tánh Hải, nên gọi là Niệm Bất Thoái.
Nói tóm lại: Phải đoạn được Kiến Hoặc mới chứng Vị Bất Thoái. Phải đoạn Trần Sa Hoặc mới chứng Hạnh Bất Thoái. Đoạn sạch Vô Minh Hoặc mới chứng Niệm Bất Thoái. Đó là điểm chung của mọi cõi Phật. Thế nhưng trong cõi Cực Lạc, dù là ngũ nghịch thập ác đi nữa mà chịu hồi tâm phát nguyện vãng sanh, dẫu thuộc vào hạ hạ phẩm, vẫn có thể viên chứng ba thứ Bất Thoái! Nếu chẳng do đại nguyện vĩ đại của đức A Di Đà cảm thành như thế, lẽ nào lại được như vậy ư? Khắp cả mười phương thế giới, trọn không đâu có được phương tiện thù thắng, lạ lùng nhường ấy! Trong khắp các giáo pháp, cũng chẳng có pháp môn nào thù thắng, mầu nhiệm khôn sánh thế ấy!
Sách Thập Nghi Luận giảng rõ:
“Có năm nhân duyên nên được bất thoái:
1) Được đại bi nguyện lực của Phật Di Đà nhiếp trì, nên được Bất Thoái.
2) Phật quang thường chiếu nên Bồ Đề tâm niệm niệm tăng trưởng. Vì thế được Bất Thoái.
3) Nước, chim, rừng cây, tiếng gió reo, tiếng nhạc tự nhiên vang vọng đều có thể diễn nói pháp âm mầu nhiệm, khiến người nghe thườngniệm Tam Bảo. Vì thế được Bất Thoái.
4) Các bạn hữu thuần là Bồ Tát nên được Bất Thoái.
5) Thọ mạng vĩnh kiếp, ngang bằng với thọ mạng của Phật, nên được Bất Thoái”.
Ngài Khuy Cơ lại bảo có năm nhân duyên khiến người sanh trong cõi Cực Lạc sẽ không bị thoái chuyển:
1) Do không bịnh nên không bị sự khổ trói buộc.
2) Không gây tạo những hạnh trái nghịch chánh pháp.
3) Thường đọc tụng, nghe giảng kinh pháp.
4) Thường nghĩ làm việc lành.
5) Luôn hòa thuận, không gặp các sự kình chống, trái ý, tranh chấp.
Như vậy, lời cổ đức dạy: “Tu hành thì Niệm Phật là ổn đáng nhất”quả thật chẳng ngoa! Vãng sanh liền được viên chứng ba thứ Bất Thoái chính là kết quả của lời nguyện thứ 17 trong 48 đại nguyện.
Chúng sanh cõi Sa Bà được phân làm ba loại, trong kinh thường gọi là Tam Tụ. Tụ có nghĩa là tụ họp lại, hay còn có nghĩa là xếp vào cùng loại:
1) Tà Định Tụ: gồm những kẻ không tin Phật pháp, bác không nhân quả.
2) Bất Định Tụ: gồm những chúng sanh tuy tín ngưỡng Phật pháp, nhưng lòng tin không kiên định, lúc tiến, lúc lùi, không nhất định. Hàng Bồ Tát ở địa vị Thập Tín còn bị gọi là Mao Đạo Bồ Tát, tức là đạo nghiệp tu hành của họ giống như những sợi lông theo gió cuốn bay lơ lửng trong không trung. Gió là ví cho cảnh giới. Hàng Bồ Tát chưa đạt đến địa vị Thập Tín chưa thể tự mình làm chủ, gặp được cảnh giới Phật pháp thì tinh tấn tu hành, gặp cảnh giới ngũ dục, ắt sẽ liền biếng nhác, thoái đọa. Do tinh tấn chẳng nhất định như thế nên vẫn thuộc về Bất Định Tụ.
3) Chánh Định Tụ:gồm những bậc đã chứng từ địa vị Sơ Trụ kể đi, vĩnh viễn chẳng sanh khởi tà tri, tà kiến, đối với chánh pháp đã sanh tâm quyết định, nên gọi là Chánh Định Tụ.
Chúng sanh vãng sanh cõi Cực Lạc đều thuộc về Chánh Định Tụ vì đã viên chứng ba thứ Bất Thoái.
Xét theo Lý, “bất thoái” biểu thị tự tánh thường trụ.
2.2. Bổ xứ toán số mạc trắc(Chẳng thể tính toán nổi số lượng những vị Nhất Sanh Bổ Xứ):
Chánh kinh:
Kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ Xứ. Kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên a tăng kỳ thuyết.
(Trong số đó, có nhiều vị Nhất Sanh Bổ Xứ. Số [các vị Bổ Xứ] ấy rất nhiều, chẳng thể tính toán để biết được nổi, chỉ có thể dùng [con số] vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói)
Giải:
Không những người vãng sanh về Cực Lạc là hạng Bất Thoái, trong ấy còn có chẳng thể tính đếm nổi các vị đã đạt đến địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ.
Nhất Sanh Bổ Xứ chính là địa vị Đẳng Giác Bồ Tát, tức là những vị trong một đời sẽ kế tiếp thành Phật. Chẳng hạn như Di Lặc Bồ Tát hiện đang ngự trong nội viện cung trời Đâu Suất, sẽ tiếp nối Phật Thích Ca thành Phật trong cõi Sa Bà. Đẳng Giác Bồ Tát còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá hết, nên còn phải sanh một đời nữa, đoạn được phẩm sanh tướng vô minh ấy mới có thể chứng đắc địa vị Diệu Giác (tức là Phật Quả). Bởi thế, gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ.
Nếu xét theo cõi Sa Bà này, thì vô minh gồm có bốn mươi hai phẩm. Bồ Tát chứng Sơ Vị trong Viên Giáo đã có thể đoạn được vô minh, lần lượt trải qua các địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, trong mỗi địa vị phá được một phẩm vô minh, đến địa vị Đẳng Giác phá được tất cả bốn mươi mốt phẩm vô minh; nhưng vẫn còn sanh tướng vô minh chưa phá sạch.
Chúng sanh cõi Cực Lạc đều là Bất Thoái đã là điều thù thắng chẳng thể nghĩ bàn so với mọi cõi Phật khác. Thế mà cõi ấy lại còn có chẳng thể tính đếm nổi số lượng các vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát như thế thì thật là thù thắng vượt xa mọi cõi Phật khác, thù thắng bậc nhất trong mọi điều thù thắng, không còn có thể dùng lời lẽ nào để tán thán, xưng dương được nữa!
Cứ thử tạm nghĩ: từ lúc phát tâm tu hành, tu đến viên mãn địa vị Thập Tín, chứng được Vị Bất Thoái, chẳng biết phải tu hành bao kiếp, thật là khó khăn; huống hồ chứng đắc Hạnh Bất Thoái và Niệm Bất Thoái lại càng khó khăn biết dường nào! Đến như địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ, cả cõi Sa Bà này, chỉ có mình đức Di Lặc Bồ Tát. Thế mà cõi Cực Lạc lại có tối thiểu là vô lượng vô biên a tăng kỳ vị Nhất Sanh Bổ Xứ thì thật là một điều kỳ tuyệt, duy nhất trong mười phương cõi Phật vậy!
Hỏi: Bổ Xứ Bồ Tát ở vào địa vị Á Thánh, sẽ kế ngôi làm Phật. Thế mà Phật A Di Đà thọ mạng vô lượng vô biên kiếp dài lâu. Khi Phật diệt độ, Quán Âm rồi đến Thế Chí lần lượt nối ngôi thành Phật, vị nào thọ mạng cũng cực dài lâu. Thế mà lại có quá nhiều vị Nhất Sanh Bổ Xứ như thế thì đến khi nào mới có thể kế ngôi thành Phật được?
Đáp: Mười phương có vô lượng thế giới, đương nhiên sẽ có vô lượng chư Phật. Chư Phật nhập Niết Bàn thì đương nhiên sẽ có vô lượng Bồ Tát kế ngôi thành Phật. Các vị Nhất Sanh Bổ Xứ cõi Cực Lạc sẽ kế ngôi thành Phật trong vô lượng thế giới mười phương, chứ đâu cứ nhất định phải thành Phật trong cõi Cực Lạc!
Xét về Lý, Nhất Sanh Bổ Xứ biểu thị ý quyết định thành Phật.
2.3. Chánh khuyến phát nguyện vãng sanh(khuyên nên phát nguyện vãng sanh):
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ. Sở dĩ giả hà? Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ.
(Xá Lợi Phất! Chúng sanh nghe vậy, hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy. Vì cớ sao thế? Được cùng với vị thượng thiện nhân như thế ở cùng một chỗ).
Giải:
Đây là đoạn kinh văn Đức Phật chánh thức khuyến hóa nên phát nguyện vãng sanh Cực Lạc. Nói cách khác, ở đây đức Phật nêu ra điều kiện tiên quyết thứ hai để được vãng sanh: Nguyện. Dù có lòng tin sâu xa vào sự thù thắng trang nghiêm cõi Cực Lạc, nhưng vẫn không chịu phát nguyện thì sẽ trọn chẳng bao giờ được vãng sanh! Vì thế, cần phải phát nguyện.
“Chúng sanh văn giả”:Ngoại trừ Đức Phật ra, tất cả đều gọi là “chúng sanh”. Nói chung, chúng sanh gồm trong chín pháp giới: sáu pháp giới của lục đạo phàm phu chúng sanh, hai pháp giới của hàng Nhị Thừa, và một pháp giới của các vị Bồ Tát. “Văn” có nghĩa là đã nghe những công đức thù thắng mầu nhiệm của y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc như trên đã giảng.
“Ưng đương phát nguyện”:Hai chữ “ưng đương” (phải nên) chính là lời răn dạy đinh ninh, ân cần của đấng Thích Tôn. Ý nói: Những người hữu duyên đã được nghe pháp này, hãy nên mau phát nguyện cầu sanh. Bởi thế, kinh chép là “ưng đương phát nguyện”.
Câu “nguyện sanh bỉ quốc”là nói đến chí nguyện cầu sanh Cực Lạc. Đây chính là đức Bổn Sư bi tâm khẩn thiết, chỉ sợ chúng sanh nghe giảng rồi như gió thoảng bên tai, chẳng chịu do nghe pháp sanh khởi lòng tin, do tin phát nguyện vãng sanh, đánh mất duyên thù thắng vô thượng, nên cứ đau lòng rát miệng ân cần khuyến dụ nhiều phen!
Trộm nghĩ: nhân quả mười phương nào ngoài Nguyện. Cổ đức từng nói: “Hữu nguyện cánh thành”. Mỗi một sự trang nghiêm thù thắng khôn sánh của cõi Cực Lạc cũng đều do đại nguyện vĩ đại của đức Di Đà cảm thành. Người vãng sanh cõi ấy cũng chẳng thể không nương vào nguyện lực của chính mình và của Phật để được vãng sanh. Mọi sự trên thế gian này đều do ý nguyện mà thành, huống hồ là chuyện vãng sanh Cực Lạc!
“Sở dĩ giả hà?”là lời hỏi ngược lại để thâu tóm ý của đoạn văn trên, hàm ý: Vì sao Phật lại đặc biệt khuyến hóa phát nguyện vãng sanh? Cõi Sa Bà này, Phật cũng là hóa chủ, can cớ chi lại muốn xa lìa cõi này sanh về cõi ấy? Mười phương có vô lượng cõi Phật, cần gì cứ phải khăng khăng nguyện sanh cõi Cực Lạc?
Tiếp đó, Phật giải thích: vì cõi ấy có vô lượng vị thượng thiện nhân như đã thuật ở trên cùng tụ họp ở chung một chỗ. Đấy chính là nhân duyên thù thắng để un đúc thiện nghiệp thù thắng, tạo thành sự thành tựu ba thứ Bất Thoái không cõi nào khác có được, nên phải đặc biệt phát nguyện sanh trong cõi Cực Lạc.
Chữ “thượng thiện nhân” chỉ các vị Bồ Tát, Nhất Sanh Bổ Xứ v.v... Cõi trời tuy lành nhưng vẫn chưa ra khỏi sanh tử. Nhị Thừa dẫu lành nhưng vẫn còn chấp vào Không Tịch. Do đó, đều chẳng thể gọi là Thượng Thiện được. Chỉ có những vị từ hàng Bồ Tát đã phá vô minh, thấy được Pháp Thân cho đến các vị Nhất Sanh Bổ Xứ mới đáng gọi là “thượng thiện”. Do số lượng các vị như vậy rất nhiều nên bảo là “chư thượng thiện nhân”.
Còn có thể hiểu “thượng thiện nhân” là từ ngữ chỉ chung tất cả thánh phàm cõi Cực Lạc. Nói vậy, ắt sẽ có kẻ cật vấn: “Chúng sanh cõi Cực Lạc chẳng phải chỉ gồm có một loài, nào là hạng đới nghiệp vãng sanh, thậm chí còn có kẻ ngũ nghịch, thập ác, lâm chung thập niệm vãng sanh, lẽ đâu đều gọi tất cả là thượng thiện nhân?”
Xin đáp: Đều gọi là thượng thiện nhân vì tất cả đều đã chứng Bất Thoái, đều sẽ rốt ráo thành Phật vậy.
Cõi Sa Bà ngũ trược đầy dẫy, lắm chướng duyên, thường chịu đủ mọi nỗi khổ, chánh báo, y báo biến đổi vô thường, khó thành tựu đạo nghiệp xuất thế. Cõi Sa Bà này dẫu cũng là Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng khi Phật đã nhập diệt, muốn gặp gỡ các vị Bồ Tát, các thánh giả Nhị Thừa cũng là điều thiên nan, vạn nan. Vì vậy, dẫu là Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng tựa hồ chỉ là cái danh xuông. Thêm nữa, ma chướng trùng trùng. Có vô lượng các loài ma, thiên sai vạn biệt, nhưng nếu nói đại lược, có hai loại ma:
1) Ngạnh ma(ma cứng): tức là những kẻ oan gia đối đầu, ganh ghét, đố kỵ, gây chướng ngại, khiến chúng ta chẳng thể khéo dụng công tu hành.
2) Nhuyễn ma: Đây chính là thân thích, quyến thuộc, ân ái trói buộc, vấn vương, bịn rịn khiến chúng ta khó lòng buông bỏ để toàn tâm toàn ý tu tập.
Dù ngạnh ma hay nhuyễn ma cũng đều là nhân duyên chướng đạo.
Mười phương Tịnh Độ dẫu thiện diệu vẫn không bằng nổi cõi Cực Lạc ở mức độ thắng diệu, chẳng có khả năng tiếp độ mọi căn cơ. Vì thế, Đức Phật đặc biệt khuyến hóa chúng sanh nên phát nguyện vãng sanh Cực Lạc. Dễ đâu gặp được nhân duyên hội ngộ thù thắng cùng các bậc thượng thiện nhân như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền... thế sao không gấp phát nguyện cầu nguyện vãng sanh? Có thân thích toàn là bậc thượng thiện nhân thì đâu còn ân ái buộc ràng, đâu còn oan gia hội ngộ, thế nên ngạnh ma lẫn nhuyễn ma chẳng còn tồn tại để tạo nhân duyên chướng ngại nữa!
Trong pháp hội Hoa Nghiêm, một đời viên mãn nhân thành Phật, chỉ có mỗi Thiện Tài đồng tử. Trong kinh này, các vị Nhất Sanh Bổ Xứ cực nhiều. Sự tuyệt diệu ấy không còn gì để nói nổi được nữa. Bởi thế, trong pháp hội Hoa Nghiêm, rốt cục Phổ Hiền Bồ Tát cũng khuyến hóa hải chúng quy hướng Cực Lạc.
Xét về Lý:
- “Nguyện sanh bỉ quốc” biểu thị sự “bội trần hiệp giác” (bỏ trần lao, hướng theo giác ngộ. Ở đây, Trần là ngũ trược, Giác là Cực Lạc).
- “Chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ” biểu thị trong tâm sẵn đủ hết thảy thiện pháp.
3. CHÁNH THỊ CHẤP TRÌ DANH HIỆU DĨ LẬP HẠNH(chỉ bày thẳng vào việc chấp trì danh hiệu để lập hạnh)
3.1. Xuất thắng nhân(nêu ra nhân thù thắng)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc.
(Xá Lợi Phất! Chẳng thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên để sanh về cõi ấy).
Giải:
Đây chính là đoạn văn thừa tiếp ý đoạn trên, nhấn mạnh: Muốn thân cận các bậc thượng thiện nhân như trên đã nói, cần phải có nhiều thiện căn, phước đức. Dùng câu nói này, Đức Phật nhằm dẫn dụ thính chúng nhận thức công đức thù thắng của việc Trì Danh: Tu hành các hạnh khác đều là những việc chỉ đạt được chút ít thiện căn, chút phước đức, chút nhân duyên; đều chưa phải là chánh nhân để được vãng sanh.
Thiện chính là hành vi cùng tâm nguyện thuần chánh, lương hảo. Căn có nghĩa là sanh trưởng. Như vậy, hiểu rộng ra thì “thiện căn” ở đây chính là tâm nguyện thuần lương, tinh tấn hành trì, cầu sanh Tây Phương. Đấy chính là căn bản của việc phát nguyện cầu sanh.
“Phước đức”: làm những điều lành nhằm tạo lợi ích cho người khác thì gọi là “tu phước”. Tích tụ thiện hạnh là Đức. Hành giả nếu chỉ có thiện căn mà chẳng chịu tu tập các phước đức để làm trợ hạnh, thì cũng chưa đủ để được vãng sanh Tây Phương.
Thiện căn và phước đức còn có thể hiểu như sau: thiện căn chính là Bồ Đề chánh đạo, đó là nhân; lục độ vạn hạnh là phước đức, đó là trợ duyên.
Nói cách khác: khăng khăng chấp giữ cái tâm phàm phu, đó là “vô thiện căn”. Phát tâm Tiểu Thừa là “thiểu thiện căn”, chẳng làm những việc lợi người là “vô phước đức”. Dù làm nhưng mong cầu phước báo thì là “thiểu phước đức”. Trái lại: phát nguyện niệm Phật cầu sanh chính là làm được hạnh khó làm, nên có nhiều thiện căn; một câu hồng danh đầy đủ vạn đức, trì được câu danh hiệu ấy chính là nhiều phước đức. Bởi lẽ, trong đời ác ngũ trược này mà trì niệm được danh hiệu A Di Đà thì đích thật là một nhân duyên thù thắng khôn sánh!
Nói ở mức độ cao hơn: Thiện căn chính là chánh hạnh Niệm Phật; phước đức là tất cả các công đức khác để làm trợ duyên. Niệm Phật là đại thiện căn, là chánh nhân, những thiện sự khác chính là công đức, phước nghiệp, làm trợ duyên. Đúng như kinh Đại Bi đã dạy: “Một phen xưng danh hiệu Phật thì đã là thiện căn, dự vào trong cảnh giới Niết Bàn, chẳng thể cùng tận”.
Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Đức cũng bảo: “Nếu có ai được nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Như Lai, một dạ tin ưa, trì phúng, tụng niệm thì người ấy sẽ được vô lượng phước, vĩnh viễn thoát khỏi tam đồ. Sau khi mạng chung sẽ vãng sanh cõi kia”.
Luận Trí Độ khẳng định: “Thí như có người, lúc vừa mới sanh ra trên đất, liền có thể một ngày đi cả ngàn dặm, dâng thất bảo cúng Phật trong suốt cả ngàn năm, vẫn chẳng bằng người trong đời ác sau này xưng niệm một tiếng A Di Đà Phật. Phước người sau trội hơn người trước”.
Cũng theo Trí Độ Luận, chứng được năm thứ Bồ Đề tâm sau đây là tối thiện:
a) Phát Bồ Đề tâm: nghĩa là ngay khi đang còn ở trong vô lượng sanh tử, người niệm Phật có thể phát khởi tâm Đại Bồ Đề, cầu thoát sanh tử, vãng sanh Cực Lạc để tự độ, độ người.
b) Phục tâm Bồ Đề: trì danh niệm Phật, chánh niệm liên tục, đoạn các phiền não, hàng phục tâm mình.
c) Minh tâm Bồ Đề:trì danh niệm Phật, tâm miệng tương ứng, hiểu rõ một niệm tương ứng một niệm Phật, hiểu rõ các pháp không có vật gì ở ngoài tâm, niệm niệm tương ứng với niệm niệm Phật.
d) Xuất đáo Bồ Đề: đắc Vô Sanh Nhẫn, xuất ly tam giới.
e) Vô thượng Bồ Đề: người trì danh niệm Phật, viên chứng ba thứ Bất Thoái, đạt địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ, ngồi Đại Đạo Tràng, thành vô thượng chánh giác.
Người niệm Phật dẫu còn ở địa vị phàm phu, nhưng đã phát khởi tâm Đại Giác, chánh niệm rỡ ràng, phiền não tự diệt, nội tâm tự có thể thuyết pháp Thật Tướng, chứng được địa vị Bất Thoái Chuyển, thẳng tiến đến thành Phật, nên đương nhiên năm thứ Bồ Đề tâm đều chứng trọn.
Hơn nữa, cầu sanh Tây Phương không phải là tiêu cực, trốn tránh hiện thực như nhiều người lầm tưởng. Cầu sanh Tây Phương chính là để đạt hoàn cảnh và nhân duyên tu tập thuận lợi cho sự tiến tu. Một khi chính mình đã chứng nhập Chân Lý, sẽ trở vào Sa Bà, lần lượt hóa độ chúng sanh.
Như vậy, trì danh niệm Phật thật là điều thiện nhất trong các sự thiện, thật là đại thiện bậc nhất trong các điều thiện lớn lao nhất.
Hành giả tu trì một câu A Di Đà chính là tu trọn vạn hạnh, tu khắp lục độ! Niệm đến nhất tâm bất loạn, buông bỏ thân tâm thì đương nhiên sẽ chẳng khởi tâm tham. Đấy là Bố Thí Độ. Chẳng còn tâm tham sẽ không khởi tạo mọi điều ác. Đấy chính là Trì Giới Độ. Không còn ác nghiệp đương nhiên không còn nhân ngã thị phi, đấy là Nhẫn Nhục Độ. Đã được nhất tâm bất loạn thì nội tâm tự nhiên minh bạch, chẳng có chút gián đoạn, chẳng hề có ý tưởng lười nhác. Đấy chính là Tinh Tấn Độ. Do đạo nghiệp tinh tấn nên chẳng khởi vọng niệm điên đảo, đấy chính là Thiền Định Độ. Không còn vọng niệm thì đương nhiên chánh niệm rỡ ràng, chẳng bị lầm lạc vào những nẻo quanh co, dứt tận cùng cội rễ ngu si. Đấy chính là Trí Huệ Độ.
Rõ ràng là giữ vững sáu chữ hồng danh chính là tu trọn Lục Độ; mà tu Lục Độ chính là tu trọn hết thảy phước đức. Vì thế, Niệm Phật chính là đại phước đức vậy!
Tuy nói như vậy, cần phải lưu ý là người niệm Phật chớ nên xao lãng việc tu tập các phước duyên để làm trợ hạnh. Bởi lẽ người niệm Phật trong đời hiện tại, nghiệp chướng nặng nề, căn lành sơ bạc, nếu không dùng trợ duyên hỗ trợ, khó lòng một bề tinh tấn chuyên tu. Một khi đã không tinh tấn chuyên tu, hóa ra thiện căn cũng chẳng thành tựu, mà phước đức cũng chẳng đạt được gì, làm sao thành tựu sự nghiệp vãng sanh?
Hỏi: Câu nào cũng đề cao Niệm Phật là đại thiện căn, là đại phước đức. Như vậy, hóa ra tu các môn khác, chẳng hạn như tu Thiền Định là ít thiện căn, ít phước đức hay sao?
Đáp: Phải biết rằng: Tu Thiền Định là hạnh viên đốn, chuyên chú trọng nơi Thiền Định, không hề cầu sanh Tây Phương. Tuy là kiến giải cao, nhưng sự tái sanh trong thân sau chưa đoạn (tức là chưa đoạn nổi sanh tử). Chẳng hạn như Ngài Triết Công tinh tấn tu Thiền, là bậc đại long tượng trong nhà Thiền, thân sau sanh trong nhà họ Tăng, phải đọa lạc trong chốn hồng trần. Ngũ Tổ Giới Thiền Sư thân sau sanh làm Tô Đông Pha, tham luyến phú quý... Cứ lấy mấy trường hợp ấy mà suy, ta thấy tu các môn khác chưa ổn đáng, nên chẳng xứng gọi là “đại thiện, đại phước đức” được!
Hỏi: Quán kinh đã dạy thập niệm Di Đà, chóng sanh Tịnh Độ. Nếu nói như vậy, hóa ra đâu cần phải nhiều thiện căn, nhiều phước đức mới được vãng sanh?
Đáp: Mười niệm được sanh là bi nguyện để tiếp độ chúng sanh giải đãi. Nhưng thật ra để thành tựu mười niệm đó, cần phải cả một quá trình tu tập dài lâu. Kẻ ngũ nghịch, thập ác lâm chung nếu không có túc phước thâm hậu, dễ đâu lâm chung gặp thiện tri thức khai ngộ, mười niệm vãng sanh? Nói “nhiều thiện căn, nhiều phước đức” là đối với căn cơ tinh tấn, siêng học mà nói. Kinh văn nói hoặc lược hoặc rộng, phải khéo suy xét, chớ khá hồ nghi!
Hỏi: Bồ Tát bao kiếp dài lâu vào trong cõi trần độ sanh, nay ta nguyện vãng sanh Tây Phương, ắt chẳng thể trở về ngay đời ngũ trược hóa độ hữu tình, há chẳng phải là tu hạnh Tiểu Thừa hay sao?
Đáp: Bao kiếp dài lâu ở trong cõi trần độ sanh nào phải chuyện dễ dàng! Muốn làm được vậy, phải có đủ trí huệ, biện tài, thần thông, phương tiện. Nếu không, khác nào toan cứu người chết đuối, mình đã không có ghe thuyền, lại chẳng biết bơi; mình lẫn người cùng chết chìm cả! Muốn phát Đại tâm, trước hết phải vãng sanh về cõi kia, để hoa nở, gặp Phật, rồi sau mới có thể trở vào ngũ trược, thuận nghịch lợi sanh một cách tự tại được.
Hỏi: Cõi Sa Bà một kiếp chỉ bằng một ngày đêm trong cõi Cực Lạc. Bậc Thượng Trung Phẩm vãng sanh còn phải chờ qua một đêm hoa mới nở, bảy ngày sau mới đắc Diệu Bồ Đề. Bậc Thượng Hạ Phẩm phải chờ đúng một ngày một đêm hoa mới nở, hăm mốt ngày sau mới được thấy Báo Thân Phật. Như vậy là khi đó, cõi Sa Bà đã trải qua nhiều kiếp. Nếu ta không kịp độ chúng sanh, chỉ sợ bọn họ tâm thức bất định, tạo nghiệp đọa khổ, không cách nào cứu nổi?
Đáp: Tuy phát đại tâm, tự mình không sức, chẳng bằng tự cứu mình trước đã! Khi đã đắc Phật Huệ rồi, sẽ nhập trần độ sanh, cả mình lẫn người đều được lợi ích thù diệu. Nay tâm đại bi tha thiết, sau ắt sẽ toại nguyện.
Xét về Lý, “thiện căn, phước đức" biểu thị hết thảy công đức sẵn có nơi tự tánh.
3.2. Thị chánh tu(chỉ bày đường lối tu hành)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn.
(Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe nói A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn)
Giải:
Đoạn kinh văn này giảng về điều kiện thứ ba để được vãng sanh: Hạnh. Hạnh chính là Chấp Trì Danh Hiệu.
Từ ngữ “thiện nam tử, thiện nữ nhân” bao gồm hết thảy chúng sanh trong sáu đường, tất cả những người có thiện tâm. Gọi là “thiện nhân” vì phải là người từng đã gieo nhiều căn lành từ trước đối với Tam Bảo, nay mới có thể niệm Phật.
Hiểu theo nghĩa hẹp, “thiện nam tử”, tiếng Phạn là Ưu Bà Tắc (còn phiên là Ô Ba Sách Ca), Hán dịch là Cận Sự Nam, là những tại gia đệ tử nam, vâng giữ năm giới. Do thân cận phụng sự Tam Bảo nên gọi là “cận sự”. “Thiện nữ nhân”, tiếng Phạn là Ưu Bà Di (còn phiên là Ô Ba Tư Ca), dịch là Cận Sự Nữ.
Hỏi: Vãng Sanh Luận của Bồ Tát Thiên Thân (Bà Tẩu Bàn Đậu) viết: “Nữ nhân và căn khuyết, giống nhị thừa chẳng sanh”, ở đây kinh lại gộp cả thiện nữ nhân, như vậy có mâu thuẫn nhau hay không?
Đáp: Như nữ nhân chuyên tinh niệm Phật tinh tấn, khi mạng chung rồi sẽ chuyển sanh nam thân, sanh về cõi kia, nào có trở ngại gì. Người căn khuyết cũng thế. Vả nữa, Luận nói như vậy hàm nghĩa: trong cõi Cực Lạc, không hề có danh hiệu nữ nhân, không có người các căn bị khuyết thiếu, không có định tánh Nhị Thừa!
“Văn”(nghe) là nghe từ nơi thiện hữu giảng thuyết sự vãng sanh cõi Cực Lạc, hoặc tự mình tìm hiểu biết được. Nên biết rằng: “Một phen lọt qua tai, vĩnh viễn thành Phật chủng”. Một khi danh hiệu Phật lọt qua tai, sẽ kết thành đạo chủng thành Phật trong tương lai; vì ai ai cũng có Phật tánh, nhờ Phật hiệu đánh thức, khiến cho tâm thức phát sanh thiện căn, thiện căn ấy lần lần được tăng trưởng, thuần thục, khiến hành nhân phát tâm Bồ Đề, tiến tu đạo nghiệp. Nghe danh hiệu Phật có lợi ích lớn lao như thế nên kinh Hoa Nghiêm từng nói: “Thà ở trong đường ác, thường được nghe Phật hiệu, chẳng muốn trong đường thiện, tạm thời chẳng nghe nói đến Phật!”
“Chấp trì”: Chấp là cầm nhận lấy, Trì là giữ gìn. Hiểu sâu hơn: Chấp là tín tâm chẳng lay động, Trì là nghĩ nhớ chẳng quên. Ý nói: do tín lực kiên cường, vận dụng công phu nghĩ nhớ, gìn giữ danh hiệu Phật chẳng hề quên mất. Chấp Trì Danh Hiệu không có nghĩa là miệng niệm Phật xuông, mà tâm phải chuyên chú theo tiếng niệm, tâm khẩu tương ứng, tịnh niệm tiếp nối, mới xứng gọi là Trì Danh Niệm Phật.
Hỏi: Nhà Phật kỵ nhất là chấp trước, hễ còn chấp trước thì chưa phải là ngộ nhập Phật pháp, tại sao ở đây Phật lại dạy chúng sanh nên chấp trì danh hiệu, há chẳng phải là khiến tâm chấp trước càng sâu nặng hơn sao?
Đáp: Tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng qua chỉ gồm 2 loại chính: Không môn và Hữu môn.
Từ Không môn mà vào thì phải chứng nhập “hết thảy đều là không”, chẳng được chấp trước. Vì thế, kinh Kim Cang dạy:
Dùng sắc để thấy ta,
Dùng âm thanh cầu ta,
Người ấy hành đạo tà,
Chẳng thấy được Như Lai.
Ý nghĩa của bài kệ này là khi còn chấp có sắc thân Phật để thấy được, còn có âm thanh Phật thuyết pháp có thể cầu được thì đã lạc vào đường tà, làm sao thành Phật nổi? Theo Không Môn nhập đạo, phải thấy hết thảy là không. Ngay cả cái “tất cả đều là không” ấy cũng là không. Trọn không còn chấp vào cái gì nữa mới hòng minh tâm kiến tánh.
Từ Hữu môn nhập đạo lại khác: Tin có cõi Cực Lạc, tin có Phật A Di Đà, không hề sợ chấp trước, vì chấp đây là chấp vào A Di Đà Phật, chứ nào phải chấp vào ngũ dục, lục trần. Y báo, chánh báo cõi Cực Lạc chính là Diệu Hữu. Chấp vào Diệu Hữu, chấp đến nhất tâm bất loạn, sanh về Tây phương, liễu chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đấy là đường tuy khác, nhưng mục đích tương đồng. Diệu Hữu chẳng hữu mới chính là Chân Không. Cái không của Chân Không nào phải là ngoan không, cũng chẳng phải là Đoạn Diệt Không. Chân Không chẳng không chính là Diệu Hữu!
Vì thế, nào ngại chấp trước, chỉ sợ chấp trước chẳng chuyên; bởi lẽ, ngũ dục, lục trần đã là tập khí từ vô thỉ! Đấy chính là dùng tịnh chấp để đối trị vọng chấp.
Những câu “hoặc một ngày... hoặc bảy ngày” hàm nghĩa giả định. Nói từ một ngày cho đến bảy ngày chỉ là tạm ấn định một thời gian để dốc sức hạ thủ công phu trì niệm; mà cũng là ngụ ý: công phu Niệm Phật thật dễ thành tựu. Chúng sanh căn cơ khác nhau, nghiệp chướng cạn sâu có khác. Có người niệm Phật từ một đến bảy ngày liền được Nhất Tâm Bất Loạn. Đương nhiên có người phải niệm nhiều lần bảy ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, hoặc bốn mươi chín tháng, bốn mươi chín năm, thậm chí cả đời niệm Phật, cũng chưa đạt được Nhất Tâm Bất Loạn.
Con số “từ một đến bảy ngày” đó chỉ là nói đại khái, để hành giả định kỳ hạn chuyên tu, ngõ hầu đạt được Nhất Tâm. Chẳng hạn, kinh Vô Lượng Thọ lấy 10 ngày chuyên niệm làm hạn. Kinh Cổ Âm Thanh Vương cũng bảo mười ngày mười đêm chuyên trì niệm, trừ bỏ tán loạn. Kinh Ban Châu Tam Muội lại lấy bốn mươi chín ngày làm hạn, thường đi, thường đứng, chuyên niệm Phật. Kinh Văn Thù Bát Nhã cũng lấy bốn mươi chín ngày thường ngồi hướng về Tây, chuyên niệm Phật để cầu đắc Tam Muội. Đức Di Đà đã nguyện: “Nhất tâm hệ niệm đến ta, tuy chỉ trong vòng một ngày một đêm chẳng đoạn, ắt sẽ được sanh trong cõi ta”.Như vậy, thời gian dài hay ngắn chẳng thành vấn đề. Quan trọng là người niệm Phật có giữ được tâm niệm Phật liên tục chẳng gián đoạn hay không.
“Nhất tâm bất loạn”:Bốn chữ này chính là yếu chỉ của toàn bộ kinh, mà cũng là cứu cánh của toàn bộ công phu niệm Phật. Nói rộng ra: bốn chữ này chính là cốt tủy của toàn bộ Đại Tạng Kinh, là chỗ tu chứng của mọi pháp môn, là điều xứng tánh cực đàm của toàn bộ giáo thuyết nhà Phật.
“Nhất tâm” là không có gì xen tạp khiến tâm bị gián đoạn. “Bất loạn” là chuyên chú, không bị tản mác. Hiểu một cách đơn giản, sơ lược: Phàm phu suốt ngày lăng xăng với những chuyện bên ngoài, những vọng tưởng bên trong, gặp cảnh nào duyên theo cảnh đó, tâm vọng động liên tục. Nhất Tâm Bất Loạn là tâm chỉ riêng chuyên chú nơi danh hiệu Phật, không còn tưởng đến gì khác. Dù làm mọi chuyện gì, uống, ăn, làm lụng, ngủ nghỉ, trong tâm không rời câu Phật hiệu. Hiểu như vậy mới là đạt Nhất Tâm Bất Loạn về mặt Sự.
Nếu thấu hiểu, chứng nhập được diệu chỉ “ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm”, tâm lẫn Phật gộp thành một phiến, tâm vắng lặng như mặt nước, như gương sáng, chiếu soi hết thảy, nhưng chẳng bị hết thảy lay động, thì đã đạt Nhất Tâm Bất Loạn về mặt Lý.
Đạt được nhất tâm bất loạn là đã chứng Niệm Phật Tam Muội, quyết định được vãng sanh vô ngại, nào khác gì với cái gọi là “minh tâm kiến tánh” của nhà Thiền ư? Cần phải nhớ rằng người thật sự minh đạt đạo lý Nhất Tâm sẽ chẳng chấp lý phế sự. Trái lại, càng thêm dũng mãnh trì danh chẳng ngơi. Bởi lẽ toàn Sự tức là Lý, toàn Lý tức là Sự.
Hỏi: Kinh văn chỉ nói từ một ngày đến bảy ngày liền đạt nhất tâm bất loạn, nhưng có người tu hành cả mấy tháng, mấy năm, cho đến trọn đời vẫn không đạt được nhất tâm bất loạn là vì sao?
Đáp: Có ba nguyên nhân:
- Tội nghiệp sâu nặng.
- Niệm lực chưa đủ, lại tu trì chẳng chuyên.
- Niệm chẳng đúng như pháp, tâm niệm Phật chưa thật sự khẩn thiết, tín tâm chưa sâu chắc. Theo Ngài Đạo Nguyên, niệm Phật chín trăm chín mươi chín tiếng rồi, nếu một niệm nghĩ tưởng đến chuyện gì khác ngoài Phật hiệu thì lần chuỗi niệm lại từ đầu, không tính những niệm trước. Có như vậy tâm mới chuyên nhất được.
Tâm người niệm Phật hay bị tán loạn phần nhiều là do những điều mình thấy nghe gây chướng ngại. Nếu biết tu tập sao cho trong bất cứ hoàn cảnh nào đều niệm Phật được thì tâm sẽ chẳng khởi lên vọng niệm, sẽ mau đạt được nhất tâm. Nếu một Phật thất chưa thành tựu thì hai, ba thất cho đến trọn đời dũng mãnh niệm Phật, lo gì rồi sẽ chẳng thành tựu “nhất tâm bất loạn”.
Tuy thế, Đại Sư Luyến Tây Cổ Côn Ngọc Phong còn cho rằng cứ chuyên tâm niệm Phật là đủ, dẫu tâm tán loạn cũng được, miễn sao thời thời khắc khắc đừng quên câu niệm Phật, chẳng cần vội mong cầu “nhất tâm bất loạn” làm gì. Càng mong cầu sẽ khiến tâm thêm chao động, càng khó đạt Nhất Tâm. Ngài dạy: “Nếu thường niệm Phật lâu ngày thì ắt sẽ biết là nhất tâm bất loạn quyết định là do tán tâm niệm Phật mà thành, lẽ đâu lại coi là chuyện tầm thường! Nếu đã chẳng tán tâm niệm Phật từ trước thì làm sao thành tựu nổi nhất tâm? Nếu ai quả thực có thể thường tán tâm niệm Phật lâu ngày chẳng lui sụt thì sẽ tự nhiên thành tựu nhất tâm!”
Ngài còn cho rằng căn bịnh chung của người niệm Phật là vừa niệm Phật vừa cố trừ vọng tưởng. Tâm niệm xáo động nên càng khó nhất tâm. Phải quán sát: “Hoàn toàn không vọng tưởng thì chỉ có mỗi một mình Như Lai đạt được, hễ còn là chúng sanh thì còn có vọng tưởng. Mặc cho vọng tưởng lao xao, cứ chuyên tâm niệm Phật thì tự nhiên vọng tưởng lặng dần, chẳng cần diệt mà vọng tưởng tự diệt. Nếu không biến câu niệm Phật thành tập quán, làm sao lúc lâm chung nhớ Phật, niệm Phật cho được?”
Đại Trí Độ Luận dùng ba tâm để phán định Nhất Tâm Bất Loạn:
1) Trực tâm:chánh niệm Chân Như, chẳng lạc vào hữu niệm lẫn vô niệm, chẳng chấp vào hai bên (có và không), hoàn toàn quy về Trung Đạo. Đấy chính là Nhất Tâm Bất Loạn.
2) Thâm tâm: ưa thích tích tập các thiện pháp, tu trọn lục độ, đầy đủ vạn hạnh. Như kinh Na Tiên đã nói: “Trong các điều thiện, chỉ có mỗi mình Nhất Tâm thật là bậc nhất. Các điều thiện tùy thuận Nhất Tâm ấy”.Đấy chính là Nhất Tâm Bất Loạn.
3) Đại bi tâm: rộng độ chúng sanh, độ được chúng sanh nơi tự tánh của chính mình. Đấy chính là Nhất Tâm Bất Loạn.
Căn cứ trên ba tâm ấy, chúng ta thấy rằng: Người niệm Phật nếu đã có thể chánh niệm Chân Như, tu lục độ, vạn hạnh, rộng độ chúng sanh, thì đấy chính là chân nhân để thành tựu vãng sanh, đương nhiên lâm chung sẽ cảm được Phật và thánh chúng đến tiếp dẫn.
Nếu luận về Sự Lý thì có bốn loại chấp trì danh hiệu Phật:
a) Sự Trì Danh Niệm Phật:
Chẳng luận là tăng hay tục, là trời hay người, nếu có thể xem nhẹ danh lợi, ngũ dục, buông bỏ thân tâm, lại đoạn trừ được tập khí, nghĩ đến những nỗi khổ của cõi Sa Bà, hâm mộ những sự vui trong cõi Cực Lạc, miệng niệm tai nghe sáu chữ hồng danh Di Đà, chữ chữ phân minh, câu câu nối tiếp, ngoài tuyệt tà cảnh, trong tâm dứt những suy tưởng. Đi cũng niệm như thế, đứng, ngồi, nằm cũng niệm như thế. Nghĩa là trong cả bốn oai nghi, trong mọi hoàn cảnh chẳng lìa câu niệm thì gọi là Sự Trì Danh Niệm Phật.
Thành tựu cách tu này thì chẳng bị Kiến Hoặc, Tư Hoặc nhiễu loạn, lâm chung cảm Ứng Thân Phật đến tiếp dẫn vãng sanh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ.
b) Lý Trì Danh Niệm Phật:
Cách này dung thông cả Thiền lẫn Quán. Trước hết, phải nhận thức rõ: một niệm tâm tánh tịch chiếu thường hằng, tịch mà thường chiếu (vô lượng quang), chiếu mà thường tịch (vô lượng thọ). Dùng quang - thọ làm Thể để khởi tín nguyện trì danh, nhất tâm xưng niệm, động tịnh bất nhị thì gọi là Lý Trì Danh Niệm Phật.
Tu cách này thành tựu sẽ phá được Trần Sa vô minh, cảm được Báo Thân Phật đến tiếp dẫn vãng sanh Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ.
c) Sự Lý Bất Nhị Trì Danh Niệm Phật:
Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng giống nhau: thuận tiện cũng được, bất tiện cũng xong, trong khi Thiền Quán cũng tốt, ở chốn ồn náo cũng được, chẳng bị chân lẫn vọng làm trở ngại. Hiểu rõ toàn vọng là chân, tâm, Phật, chúng sanh vô sai biệt. Niệm niệm Di Đà, tiếng tiếng Cực Lạc. Làm được như vậy chính là Sự Lý Bất Nhị Trì Danh Niệm Phật.
Tu cách này thành tựu sẽ phá được căn bản vô minh, cảm được Pháp Thân Phật hiện tiền, sanh trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
d) Tùy Ý Trì Danh Niệm Phật:
Chẳng câu nệ hoàn cảnh nào, cứ mặc kệ tất cả để niệm Phật. Niệm đến mức nhất tâm bất loạn, đến lúc lâm chung liền được tùy ý vãng sanh, hoa nở gặp Phật. Đấy là Tùy Ý Trì Danh Niệm Phật.
Tu cách này thành tựu thì tùy công phu sâu hay cạn, sẽ tùy ý cảm được Phật hiện tiền, sanh về Cực Lạc.
Luận về phương cách trì danh niệm Phật thì lại có mười loại:
1) Ngồi ngay ngắn trì danh: Lúc đi đứng nằm, ngồi, thân tâm đoan chánh. Hễ thân ngay thẳng tâm ắt sẽ chánh trực. Tâm chánh trực thì vọng niệm khó sanh, tự nhiên thanh tịnh, mau đắc Nhất Tâm Bất Loạn.
2) Lần chuỗi niệm Phật: niệm Phật một tiếng, tay lần chuỗi một hạt, chớ để lầm loạn. Dùng chuỗi để bó buộc tâm, tự nhiên mau được thân tâm vắng lặng thanh tịnh.
3) Kim Cang Trì: Ở chỗ ồn ào, hoàn cảnh chẳng thuận lợi, thì chỉ động môi mép niệm. Đấy là Kim Cang Trì. Chẳng cần biết niệm nhiều hay ít, cốt sao chữ chữ phân minh, Phật hiệu từ trong tâm tuôn ra. Làm vậy sẽ trừ được hết thảy vọng niệm, mau đạt Niệm Phật Tam Muội.
4) Lớn tiếng niệm Phật: khi vọng tưởng nổi lên, hoặc lúc thần chí hôn trầm, nên niệm Phật lớn tiếng để đánh thức, khôi phục tinh thần. Niệm đến khi tinh thần tỉnh táo, thì lại niệm nhỏ tiếng như cũ.
5) Niệm Phật nhỏ tiếng: lúc mệt mỏi, chỉ cần niệm sao cho riêng mình nghe được là đủ, niệm cho đến khi hết mệt mỏi, tinh thần phấn khởi trở lại thì có thể chuyển sang cách niệm Phật lớn tiếng.
6) Phép niệm điều hòa hơi thở: Lúc tịnh tọa, trước hết điều hòa hơi thở sao cho chẳng gấp, chẳng hoãn, dõi theo hơi thở ra vào, cứ mỗi hơi là một câu niệm Phật. Niệm đến lúc không còn thấy hơi thở lẫn câu niệm, thân tâm an vui, ngay khi ấy chính là cảnh giới Duy Tâm Tịnh Độ.
7) Lễ bái trì danh niệm Phật: Thân ngay ngắn hướng về Phật, vừa lễ vừa niệm, hoặc niệm xong, lễ một lễ. Hoặc lạy một lạy xong, niệm mấy câu lại lễ đều được. Nhân vì thân lễ Phật, miệng niệm Phật, ý nghĩ đến Phật nên ba nghiệp thanh tịnh, sáu căn thâu nhiếp. Cách này có hiệu lực rất lớn, rất dễ chứng đắc Niệm Phật Tam Muội.
8) Định kỳ trì danh: Tự hạn định thời gian để tạ tuyệt hết thảy mọi việc, thân tâm buông bỏ hết để chuyên chí niệm Phật. Cách này thường gọi là “khắc kỳ thủ chứng” (định kỳ hạn để cầu được chứng đắc); rất mau được “nhất tâm bất loạn”.
9) Niệm Phật trong khi bệnh hoạn: Trong khi bệnh tật, luôn nghĩ mọi thứ cảm thọ trong Sa Bà đều là khổ; coi nhẹ sống chết, siêng năng niệm Phật, chỉ mong A Di Đà Phật mau đến tiếp dẫn. Đây chính là phương pháp tối hảo để tự khích lệ mình siêng gắng.
Trong quá khứ, có một vị Tăng mắc bệnh, đau đớn quá, cứ rên “ôi chao” một tiếng, lại niệm Phật một tiếng, ngày đêm chẳng ngớt xưng niệm. Quả nhiên cảm được Như Lai gia hộ, chẳng lâu sau liền lành bệnh, bèn bảo mọi người: “Tôi trong lúc đau bệnh, hễ đau liền rên ôi chao, đỡ đau liền niệm A Di Đà Phật. Giờ đây bệnh đã khỏi nhưng A Di Đà vẫn còn y nguyên, hai chữ ôi chao không biết đã đi đâu rồi!” Câu chuyện này có thể lấy làm gương cho những hành nhân Tịnh nghiệp vậy.
10) Trì danh bằng mười hơi: Cứ trong một hơi, tùy ý trì được mấy câu thì trì cho đến hết một hơi. Làm như vậy đến mười lần thì thôi. Cách này căn cứ theo ý nghĩa thập niệm vãng sanh trong bốn mươi tám nguyện của đấng Từ Phụ, dành cho những người quá bận rộn, không có thời gian rảnh rỗi nhiều để niệm Phật.
Hỏi: Lúc niệm Phật, bị nhiều tạp tưởng hôn trầm bức bách quá đỗi thì phải làm cách nào?
Đáp: Vọng tưởng chính là tập khí từ vô thỉ, muốn trừ vọng tưởng thì vọng tưởng càng tăng thêm. Khi vọng tưởng nổi lên, cứ cao tiếng niệm Phật khiến cho từng câu niệm lọt rõ ràng vào tai, chú tâm lắng nghe, dần dần tâm sẽ quy nhất.
Hỏi: Cầu thọ thì niệm Dược Sư, độ vong thì niệm Di Đà có được hay không?
Đáp: Niệm vị Phật nào cũng có công đức chẳng thể nghĩ bàn; nhưng nếu niệm như vậy, tâm vướng mắc vào chỗ phân biệt, so đo. A Di Đà chính là Vô Lượng Quang Thọ, nguyện lực khôn lường. Niệm một đức Phật đến triệt để thì hiện tại đã tăng phước thọ, lâm chung gởi chất nơi liên thai. Chứ nếu tâm còn so đo, tính toán, sẽ khó lòng niệm đến đắc lực được!
Chánh kinh:
Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền.
(Người ấy lúc mạng sắp dứt, A Di Đà Phật cùng các thánh chúng hiện ra trước mặt)
Giải:
Đoạn trước, Phật dạy diệu hạnh Trì Danh. Đoạn này, Phật thuyết minh quả báo thù thắng của diệu hạnh Trì Danh.
Chữ “kỳ nhân”chỉ người niệm Phật đã niệm đến mức nhất tâm bất loạn.
“Lâm mạng chung thời”là lúc khổ báo trong cõi Sa Bà sắp chấm dứt.
“Chư thánh chúng”là các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác trong cõi Cực Lạc.
Lúc lâm chung, cảm được Phật, Thánh đến tiếp dẫn hoàn toàn là cậy vào Tự Lực và Tha Lực cảm ứng đạo giao mà thành. Phàm nhân, lúc bình thời đã tạo những nghiệp thiện ác gì, lúc lâm chung, những cảnh thiện ác ấy đều cùng lúc hiện ra trước mặt. Tùy theo nghiệp lực sẽ sanh thiên hay đọa lạc. Kẻ tạo ngũ nghịch, thập ác, ắt tướng Địa Ngục hiện tiền. Kẻ keo, tham, ganh ghét, cảm tướng Ngạ Quỷ hiện. Kẻ ngu si ám muội cảm tướng súc sanh hiển hiện.
Nếu cả một đời niệm Phật, thì do tịnh nghiệp cảm thành, đương nhiên tịnh cảnh sẽ hiện ra; vì thế, Phật, Thánh tự nhiên hiển hiện; đúng như kinh Lăng Nghiêm đã dạy: “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại, tương lai, nhất định thấy Phật”.Đấy chính là sức tự niệm của chính mình.
Phật Di Đà lại có lời nguyện: “Lúc ta thành Phật, chư thiên nhân dân trong mười phương vô ương số thế giới có ai phát Bồ Đề tâm, tu cáccông đức, nguyện sanh về cõi ta, thì lúc lâm chung, ta cùng đại chúng hiện trước mặt người ấy”.Đây chính là Tha Lực, tức là Nguyện Lực của Phật A Di Đà.
Hỏi: Phật thân vốn chẳng đến, chẳng đi, sao lại bảo là hiện ra trước mặt?
Đáp: Pháp Thân vốn không đến, không đi, nhưng Báo Thân, Ứng Thân vì độ sanh nên phương tiện tùy cơ cảm hiện.
Hỏi: Chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới rất nhiều, chỉ có mỗi một đức Phật A Di Đà làm sao có thể hiện ra khắp mọi nơi được?
Đáp: Như một vầng trăng trên không hiện bóng trong muôn chỗ có nước. Tâm người niệm Phật trong veo như nước thì Di Đà và Thánh Chúng đều hiện bóng trong ấy. Điều này cũng chẳng ngoài sức cảm ứng đạo giao của Tự Lực và Tha Lực vậy.
Hỏi: Cứ như nhà Thiền thường bảo: “Phàm hết thảy những hình tướng ta thấy đều là hư vọng, hoặc là ma đến nhiễu loạn đạo tâm”. Vậy lấy gì bảo đảm Phật và thánh chúng hiện ra khi người niệm Phật lâm chung đó chẳng phải là ma?
Đáp: Nên biết rằng Niệm Phật là pháp môn vô cùng đặc biệt. Niệm Phật thấy Phật là chuyện nhân quả xứng hợp. Xưa Ngài Huệ Viễn chuyên tu Tịnh nghiệp, ba lượt thấy Thánh tượng, lâm chung thấy Phật tiếp dẫn. Tâm đã chân thành niệm Phật, lại nương Phật lực, bổn nguyện lực, nhiếp thọ lực tiếp dẫn, chở che, ắt chẳng có ma sự!
Giả sử hành giả do túc nghiệp sâu nặng, hoặc là chẳng khéo dụng tâm, nên vướng phải ma sự, làm sao phân biệt được? Hãy dùng huệ tâm quán sát, soi chiếu hết thảy cảnh giới vốn là không tịch. Nếu là ma hiện thì đương nhiên chúng sẽ bị ẩn mất.
Xin đại chúng hãy nhớ: “Phù sanh như mộng, huyễn chất chẳng bền, vô thường nhanh chóng, sanh tử việc lớn”, hãy gấp chí tâm niệm Phật để dự bị lúc lâm chung khỏi bị tán loạn.
Lại có kẻ bảo: “Nếu đúng là như thế, chỉ cần lúc lâm chung, phát sanh thiện tâm niệm Phật thì liền được vãng sanh Tây Phương là xong. Cần gì lúc thường cứ phải khéo dụng công niệm Phật!”
Đáp: Cần phải nhớ rõ một điều: có được một niệm lâm chung toàn là nhờ lúc bình thường chí tâm niệm Phật. Tu trì đến mức thuần thục thì lâm chung, chánh niệm mới hiển hiện rỡ ràng, mới có thể phát khởi thiện niệm. Nếu không, bệnh tật hôn mê, đau đớn bức bách, lại thêm vợ đèo con níu, quyến thuộc lăng xăng, chẳng thể dứt tình ân ái, hoặc bị những ác nghiệp từ trước lôi kéo, nhiễu loạn khiến thần chí mê loạn. Lúc bấy giờ có muốn phát khởi một thiện niệm hay niệm Phật một tiếng cũng không xong.
Hơn nữa, mạng người yểu thọ, dễ ai biết trước, hoặc bị tai nạn chết ngang xương, có kịp phát sanh thiện niệm nữa không? Đến giây phút lâm chung quan yếu ấy, người tu hành tinh tấn còn sợ chẳng thể làm chủ, huống hồ là kẻ chẳng tu ư?
Vì vậy, lúc bình thời tu trì niệm Phật chính là để dự bị cho lúc lâm chung. Cứ bảo đợi đến lúc lâm chung mới niệm thì thật là mình đã lầm lẫn lại còn khiến người lầm lạc theo, tai hại chẳng nhỏ, hãy nên cẩn thận.
Hỏi: Nhà Thiền lìa tâm ý thức để tham chiếu, tham thấu tới khi cha mẹ còn chưa sanh ra, còn người niệm Phật lại hoặc là trì danh, hoặc là quán tưởng, chẳng hề lìa tướng là vì cớ nào?
Đáp: Đối với nhà Thiền, dĩ nhiên phải “dù một tướng cũng chẳng lập, chẳng vướng một trần, hễ còn mảy may ý niệm ắt thành nghiệp nhân sanh tử”. Người niệm Phật trong thì dựa vào Nhất Tâm của chính mình, ngoài thì dựa vào Di Đà nguyện lực, cốt sao chấp trì danh hiệu chẳng quên, chẳng khuyết, chắc chắn như Thái Sơn, thì gọi là Chánh Niệm. Nếu ai tu quán tưởng niệm Phật, thì phải theo đúng như lời dạy trong Quán kinh, chuyên chú tâm vào một cảnh, rành rẽ, chẳng sai chạy. Như vậy mới là Chánh Quán. Cả hai việc ấy đều có thể hoàn thành ngay trong một đời này.
Chánh kinh:
Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ.
(Người ấy lúc mạng chung, tâm chẳng điên đảo, liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà).
Giải:
Chữ “thị nhân”chỉ người niệm Phật.
“Chung thời”là lúc khí ấm trên thân đã hết, thức thần sắp ly khai xác thân.
“Tâm bất điên đảo”là vì công phu niệm Phật sâu dày, luôn nghĩ đến vô thường chẳng có kỳ hạn, thường vâng giữ một câu Phật hiệu khăng khăng, niệm đến mức nhất tâm bất loạn. Thế nên tâm linh minh mẫn, chánh niệm hiện tiền, chẳng bị điên đảo.
Theo Duy Thức học, khi người sắp xả mạng, thân thể lạnh dần, hơi nóng thoát ra từ đâu chính là thức thứ tám thoát ra từ đó. Bởi vậy, mới có thuyết: Dựa theo chỗ nào bị lạnh sau cùng, có thể đoán biết người chết được sanh về đâu. Chẳng hạn, đảnh đầu lạnh sau cùng sẽ sanh về thiên giới. Từ đó, sanh ra việc khám nghiệm hơi ấm rộn ràng khiến người chết nhiều khi bị chạm xúc, sanh tâm sân hận, chướng ngại việc vãng sanh. Vì thế, chư tổ đức Tịnh Độ cực lực cấm ngặt việc khám nghiệm hơi nóng trên thân người chết.
“Tức đắc vãng sanh”:là nói vãng sanh rất lẹ, chẳng cần phải trải qua giai đoạn Trung Ấm thân, trong vòng một niệm liền sanh về cõi Cực Lạc. Quán kinh bảo là: “Trong khoảng khảy ngón tay, sanh trong cõi Cực Lạc”.
Hỏi: Chúng sanh ác nghiệp vô lượng, làm sao có thể chỉ niệm Phật trong một đời, tội chướng liều tiêu trừ, được vãng sanh?
Đáp: Theo Tịnh Độ Thập Nghi Luận, do ba điều nên có thể đối địch ác nghiệp:
- Một là tại tâm: Lúc tạo tội dùng tâm hư vọng, lúc niệm Phật dùng tâm chân thực. Dùng thực trừ hư dĩ nhiên là được, như bóng tối ngàn năm, chẳng thể đương nổi một tia sáng mặt trời.
- Hai là tại cảnh: Duyên tạo tội thuộc trong cảnh giới điên đảo. Duyên niệm Phật là công đức thắng diệu. Dùng chân khử ngụy, có gì là không được.
- Ba là tại tịnh: Tạo tội là ý nhơ nhiễm, niệm Phật là tâm thanh tịnh. Tịnh thù thắng, nhiễm hạ liệt, nhiễm sánh sao nổi với tịnh; khác nào đứa trẻ con mượn sức gươm bén chặt đứt sợi thừng to dài cả ngàn trượng; một đốm lửa tí ti đốt tiêu vạn bó củi. Quán kinh nói: “Niệm Phật một tiếng trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”.
Hơn nữa, nhân nào quả nấy, tơ hào chẳng sai. Người niệm Phật dùng Phật hiệu để lắng trong cái tâm hôn mê, điên đảo, vọng tưởng bộn bề của mình, cố giữ cho tịnh niệm liên tục như gà ấp trứng, như mèo rình chuột, không để lúc nào sơ hở, thì tự nhiên cái tâm lắng trong. Tâm đã lắng trong thì tâm quang sẽ phát khởi. Tâm ta biến thành một phiến quang minh, sẽ phản chiếu được quang minh từ nơi tâm địa của Phật A Di Đà. Ánh sáng giao nhau, khác nào hai thếp đèn ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau, sáng càng thêm sáng.
Người niệm Phật đến mức Nhất Tâm Bất Loạn thì tất nhiên tâm địa là một phiến quang minh, đồng thể với tâm địa của Phật A Di Đà, tự nhiên A Di Đà và thánh chúng tự hiển hiện trong tâm người ấy. Tâm tâm niệm niệm chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà; mắt thấy, tai nghe, không gì là chẳng chuyên chú nơi Phật A Di Đà.
Thêm nữa, lúc lâm chung, do tâm luôn chuyên chú nơi tịnh cảnh, nơi Phật, không còn vọng tưởng tham luyến, nhất chí tưởng niệm vãng sanh Tây Phương. Đó là tự lực mạnh mẽ, đánh bạt mọi ác nghiệp khác. Lại thêm Phật và thánh chúng hiện tiền, Phật lực tiếp dẫn, tạo thành sức hỗ trợ thù thắng, thì đương nhiên sẽ được vãng sanh. Cái nhân đã thanh tịnh thì dĩ nhiên cái quả cũng thanh tịnh vậy.
Hỏi: Như trên đã nói: “Niệm Phật, lễ tụng trừ được tội chướng”, nhưng sao lại có những kẻ thiện tín chăm chỉ lễ niệm vẫn gặp phải tai ương, hoạn nạn?
Đáp: Đó là do nghiệp chướng sâu nặng từ nhiều kiếp, hoặc do lễ niệm không chuyên chí, tạp niệm niệm Phật nên không đạt được tác dụng thù thắng vậy. Đấy là do quả do nhân tạo, như bóng theo hình, chẳng sai sảy mảy may. Di Lặc Bồ Tát nói: “Trong khoảng khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Mỗi niệm thành hình, thiện niệm thành hình ảnh tốt, ác niệm tạo thành cảnh tượng xấu, chẳng sai tơ tóc. Con người suốt ngày suy nghĩ tạp nhạp mà vẫn chẳng hay biết, đến lúc muốn lắng đọng ý niệm, mớihay mình có nhiều ý niệm”.
Từ phàm tiến lên thánh, ý niệm trở nên càng tinh tế hơn. Ngay như Di Lặc Bồ Tát vẫn còn có chút ý tưởng vi tế, huống hồ bọn phàm phu chúng ta? Một tâm niệm tí ti vẫn bao trọn khắp pháp giới. Vì thế, một thiện niệm có công năng rất lớn, một ác niệm cũng tạo tội khó thể nghĩ bàn! Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện dạy: “Khởi tâm động niệm, không chi là chẳng phải tội”.Huống hồ từ vô thỉ đến nay, bao tội ác đã gây tạo có thể tính lường nổi ư?
Nay do túc căn, tuy niệm Phật, lễ tụng, nhưng trí lực kém cỏi, ý niệm bất định, khác nào ngọn đèn thắp giữa lúc sương mù, lại thêm bị gió lùa, tỏa sáng được mấy? Ví dù có chút đắc lực, lại do tình chấp nặng nề, khiến cho ma sự dễ bề nhiễu loạn.
Vì lẽ đó, niệm Phật phải chuyên chú nhất cảnh, chớ để tạp niệm xen tạp. Dù có thấy tướng hảo, quang minh của Phật cũng đừng hoan hỷ, cứ câu câu giữ vững, tâm tâm vắng lặng thì nghiệp chướng sẽ tự tan. Người đời nay dụng công một chút, thấy được chút hảo cảnh, đã vội khoe khoang rầm rĩ, tránh sao khỏi bị ma dựa?
Hỏi: Tu Thiền cố nhiên gặp nhiều ma sự, còn người niệm Phật làm thế nào để khỏi bị ma nhiễu?
Đáp: Thiền giả dùng quán trí đối chọi vọng tưởng, tất nhiên ngũ ấm ma tà trong tám thức bị kích động, nên hiện ra đủ các tướng kỳ lạ. Người trí lực kém, lầm sanh vui mừng, chấp trước, ắt vướng phải ma sự. Người niệm Phật niệm niệm quy nhất sẽ có quang minh chiếu xa đến bốn mươi dặm, ma tà tránh xa. Nếu thấy thánh tướng cũng chẳng sanh lòng hoan hỷ, khoe khoang ầm ĩ, chỉ càng thêm siêng gắng công phu, sẽ quyết định sanh Tây.
Nếu vì duyên sự bức bách như bệnh tật không thể dùng miệng niệm, mà dùng tai chú tâm lắng nghe hay vô tâm niệm Phật vẫn được lợi lạc. Cuối đời Thanh, bước sang thời Dân Quốc, cư sĩ Dương Nhân Sơn ở Nam Kinh là một người hoằng dương Phật giáo rất tích cực tại Hoa Nam. Tuy giảng nhiều kinh điển khác nhau, ông vẫn chuyên tâm Tịnh Độ và thường niệm Phật rất tinh chuyên. Con chim bát ca (gần giống con nhồng) của ông nuôi, mỗi ngày thường nghe chủ niệm Phật, cũng bắt chước niệm theo. Dần dà thành thói quen, cứ thấy chủ là nó niệm Phật. Mấy năm sau chim chết, cụ Dương đem chôn bên nhà, đắp thành nấm mộ nhỏ. Mấy hôm sau, từ mộ chim mọc lên một cành sen. Tò mò, cụ đào lên thì thấy cành sen ấy mọc ra từ mỏ chim. Chuyện lạ này được đồn khắp hai xứ Nam Kinh, Thượng Hải. Đủ thấy dẫu là chúng sanh đang thọ khổ trong tam ác đạo vẫn có khả năng niệm Phật.
Câu Phật hiệu còn có khả năng cứu độ chúng sanh trong tam ác đạo: Đời Tống, trong khoảng niên hiệu Thuần Hy, ông Ma Thành Trung kết bạn rất thân với hòa thượng Thọ Phổ ở đất Kinh Nam, thường qua lại đàm luận đạo lý với nhau. Một lần đến chơi, trong khi chờ đợi chủ nhân, Sư thấy có con vẹt trong lồng treo bên phòng khách. Tự nhiên, vẹt kêu lên: “Ba năm nhốt trong lồng, vẫn chưa được giải thoát, xin Hòa Thượng từ bi”. Sư đáp: “Tiểu súc! Ai bảo mày hay nói làm chi?” Chim gục đầu như hiểu, từ đó, không nói nữa. Sư bèn khuyên ông Ma thả chim đi.
Khi về đến chùa, Sư thấy vẹt bay theo, kêu ríu rít như cảm tạ. Sư dạy: “Ngươi hãy lánh thân trong rừng sâu để tránh lưới rập”. Con vẹt không chịu bay đi, cứ ngước nhìn Sư như cầu dạy bảo. Sư niệm: “A Di Đà Phật!” Tám năm sau, Hòa Thượng vân du, đến một khu rừng núi nọ, có một đứa bé đến lễ tạ, thưa: “Xưa kia con là con vẹt trong nhà họ Ma, nay đã được sanh làm con trai nhà họ Tiêu ở Tây Hương”.
Đời Tấn, ở Lĩnh Nam có một vị thầy đồ nuôi một con vẹt trắng. Mỗi sáng, thầy niệm thánh hiệu Quán Âm và tụng chú Đại Bi. Mỗi khi thầy niệm, con vẹt cũng niệm theo. Một bữa nọ, con vẹt chợt bảo: “Tôi từ Tây Phương đến, nay lại về Tây phương”. Nói xong, cúi đầu, xếp cánh chết ngay.
Xét về Lý, “nhất tâm bất loạn” biểu thị tự tánh linh minh, “tâm bất điên đảo” biểu thị tự tánh chẳng mê muội.
3.3. Trùng kết khuyến(lại kết ý và khuyên răn)
Chánh kinh:
Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn. Nhược hữu chúng sanh, văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ.
(Xá Lợi Phất! Ta thấy điều lợi này, nên nói ra lời ấy. Nếu có chúng sanh nghe nói như vậy thì hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước ấy)
Giải:
Trong câu “Ngã kiến thị lợi”,Ngã là lời Như Lai tự xưng; “kiến” là Đức Phật dùng Phật nhãn quán sát tường tận, chữ “thị lợi” (điều lợi này) chỉ diệu quả được Phật tiếp dẫn vãng sanh như trên đã nói: một phen được sanh trong cõi Cực Lạc sẽ viên chứng ba thứ Bất Thoái, lại cùng sum họp với các vị thượng thiện nhân. Bởi thế, đức Thế Tôn mới nói “ngã kiến thị lợi” (ta thấy điều lợi này).
Trong suốt hơn bốn mươi năm hóa độ, đức Thích Tôn giảng kinh hơn ba trăm hội, giảng ra vô lượng pháp môn, nhưng phần lớn những pháp môn ấy đều là tự lực, phải đoạn sạch Hoặc nghiệp mới có thể liễu thoát sanh tử. Chỉ mỗi một mình pháp môn Tịnh Độ này, chẳng những độ trọn ba căn, lợi độn cùng tu, lại khế lý, khế cơ, chí viên, chí đốn, dung thông Tự Lực lẫn Tha Lực, đới nghiệp vãng sanh, thật không còn pháp môn nào tạo được lợi ích lớn lao hơn thế!
Tu các pháp môn khác, kẻ cuồng huệ vọng đàm lý Không, kẻ cuồng tu chấp tướng mê tâm. Đấy đều là do ngũ trược chướng nặng, hoặc nghiệp hừng hực, dẫu muốn tu trì cũng khó lòng thành tựu. Dù đã chứng Sơ Quả, vẫn còn mê khi xuất thai, Bồ Tát vẫn còn mê khi cách ấm (chuyển thân này sang thân khác). Chỉ mình pháp môn Niệm Phật đây, một khi được vãng sanh, chẳng còn sợ những chướng ngại như thế nữa!
“Cố thuyết”(cho nên nói) là chữ dùng để tiếp ý câu trên. Đức Phật xét rõ tuy pháp môn Niệm Phật rất khó tin, nhưng vẫn có người tin nhận được, cho nên không ai thỉnh vấn, Ngài vẫn tự nói.
Chữ “thử ngôn”(lời này) chỉ giáo pháp Niệm Phật.
Câu “văn thị thuyết giả”(nghe nói như vậy) hàm ý: pháp môn Niệm Phật thù thắng mầu nhiệm như vậy, đừng để như gió thoảng qua tai, mà phải nên phát nguyện cầu sanh mới là đúng lý.
Hai chữ “ưng đương”(phải nên) thể hiện tấm lòng tha thiết, khẩn khoản của đức Thế Tôn. Ngài bao lượt đinh ninh dặn dò, khuyên lơn những mong người nghe mau phát tâm nguyện cầu vãng sanh, đừng bỏ lỡ đại lợi ích thù thắng này.
“Phát nguyện”:Nguyện dẫn dắt Hạnh, như phải có người cầm cương đánh xe thì mới đến được mục tiêu. Nếu không có Nguyện dẫn dắt Hạnh, làm sao sanh về cõi Cực Lạc?
Hỏi: Thập phương chư Phật đều có bi nguyện, lẽ đâu chỉ mình Phật Di Đà; vì sao chỉ khuyên phát nguyện vãng sanh cõi ấy?
Đáp: Chư Phật độ sanh hễ có duyên thì ứng, vô duyên chẳng cảm. Chư Phật tuy đều sẵn lòng bi, nhưng Phật chỉ có thể hóa độ chúng sanh hữu duyên. Kẻ vô duyên bị nghiệp chướng của chính họ ngăn che, nên chẳng độ được. Do Di Đà đại nguyện có túc duyên sâu sa đối với chúng sanh trong đời ác trược, nên bất cứ kẻ nào cũng đều được Ngài tiếp độ. Vì lẽ ấy, chư Phật, chư Bồ Tát, chư cổ đức đều cực lực khuyến hóa phải nên phát nguyện sanh về cõi Ngài.
Hỏi: Tổ Linh Phong bảo nếu không có tín, nguyện, chỉ chấp trì danh hiệu, dù có niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn cũng chẳng được vãng sanh. Nếu đã chẳng tin có cõi Cực Lạc, lại chẳng thèm phát nguyện cầu sanh, lẽ đâu cam tâm niệm Phật cho được?
Đáp: Những kẻ ấy được nghe người khác dạy rằng: Niệm Phật có công đức rất lớn, chẳng những chỉ kiếp sau được hưởng quả báo phú quý, lại còn có thể sanh thiên hưởng phước. Do họ ham đắm những phước báo hữu lậu như thế nên khẩn thiết niệm Phật, đem vạn đức hồng danh của Phật quy hướng nơi phước báo nhỏ nhoi cõi trời. Thật đáng tiếc thay!
Ở Trung Hoa còn có tà thuyết: cứ niệm Phật một tiếng, trong ngân hàng âm phủ sẽ có thêm một đồng. Thế nên lắm kẻ chăm chỉ mỗi ngày niệm Phật ba vạn tiếng để dành sẵn tiền cõi âm cho thân sau. Chẳng niệm Phật để cầu xuất thế, lại chỉ niệm Phật để cầu chết đi biến thành một con quỷ bạc tiền rủng rỉnh, chẳng đáng đau xót lắm ư?
Đến đây phần Chánh Tông đã xong, phần kế tiếp chính là phần Lưu Thông với mục đích làm cho người nghe tin nhận, phụng hành, khiến cho pháp môn Niệm Phật được lưu truyền bất tuyệt.