Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sao lục 1: Phẩm Phổ Hiền

21/05/201115:39(Xem: 10694)
Sao lục 1: Phẩm Phổ Hiền

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

Sao lục 1

Phẩm Phổ Hiền

Lời nói đầu

Phẩm Hạnh nguyện Phổ Hiền nằm trong Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu, cuốn 10, các trang 844 - 848. Đó là chính văn mà tôi căn cứ để dịch. Và dịch thì căn cứ ý kiến của đại sư Thái Hư, qua bản giảng lục của ngài, nằm trong Thái Hư toàn thư tập 23, các trang 1027 - 1096. Có một chi tiết nhỏ xin ghi ở đây, là kinh sách tôi dịch có mấy chỗ liên hệ đến phẩm này, nhất là Hồng danh; nhưng tùy chỗ nên ý dịch không khác mà lời dịch phải khác chút ít.

Dịch phẩm này tôi không làm mục lục mà kể như đã có. Vì phần trường hàng thì dễ thấy, còn phần chỉnh cú thì coi các ghi chú 15, 16, 17, 18, 21, 24, sẽ thấy phân khoa rõ ràng.

Sánh với 4 hoằng thệ của đức Thích Tôn tuy vắn tắt bậc nhất mà đầy đủ bậc nhất, thì 10 hạnh nguyện của đức Phổ Hiền thật không bằng. Nhưng 10 hạnh nguyện ấy cũng thật đặc biệt. Tựu trung có người cho"tùy hỷ công đức ’’ có gì khó khăn và quan trọng đâu; nhưng nếu biết con người có thể chết cho người mà khó thể khen người một câu, thì đủ biết hạnh nguyện ấy quan trọng biết bao cho tâm lý người tu.

Phẩm này có sự đặc biệt bậc nhất là hồi hướng Cực lạc. Tôi dịch là vì sự đặc biệt ấy.

*

Phẩm này, nay sao lục vào sau Pháp Hoa để trì tụng, là vì phẩm 28 cuối kinh ấy nói tu học Pháp Hoa là do thần lực Phổ Hiền, là đi theo đường đi Phổ Hiền (tức 10 đại nguyện vương), là được Phật đưa tay xoa đầu.

Trí Quang

Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Hoa Nghiêm giáo chủ Tỳ Lô Giá Na (1) Như Lai;

Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh;

Nhất tâm đảnh lễ Như Lai trưởng tử Phổ Hiền bồ tát ma ha tát.

KINH HOA NGHIÊM (2)

Phẩm Hạnh nguyện Phổ Hiền (3)

Vào lúc bấy giờ, Phổ Hiền đại sĩ tán dương công đức siêu việt của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai rồi, bảo chư vị bồ tát qua Thiện Tài đồng tử, rằng Thiện nam tử, công đức của đức Như Lai, giả sử chính tất cả chư vị Như Lai trong mười phương, trải qua những thời kỳ (4) nhiều bằng số lượng cực vi (5) của những thế giới đến số lượng hai lần không thể nói (6), diễn nói liên tục, cũng không thể cùng tận. Nếu muốn thành tựu công đức ấy thì phải tu tập mười hạnh nguyện rộng lớn. Mười hạnh nguyện ấy là những gì? Một là lễ kính Phật đà, hai là tán dương Như Lai, ba là hiến cúng rộng lớn, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỷ công đức, sáu là xin chuyển pháp luân, bảy là xin Phật ở đời, tám là thường học theo Phật, chín là hằng thuận chúng sinh, mười là hồi hướng khắp cả.

Thiện Tài đồng tử thưa, kính bạch Đại sĩ, thế nào là lễ kính Phật đà? Cho đến thế nào là hồi hướng khắp cả?

Phổ Hiền đại sĩ bảo Thiện Tài đồng tử, Thiện nam tử, [thứ nhất] lễ kính Phật đà là đối với chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, tôi nhờ sức mạnh hạnh nguyện Phổ Hiền mà tin hiểu sâu xa như đối diện trước mắt, và toàn đem ba nghiệp thân miệng ý trong sạch mà thường xuyên lễ kính. Nơi mỗi đức Thế Tôn, tôi biến thể thân hình nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, mỗi thân hình lạy khắp chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói. Hư không cùng tận, sự lễ kính của tôi mới cùng tận, nhưng hư không không thể cùng tận, nên sự lễ kính của tôi không có cùng tận; như vậy, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự lễ kính của tôi mới cùng tận, nhưng chúng sinh, nghiệp của chúng sinh, phiền não của chúng sinh, không có cùng tận, nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na (7), không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [ thứ hai ] tán dương Như Lai là bao nhiêu cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi ấy có chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, mỗi đức Thế Tôn đều có hải hội (8) Bồ tát vây quanh. Tôi đem sự tin hiểu siêu việt, sâu xa, biết và thấy các Ngài như đối diện trước mắt. Tôi dùng những cái lưỡi nhiệm mầu hơn cả Đại biện tài thiên nữ, mỗi cái lưỡi xuất ra biển cả âm thanh vô tận, mỗi âm thanh xuất ra biển cả từ ngữ phong phú, ca tụng tán dương biển cả công đức của tất cả chư vị Như Lai, cùng tận thì gian không có gián đoạn, cùng tận pháp giới không có thiếu sót. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tán dương của tôi mới cùng tận; nhưng hư không cho đến phiền não không có cùng tận, nên sự tán dương của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [ thứ ba ] hiến cúng rộng lớn là bao nhiêu cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi có chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, mỗi đức Thế Tôn có hải hội Bồ tát vây quanh, tôi nhờ sức mạnh hạnh nguyện Phổ Hiền mà tin hiểu sâu xa, biết và thấy các ngài như đối diện trước mắt. Tôi đem cúng phẩm thượng hạng và tinh tế mà hiến cúng. Mây hoa, mây vòng hoa, mây âm nhạc chư thiên, mây tàn lọng chư thiên, mây phục sức chư thiên, các loại hương liệu chư thiên, hương xoa, hương đốt, hương bột, những mây cúng phẩm như vậy hình lượng mỗi thứ bằng núi chúa Tu Di. Tôi lại đốt các loại đèn, đèm bơ, đèm dầu, các loại đèn dầu thơm, tim của mỗi thứ đèn lớn như núi Tu Di, dầu của mỗi thứ đèn nhiều như nước biển cả. Tôi đem những cúng phẩm như vậy mà hiến cúng thường xuyên. Thế nhưng, thiện nam tử, trong mọi sự hiến cúng, hiến cúng chánh pháp là hơn hết: hiến cúng bằng cách làm đúng lời Phật, hiến cúng bằng cách lợi ích chúng sinh, hiến cúng bằng cách giáo hóa chúng sinh, hiến cúng bằng cách chịu khổ thay cho chúng sinh, hiến cúng bằng cách siêng tu thiện căn, hiến cúng bằng cách không bỏ Bồ tát hạnh, hiến cúng bằng cách không rời Bồ đề tâm. Thiện nam tử, công đức vô lượng của sự hiến cúng trước, đối chiếu với một thoáng công đức của sự hiến cúng chánh pháp, thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, một phần ức, một phần triệu, một phần trăm của một cái lông, một phần của sự tính toán được, một phần của sự tính kể được, một phần của sự ví dụ được, một phần của cực vi, tất cả đều không bằng (9). Tại sao? Vì chư vị Như Lai tôn trọng chánh pháp, vì làm đúng lời Phật thì xuất sinh chư Phật. Nếu các vị Bồ tát làm theo sự hiến cúng chánh pháp thì thế là thành tựu sự hiến cúng Như Lai, vì làm theo như vậy là hiến cúng chân thật. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự hiến cúng rộng lớn và hơn hết của tôi mới cùng tận, nhưng hư không cho đến phiền não không thể cùng tận, nên sự hiến cúng của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ tư] sám hối (10) nghiệp chướng là Bồ tát tự nghĩ, trong bao thời kỳ quá khứ vô thỉ, tôi do tham sân si mà phát động thân miệng ý, làm những nghiệp dữ vô lượng vô biên. Nếu nghiệp dữ ấy có hình tướng thì cùng tận không gian cũng không thể dung chứa. Nay tôi đem cả ba nghiệp thân miệng ý trong sạch, đối trước chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát trong những thế giới nhiều như cực vi và khắp cả pháp giới, thành tâm sám hối, sau không làm nữa, thường sống trong tịnh giới và các công đức. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự sám hối của tôi mới cùng tận, nhưng hư không cho đến phiền não không thể cùng tận, nên sự sám hối của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ năm] tùy hỷ công đức là chư vị Như Lai nhiều băèng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, từ lúc mới phát tâm, vì Nhất thiết trí mà siêng tu cái khối phước đức, không tiếc tính mạng; trải qua thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, trong mỗi thời kỳ, bỏ đầu mắt tay chân nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói; tất cả khổ hạnh khó làm như vậy viên mãn các Ba la mật, chứng nhập các Bồ tát trí, thành tựu Vô thượng Bồ đề, nhập vào Niết bàn, phân bủa xá lợi, bao nhiêu thiện căn ấy tôi tùy hỷ tất cả. Tất cả sáu đường và bốn loài chúng sinh trong hết thảy thế giới khắp cả mười phương, có bao nhiêu công đức, dầu chỉ bằng một cực vi, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Khắp mười phương, suốt ba đời, tất cả các vị Thanh văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, có bao nhiêu công đức, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Vô lượng khổ hạnh khó làm, chí cầu Vô thượng Bồ đề, và công đức rộng lớn, của hết thảy Bồ tát tu hành, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tùy hỷ của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ sáu] xin chuyển pháp luân là bao nhiêu cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi là một thế giới rộng lớn, nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói. Trong mỗi thế giới ấy, mỗi sát na có chư vị Phật đà nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, đều thành bậc Đẳng chánh giác, với hải hội Bồ tát vây quanh; nhưng tôi toàn đem ba nghiệp thân miệng ý, dùng mọi phương cách, mà thiết tha khuyên mời các ngài chuyển đẩy diệu pháp luân. Như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự thường xuyên khuyên mời chư Phật chuyển đẩy chánh pháp luân của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ bảy] xin Phật ở đời là đối với bao nhiêu chư vị Như Lai nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, ý muốn thị hiện nhập vào Niết bàn, đối với chư vị Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, cho đến hết thảy các bậc thiện tri thức, tôi đều khuyên mời đừng nhập Niết bàn, hãy sống với những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, để lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh. Như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự khuyên mời này của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ tám] thường học theo Phật là như đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai của thế giới Sa bà này, ngay khi mới phát tâm, đã tinh tiến không thoái chuyển, đem thân mạng nhiều đến hai lần không thể nói mà bố thí; lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích huyết làm mực, sao chép kinh điển chất bằng Tu di, vì tôn trọng chánh pháp mà thân mạng còn không tiếc, huống chi ngôi vua, hoàng thành, đô thị, thôn xóm, cung điện, hoa viên, lâm viên, và tất cả những vật sở hữu. Cọng với bao khổ hạnh khó làm khác, cho đến ngồi dưới Bồ đề thọ, thành tựu đại Bồ đề, thị hiện các thứ thần thông, phát khởi những sự biến hóa, biến thể các loại Phật thân, ở giữa các loại đại hội: hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị đại Bồ tát, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị Thanh văn, Duyên giác, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị luân vương, quốc vương và hoàng gia của họ, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của sát đế lợi, bà la môn, trưởng giả, cư sĩ, cho đến hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, ở giữa những đại hội như vậy mà đem tiếng nói viên mãn vang lên như sấm lớn, tùy ý thích của chúng sinh mà thành thục cho họ; cho đến thị hiện nhập vào Niết bàn, tất cả [những việc Phật làm] như vậy tôi đều theo mà học tập. Y như đối với đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na hiện nay, thì cũng như vậy mà đối với hết thảy chư vị Như Lai nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, trong từng sát na, tôi toàn theo mà học tập. Như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự thường học theo Phật của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ chín] hằng thuận chúng sinh là bao nhiêu chúng sinh trong biển cả thế giới khắp mười phương, cùng tận pháp giới và hư không giới, có những chủng loại khác nhau: có những loại sinh bằng trứng, bằng thai, bằng thấp khí, bằng biến thể, có những loại dựa vào đất nước lửa gió mà sinh sống, có những loại dựa vào hư không hay các loại cỏ cây mà sinh sống; đủ loại cách sinh, đủ loại màu sắc, đủ loại hình dáng, đủ loại tướng mạo, đủ loại tuổi thọ, đủ loại chủng tộc, đủ loại tên gọi, đủ loại tâm tính, đủ loại thấy biết, đủ loại ưa thích, đủ loại ý thức, đủ loại cử động, đủ loại phục sức, đủ loại ẩm thực; ở nơi đủ loại làng xóm, đô thị, kinh thành, cung điện; cho đến tất cả tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có hình sắc, không hình sắc, có tư tưởng, không tư tưởng, không phải có tư tưởng, không phải không có tư tưởng; tất cả chủng loại như vậy, đối với họ tôi đều tùy thuận cả: tôi phụng sự đủ cách, cung dưỡng đủ cách, kính như kính cha mẹ, thờ như thờ sư trưởng, thờ La hán, cho đến như thờ Như Lai, đồng đẳng không có gì khác cả. Bằng cách ai bịnh khổ thì tôi làm thầy thuốc giỏi, ai lạc đường thì tôi chỉ cho đường chính, trong đêm tối thì tôi làm ánh sáng, nghèo khốn thì tôi làm cho được kho tàng giấu trong lòng đất. Bồ tát hãy bình đẳng lợi ích chúng sinh như vậy, tại sao, vì Bồ tát có thể tùy thuận chúng sinh thì thế là tùy thuận hiến cúng Phật đà, tôn trọng phụng sự chúng sinh thì thế là tôn trọng phụng sự Như Lai, làm cho chúng sinh vui vẻ thì thế là làm cho Như Lai vui vẻ. Tại sao? Vì chư vị Như Lai thì lấy tâm đại bi làm bản thể, mà do chúng sinh mới có tâm đại bi, do tâm đại bi mới có tâm bồ đề, do tâm bồ đề mới thành Chánh giác. Tựa như đại thụ ở trong đồng nội hay sa mạc mênh mông, đại thụ ấy nếu rễ được nước thì nhánh lá hoa quả đều sum sê tươi tốt. Bồ đề đại thụ ở trong đồng nội sinh tử mênh mông cũng là như vậy, lấy chúng sinh làm rễ, lấy chư Phật chư Bồ tát làm hoa làm trái, đem nước đại bi lợi ích chúng sinh thì sinh ra hoa trái tuệ giác là chư Phật Bồ tát, tại sao, vì nếu Bồ tát đem nước đại bi lợi ích chúng sinh thì thế là thành tựu vô thượng bồ đề. Do vậy, bồ đề là thuộc về chúng sinh, không chúng sinh thì các vị Bồ tát không bao giờ có thể thành tựu vô thượng bồ đề. Thiện nam tử, đối với ý nghĩa ấy ông hãy lý giải như vầy: đối với chúng sinh mà tâm lý bình đẳng thì có thể thành tựu lòng đại bi viên mãn, đem lòng đại bi tùy thuận chúng sinh thì thế là thành tựu sự hiến cúng chư vị Như Lai. Bồ tát tùy thuận chúng sinh như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tùy thuận ấy cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ mười] hồi hướng khắp cả là từ sự lễ kính cho đến sự hồi hướng có bao công đức, tôi đều hồi hướng cho hết thảy chúng sinh cùng tận pháp giới và hư không giới, nguyện nhờ công đức ấy mà làm cho chúng sinh thường được yên vui, không mọi bịnh khổ, muốn làm việc ác thì bất thành tất cả, muốn tu điều thiện thì mau thành hết thảy, đóng chặt cửa ngõ của các nẻo ác, mở bày đường chính của nhân loại chư thiên và niết bàn. Nếu chúng sinh vì làm bao nghiệp dữ mà bị những quả khổ nặng nề thì tôi chịu thay hết cho họ, làm cho họ được giải thoát, cứu cánh thành đạt vô thượng bồ đề. Bồ tát tu tập sự hồi hướng như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự hồi hướng ấy cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, như vậy gọi là mười đại nguyện của Bồ tát đại sĩ viên mãn đầy đủ. Nếu các vị Bồ tát tùy thuận mà đi mau vào mười đại nguyện ấy thì có thể thành thục tất cả chúng sinh, thì có thể tùy thuận vô thượng bồ đề, thì có thể thành tựu đầy đủ biển cả hạnh nguyện của Phổ Hiền đại sĩ. Do vậy, Thiện nam tử, đối với ý nghĩa ấy ông hãy nhận thức như vầy: Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào đem bảy thứ quí báu loại thượng hạng và tinh tế, cùng với đồ dùng đem lại hạnh phúc hơn hết cho nhân loại và chư thiên, đầy những thế giới nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới khắp cả mười phương, vô lượng vô biên, hai lần không thể nói, bố thí cho chúng sinh trong những thế giới cũng nhiều như trên, hiến cúng chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát trong những thế giới cũng nhiều như trên, và trải qua những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới cũng nhiều như trên, liên tục không ngừng; nhưng công đức người ấy đạt được, đem đối chiếu với công đức đạt được của người nghe mười nguyện vương này một lần lướt qua thính giác, thì công đức người trước không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến một phần cực vi cũng không bằng. Đối với mười đại nguyện này, có ai đem lòng tin sâu xa mà tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, cho đến chỉ sao chép được một bài chỉnh cú bốn câu (11), cũng mau chóng diệt được năm tội vô gián, bao nhiêu khổ não trong đời như thân bịnh tâm bịnh vân vân, cho đến tất cả nghiệp dữ nhiều bằng số lượng cực vi của thế giới cũng được tiêu diệt cả; tất cả quân đội của ma vương, quỷ ăn thịt người, quỷ bạo ác, quỷ ăn tinh khí, quỷ điên cuồng, quỷ ăn thịt người loại tự hóa sinh (12), những quỷ ác thần ác uống huyết ăn thịt như vậy đều tránh xa người ấy, hoặc có khi phát tâm thân gần hộ vệ. Thế nên người nào tụng được thuộc lòng mười nguyện vương thì đi trong đời này không cò gì trở ngại. Người ấy như vầng trăng đã ra khỏi mây mù che khuất. Người ấy được chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát tán dương ca tụng. Người ấy, tất cả nhân loại và chư thiên nên lạy và tôn kính. Người ấy, tất cả chúng sinh cùng nên hiến cúng. Người ấy khéo làm thân người, đầy đủ công đức của Phổ Hiền đại sĩ, không bao lâu sẽ như Phổ Hiền đại sĩ, mau chóng được cái sắc thân nhiệm mầu, đủ cả ba mươi hai tướng của bậc đại trượng phu. Người ấy nếu sinh trong nhân loại hay chư thiên thì ở đâu cũng thuộc dòng họ hơn hết, phá hoại được tất cả đường ác, tránh xa được tất cả bạn dữ, chế ngự được tất cả ngoại đạo, giải thoát được tất cả phiền não. Người ấy như sư tử chúa làm cho các loài thú vật phải khuất phục. Người ấy kham nhận sự hiến cúng của tất cả chúng sinh.

Lại nữa, người ấy khi sắp chết, sát na sau cùng thì tất cả giác quan đều hư hỏng, tất cả thân nhân đều rời bỏ, tất cả uy thế đều tan mất, [và dầu là vua đi nữa, lúc ấy] tể tướng, đại thần, nội cung, ngoại thành, voi ngựa, xe cộ, vàng ngọc, kho tàng trong lòng đất, tất cả không ai và không gì đi theo. Chỉ có mười nguyện vương này không hề rời bỏ người ấy, lúc nào cũng hướng dẫn trước mắt. Và trong một sát na, người ấy tức khắc được sinh thế giới Cực lạc. Sinh rồi tức khắc được thấy đức A Di Đà Phật, với các vị Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Quan Tự Tại Bồ tát, Di Lạc Bồ tát, và các vị Bồ tát đồng đẳng, sắc tướng trang nghiêm, công đức toàn hảo, cùng nhau vây quanh Ngài. Người ấy lại tự thấy bản thân sinh trong hoa sen và được đức A Di Đà Phật thọ ký cho. Được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn vạn ức triệu thời kỳ, khắp trong thế giới nhiều đến hai lần không thể nói, đem sức mạnh trí tuệ, tùy tâm ý chúng sinh mà ích lợi cho họ, và không bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ đề tràng, chiến thắng quân đội của ma vương, thành bậc Đẳng Chánh Giác, chuyển đẩy diệu pháp luân, làm cho chúng sinh trong những thế giới nhiều bằng số lượng cực vi thế giới phát Bồ đề tâm, tùy trình độ của chúng sinh mà giáo hóa cho họ thành thục, cho đến cùng tận biêån cả thời kỳ vị lai, lợi ích toàn diện cho tất cả chúng sinh. Thiện nam tử, những ai nghe và tin mười đại nguyện vương (13) này, tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, thì công đức người ấy có được, ngoại trừ chư vị Thế Tôn không ai biết hết. Thế nên các người nghe mười đại nguyện vương này đừng có hoài nghi, mà nên tiếp nhận cho chắc chắn, tiếp nhận rồi có thể đọc xét văn nghĩa, đọc xét văn nghĩa rồi có thể tụng được thuộc lòng, tụng được thuộc lòng rồi có thể ghi nhớ, cho đến sao chép, giảng nói cho người. Những người như vậy, ngay trong một sát na mà mọi hạnh nguyện đều viên thành, cái khối phước đức mà họ thu hoạch thì vô lượng vô biên. Trong biển khổ phiền não to lớn, họ cứu vớt cho chúng sinh thoát khỏi và cùng được vãng sanh thế giới Cực lạc của đức A Di Đà Phật.

Lúc bấy giờ Phổ Hiền đại sĩ muốn lập lại ý nghĩa đã nói, nên nhìn khắp tất cả khu vức mà nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Hết thảy chư Phật

trong ba thì gian

tại các thế giới

khắp cả mười phương,

tôi vận dụng cả

ba nghiệp trong sạch

kính lạy khắp cả

không có thiếu sót.

(2) Năng lực uy thần

của hạnh Phổ Hiền

làm tôi hiện khắp

trước chư Như Lai,

một thân lại hiện

thân như cực vị,

lạy khắp chư Phật

cũng như cực vi.

(3) Trong một cực vi

có chư Phật đà

nhiều bằng cực vị,

và đều ở trong

chúng hội Bồ tát;

cực vi tất cả

pháp giới vô tận

cũng là như vậy,

tâm tôi tin Phật

thật sâu và đầy.

(4) Nên biển âm thanh

tôi vận dụng cả,

xuất ra vô tận

lời chữ nghiệm mầu,

cùng tận thời kỳ

của thì vị lai

tán dương biển cả

công đức của Phật.

(5) Tôi đem vòng hoa

tốt đẹp hơn hết,

âm nhạc, hương hoa,

tàn lọng, bảo cái,

những đồ trang hoàng

hơn hết như vậy,

tôi đem hiến cúng

chư vị Như Lai.

(6) Y phục hơn hết,

hương liệu hơn hết,

hương bột, hương đốt,

cùng với đèn đuốc,

tất cả đều như

Diệu cao núi lớn,

tôi đem hiến cúng

chư vị Như Lai.

(7) Tôi đem cái biết

cao rộng hơn hết

tin tưởng sâu xa

tam thế chư Phật,

vận dụng sức mạnh

hạnh nguyện Phổ Hiền

mà khắp hiến cúng

chư vị Như Lai.

(8) Bao nhiêu nghiệp dữ

xưa kia tôi làm,

đều bởi vô thỉ

những tham sân si,

động thân miệng ý

mà phát sinh ra,

ngày nay tôi nguyện

sám hối tất cả.

(9) Mười phương hết thảy

các loại chúng sinh,

cùng với các vị

Thanh văn, Duyên giác,

Tu học tiếp tục,

Tu học hoàn tất,

tất cả Như Lai,

cùng với Bồ tát,

công đức có gì

tôi tùy hỷ cả.

(10) Mười phương đâu có

Ngọn đèn thế giới

khi mới thành tựu

tuệ giác vô thượng,

tôi xin thỉnh cầu

tất cả các Ngài

chuyển đẩy bánh xe

diệu pháp tối thượng.

(11) Chư vị Như Lai

muốn hiện niết bàn,

thì tôi chí thành

thỉnh cầu các Ngài

sống với đời kiếp

nhiều như cực vi,

để làm lợi lạc

hết thảy chúng sinh.

(12) Lạy Phật, khen Phật

và hiến cúng Phật (14),

xin Phật ở đời

và chuyển pháp luân,

tùy hỷ, sám hối,

bao thiện căn ấy,

tôi đem hồi hướng

lợi ích chúng sinh

có nghĩa hồi hướng

nguyện thành trí Phật (15).

(13) Tôi theo mà học

chư vị Như Lai,

tu tập tất cả

hạnh nguyện Phổ Hiền,

phụng sự quá khứ

chư vị Như Lai,

cùng với hiện tại

chư vị Phật đà,

(14) vị lai các bậc

Thầy của trời người,

bao nhiêu ý nguyện

đều viên mãn cả,

tôi nguyện học tập

tam thế chư Phật,

để mau hoàn thành

tuệ giác vô thượng (16).

(15) Tất cả thế giới

khắp cả mười phương

rộng lớn trong sạch

nhiệm mầu trang nghiêm,

ở đâu cũng có

đại hội Bồ tát

bao quanh chư Phật,

trong khi chư Phật

cùng ngồi dưới cây

bồ đề đại thọ.

(16) Cầu nguyện chúng sinh

khắp cả mười phương

thoát hết lo sợ

thường hưởng yên vui,

thu hoạch lợi ích

của Pháp sâu xa,

diệt trừ phiền não

không còn thừa sót (17).

(17) Khi tôi tu tập (18)

vì đại bồ đề

thì ở loài nào

cũng biết đời trước,

thường được xuất gia

nghiêm giữ tịnh giới,

không để giới thể

bị dơ bị vỡ

hay bị xuyên thủng

hoặc bị sơ suất (19).

(18) Tất cả chư thiên

cùng với quỷ thần,

hết thảy nhân loại

và bao loài khác,

bao nhiêu chúng sinh

bao nhiêu tiếng nói,

tôi dùng tiếng ấy

mà thuyết pháp cho.

(19) Siêng tu các pháp

ba la mật đa

cực kỳ trong sáng,

thường xuyên chuyên chú

không để quên mất

tâm đại bồ đề,

diệt trừ dơ bẩn

không cho sót lại,

viên thành tất cả

hạnh nguyện nhiệm mầu.

(20) Đối với mê lầm

cùng với nghiệp dữ,

đối với cảnh ngộ

hiện thân ma vương,

trong cõi đời này

mà được siêu thoát,

tựa như hoa sen

không hề dính nước,

cũng như nhật nguyệt

không vướng không gian.

(21) Tận trừ toàn bộ

nỗi khổ đường dữ,

bình đẳng cho vui

bao loại sinh linh,

trải qua thời kỳ

nhiều như cực vi,

lợi ích mười phương

không có cùng tận.

(22) Tôi hằng tùy thuận

các loại chúng sinh,

cùng tận thời kỳ

của thì vị lai,

thường xuyên tu tập

hạnh nguyện Phổ Hiền

cực kỳ rộng lớn,

viên mãn thành tựu

tuệ giác bồ đề

cực kỳ tối thượng.

(23) Bao nhiêu những người

đồng hành với tôi,

nguyện ở chỗ nào

cũng thường gặp nhau,

thân miệng và ý

đều như nhau cả,

cùng nhau tu học

hết thảy hạnh nguyện.

(24) Những thiện tri thức

lợi ích cho tôi,

chỉ dẫn cho tôi

hạnh nguyện Phổ Hiền,

cũng nguyện thường xuyên

được gặp gỡ nhau,

lại nguyện thường xuyên

hoan hỷ cho tôi.

(25) Nguyện thường nhìn thấy

chư vị Như Lai,

cùng chư Bồ tát

vây quanh các Ngài,

đối với các Ngài

nguyện hiến cúng lớn,

cùng tận vị lai

không biết chán mệt.

(26) Nguyện được duy trì

pháp mầu của Phật,

làm cho rực rỡ

hạnh nguyện bồ đề,

trong sạch rốt ráo

đường đi Phổ Hiền,

cùng tận vị lai

thường xuyên tu tập.

(27) Ở trong tất cả

thế giới ba cõi,

tôi tu phước trí

thường xuyên vô tận,

định tuệ phương tiện

cùng với giải thoát,

được kho công đức

vô tận như vậy.

(28) Mỗi một cực vi

có số thế giới

nhiều bằng cực vi,

mỗi một thế giới

có các đức Phật

khó thể nghĩ thấu,

mỗi một đức Phật

đều ở chính giữa

đại hội Bồ tát,

và tôi nhìn thấy

các Ngài thường nói

hạnh nguyện bồ đề.

(29) Biển cả thế giới

khắp mười phương hướng,

biển cả thì gian

nhiều bằng đầu lông (19b),

biển cả Phật đà,

biển cả quốc độ,

biển cả thời kỳ

mà tôi tu hành.

(30) Chư vị Như Lai

lời tiếng trong sáng,

mỗi tiếng đủ hết

biển cả âm thanh,

những lời tiếng ấy

tùy ý chúng sinh,

mỗi tiếng xuất ra

biển cả hùng biện.

(31) Chư vị Như Lai

trong ba thì gian,

vận dụng vô tận

biển cả lời tiếng,

thường chuyển pháp luân

lý thú nhiệm mầu,

nhưng trí tuệ lực

sâu xa của tôi

có thể hội nhập

một cách toàn diện.

(32) Tôi thấu hiểu được

toàn thể thời kỳ

của thì vị lai

là một sát na,

tôi cũng thấu hiểu

toàn thể thời kỳ

cả ba thì gian

là một sát na.

(33) Trong một sát na

mà tôi thấy hết

tất cả chư Phật

trong ba thì gian,

tôi thường thấu hiểu

lĩnh vực của Phật

thể chứng các pháp

toàn như ảo thuật,

giải thoát cao sâu,

uy lực hùng mãnh.

(34) Nơi mỗi cực vi

trên đầu sợi lông,

xuất hiện thế giới

quá khứ hiện tại

cùng với vị lai

cực kỳ trang nghiêm.

Thế giới mười phương

nhiều như cực vi

trên đầu sợi lông,

tôi thâm nhập cả

mà làm toàn thể

trang nghiêm trong sạch.

(35) Cùng tận vị lai

có bao Phật đà

thành vô thượng giác

chuyển chánh pháp luân

mở mắt quần sinh

ở trong ba cõi,

việc Phật hoàn tất

thị hiện niết bàn,

tôi đều đi đến

thân gần phụng sự.

(36) Năng lực thần thông

đến mau khắp cả,

năng lực đại thừa

biến thể toàn diện,

năng lực công đức

tu hết trí hạnh,

năng lực đại từ

che hết chúng sinh,

(37) năng lực thắng phước

trang hoàng khắp nơi,

năng lực thắng trí

không hề vướng mắc,

năng lực uy thần

đủ mọi phương tiện (20),

năng lực bồ đề

qui tụ hết thảy,

(38) năng lực thiện nghiệp

làm sạch tất cả,

năng lực diệt trừ

tất cả phiền não,

năng lực chiến thắng

tất cả ma quân,

năng lực viên mãn

hạnh nguyện Phổ Hiền (21);

(39) trang hoàng sạch sẽ

biển cả thế giới,

giải thoát hết thảy

biển cả chúng sinh,

khéo léo phân biệt

biển cả các pháp,

nhập vào sâu xa

biển cả trí tuệ,

(40) làm trong sáng hết

biển cả đại hạnh,

làm đầy đủ cả

biển cả đại nguyện,

thân gần hiến cúng

biển cả Phật đà,

tu không mệt mỏi

biển cả thời kỳ.

(41) Bao nhiêu hạnh nguyện

tuệ giác tối thượng

của chư Như Lai

trong ba thì gian,

tôi tôn thờ cả

và tu đầy đủ:

vận dụng tất cả

hạnh nguyện Phổ Hiền

tôi giác ngộ được

vô thượng bồ đề.

(42) Tất cả Như Lai

đều có trưởng tử,

cùng một danh hiệu

danh hiệu Phổ Hiền (22) ;

nay tôi hồi hướng

bao nhiêu thiện căn (23),

nguyện bao trí tuệ

đồng đẳng các vị.

(43) Cả thân miệng ý

thường xuyên trong sáng,

hạnh nguyện, quốc độ,

cũng đều như vậy:

trí tuệ đến thế

nên tên Phổ Hiền,

nguyện tôi đồng đẳng

với các vị ấy.

(44) Tôi vì trong sáng

hạnh nguyện Phổ Hiền,

nên bao hạnh nguyện

của ngài Văn Thù,

tôi tu đủ cả

không có thiếu sót,

cùng tận vị lai

không hề mỏi mệt.

(45) Sự tu của tôi

không có hạn lượng,

công đức đạt được

cũng không số lượng;

đứng vững ở trong

vô lượng hạnh nguyện,

tôi thấu triệt hết

bao thần thông lực.

(46) Trí hạnh Văn Thù

cực kỳ dũng mãnh,

tuệ hạnh Phổ Hiền

cũng là như vậy;

nay tôi hồi hướng

bao nhiêu thiện căn,

để theo các ngài

thường xuyên tu học.

(47) Các đại nguyện vương

tối thắng như vầy

được sự ca tụng

của chư Như Lai,

nay tôi hồi hướng

bao nhiêu thiện căn

để được hạnh nguyện

Phổ Hiền tối thượng (24).

(48) Nguyện tôi trong lúc

sinh mệnh sắp chết,

thì loại được cả

mọi sự trở ngại,

trực tiếp nhìn thấy

đức A Di Đà,

tức khắc được sinh

thế giới Cực lạc.

(49) Tôi đã sinh ra

thế giới ấy rồi,

trước mắt thành tựu

đại nguyện vương này,

thành tựu đầy đủ

không có thiếu sót,

lợi lạc tất cả

thế giới chúng sinh.

(50) Bồ tát hải hội

của đức Di Đà

ai cũng trong sạch,

còn tôi lúc ấy

hóa sinh ở trong

hoa sen tối thắng,

đích thân nhìn thấy

đức A Di Đà,

và ngài đối diện

thọ ký cho tôi

thành tựu tuệ giác

vô thượng bồ đề.

(51) Nhờ ơn của ngài

thọ ký cho rồi,

tôi liền biến thể

vô số thân hình,

với trí tuệ lực

cực kỳ rộng lớn,

tôi làm lợi lạc

tất cả chúng sinh.

(52) Hư không cho đến

phiền não cùng tận,

đại nguyện của tôi

mới có cùng tận,

nhưng bốn thứ ấy

không có cùng tận,

đại nguyện của tôi,

cũng không cùng tận.

(53) Ai đem bảo vật

đầy cả thế giới

khắp mười phương hướng

mà hiến cúng Phật,

lại cho trời người

hạnh phúc tuyệt vời,

và làm như vậy

trải qua thời kỳ

bằng số cực vi

của mọi thế giới;

(54) và ai đối với

đại nguyện vương này

một lần nghe đến

mà sinh tin tưởng,

với sự khao khát

Vô thượng Bồ đề,

thì được công đức

quá hơn người trước.

(55) Và rồi xa rời

bạn bè xấu ác,

với lại xa hẳn

các nẻo đường dữ,

mau chóng nhìn thấy

đức A Di Đà,

và đủ hạnh nguyện

Phổ Hiền tối thượng.

(56) Người ấy khéo được

đời sống đặc thù,

người ấy khéo sinh

ở trong loài người,

người ấy không lâu

sẽ được hoàn thành

hạnh nguyện y như

Phổ Hiền đại sĩ.

(57) Nếu mà xưa kia

không có trí tuệ

nên tạo năm tội

địa ngục Vô gián,

nhưng nếu ngày nay

tụng đại nguyện vương

của đức Phổ Hiền,

thì một sát na

tiêu diệt tức thì

năm tội như vậy.

(58) Lại còn toàn hảo

dòng họ, thành phần,

sắc tướng, trí tuệ,

quân đội ma vương (25)

và những ngoại đạo

không thể đánh đổ,

kham được ba cõi

cùng nhau hiến cúng.

(59) Và mau đến ngồi

dưới Bồ đề thọ,

chiến thắng các đạo

quân đội ma vương,

thành Đẳng chánh giác

chuyển diệu pháp luân,

lợi lạc hết thảy

các loại chúng sinh.

(60) Thế nên những ai

đối với hạnh nguyện

của đức Phổ Hiền

mà biết tiếp nhận,

ghi nhớ, đọc tụng,

và nói cho người,

thì được kết quả

chỉ Phật mới biết,

quyết định thực hiện

Vô thượng Bồ đề.

(61) Người nào trì tụng

hạnh nguyện Phổ Hiền,

mà tôi nói về

chút ít thiện căn,

là một sát na

họ đủ tất cả

đại thanh tịnh nguyện

tác thành chúng sinh.

(62) Hạnh nguyện Phổ Hiền

tối thượng của tôi,

vô biên thắng phước

tôi hồi hướng cả,

nguyện bao chúng sinh

đang còn chìm đắm,

mau chóng được sinh

thế giới Cực lạc

của đức Thế Tôn

A Di Đà Phật.

Bấy giờ, trước đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Phổ Hiền đại sĩ nói những lời chỉnh cú trong sáng về đại nguyện vương Phổ Hiền rồi, Thiện Tài đồng tử phấn chấn vô lượng, các vị Bồ tát cùng đại hoan hỷ, và đức Như Lai tán dương, răèng lành thay, lành thay! (26)

Khi đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai cùng các vị Bồ tát đại sĩ nói về pháp môn"Lĩnh vực giải thoát bất khả tư nghị"thì các đại Bồ tát và sáu ngàn Tỷ kheo đã được thành thục do Văn Thù đại sĩ làm thượng thủ; các đại Bồ tát thuộc về hiền kiếp do Di Lạc đại sĩ làm thượng thủ; các đại Bồ tát chỉ còn một đời nữa là bổ xứ lên ngôi Pháp vương, cùng với các đại Bồ tát nhiều bằng số lượng cực vi của biển cả thế giới cùng đến pháp hội này, do Phổ Hiền đại sĩ (27) làm thượng thủ; các đại Thanh văn do các tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên làm thượng thủ; cùng với hết thảy thế chúa, tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, toàn thể đại hội như vậy nghe những điều đức Như Lai tuyên thuyết thì ai cũng đại hoan hỷ, tín thọ, phụng hành (28).

Nam Mô Hoa Nghiêm Giáo Chủ Tỳ Lô Giá Na Như Lai.

Nam Mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.

Nam Mô Như Lai Trưởng Tử Phổ Hiền Bồ tát Ma ha tát.

Ghi chú:

(1) Là Báo thân của đức Thích Ca.

(2) Chỉ cho Hoa Nghiêm 40 cuốn.

(3) Hạnh nguyện, đúng ra là hành nguyện: chí nguyện và việc làm bất khả phân, gọi là hạnh nguyện. Phổ Hiền: Cát Tường một cách toàn diện. Hạnh nguyện Phổ Hiền có hai nghĩa: Có nghĩa là hạnh nguyện của đức Phổ Hiền, nhưng cũng có nghĩa là hạnh nguyện có đặc tính Phổ Hiền.

(4) Thời kỳ: Dịch chữ kiếp. Đúng ra phải dịch là thời kỳ dài, và có 3 bậc: Thời kỳ dài nhỏ (tiểu kiếp), thời kỳ dài vừa (trung kiếp), thời kỳ dài lớn (đại kiếp).

(5) Cực vi (hay vi trần, cực vi trần) là bụi rất nhỏ, tưởng tượng cũng không phân tích được nữa.

(6) Hai lần không thể nói là một trong các cấp số rất nhiều.

(7) Sát na (niệm) là đơn vị ngắn nhất của thì gian, chỉ như ý nghĩ thoạt hiện hay thoạt biến.

(8) Hải hội: Đại hội đông như biển.

(9) Dịch theo đại sư Thái Hư.

(10) Đúng chính văn ở đây là sám trừ: sám hối trừ diệt.

(11) Không phải là một bài 4 câu chỉnh cú thuộc thể văn chỉnh cú, mà bất cứ thể văn chỉnh cú hay thể văn trường hàng, hễ 32 chữ liên tiếp, thành 4 câu, mỗi câu 8 chữ, thì gọi là một bài chỉnh cú 4 câu.

(12) Dịch theo Phật học đại từ điển của Đinh Phúc Bảo. Nguyên tên dịch âm thì thứ tự như sau: dạ xoa, la sát, cưu bàn trà, tì xá xà, bộ đa.

(13) Đại nguyện vương (hay nguyện vương), đại nguyện là hạnh nguyện vĩ đại, đại nguyện vương là đại nguyện chúa tể của đại nguyện. Cũng có trường hợp đại nguyện vương chỉ cho đức Phổ Hiền: vị chúa tể của đại nguyện.

(14) Chính văn là"sở hữu lễ tán cúng dường Phật’’. Câu này nếu nói rõ là sở hữu lễ Phật, tán Phật, cúng dường Phật. Vậy chữ Phật chữa thành chữ Phước là rất sai.

(15) Mười hai bài chỉnh cú này nói về 8 đại nguyện: 1-2 là lễ kính Phật đà; 3-4 là 2 tán dương Như Lai; 5-7 là 3 hiến cúng rộng lớn; 8 là 4 sám hối nghiệp chướng; 9 là 5 tùy hỷ công đức; 10 là 6 xin chuyển pháp luân; 11 là 7 xin Phật ở đời; 12 là, theo ý đại sư Thái Hư, nói trước một cách tổng quát về đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả.

(16) Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 13-14 này là đại nguyện 8 thường học theo Phật.

(17) Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 15-16 này là đại nguyện 9 hằng thuận chúng sinh.

(18) Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 17-47 sau đây là đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả, nói đầy đủ hơn. Tựu trung chia ra hai đoạn lớn: đoạn một, các chỉnh cú 17-38 là phát thêm 10 nguyện nhỏ, đoạn hai, các chỉnh cú 39-47 là tổng kết hồi hướng về 10 đại nguyện.

(19) Lậu, dịch đúng là rỉ lọt, mà ở đây là sai sót, sơ hở, sơ suất.

(19b) Nghĩa là nhiều như cực vi trên đầu sợi lông.

(20) Dịch đủ: Thiền định, trí tuệ, phương tiện.

(21) Coi lại ghi chú 18. Ở đó đã nói các chỉnh cú 17-38 là phát thêm 10 nguyện nhỏ, đó là:

1. 17-18 là nguyện hộ vệ chánh pháp,

2. 19-20 là nguyện tự lợi lợi tha,

3. 21-22 là nguyện thành thục chúng sinh,

4. 23-24 là nguyện không rời đồng hành,

5. 25-26 là nguyện hiến cúng chánh pháp,

6. 27-28 là nguyện được lợi công đức,

7. 29-31 là nguyện chuyển đẩy pháp luân,

8. 32-33 là nguyện nhập cảnh giới Phật,

9. 34-35 là nguyện phụng sự chư Phật,

10. 36-38 là nguyện mau thành chánh giác.

(22) Coi lại ghi chú 3. Tất cả chữ Phổ Hiền, trong trường hàng cũng như chỉnh cú, có 3 nghĩa. Một, có khi chỉ cho đức Phổ Hiền, thì viết hoa. Hai, đa số chỉ cho tính cách phổ hiền, thì viết thường. Ba, có khi chỉ cho các đức Phổ Hiền khác, thì cũng viết hoa.

(23) Chữ này, ở đây và ở dưới, là chỉ cho mười hạnh nguyện Phổ Hiền.

(24) Coi lại ghi chú 18. Ở đó đã nói, theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 39-47 là tổng kết hồi hướng về 10 đại nguyện. Gồm lại, các chỉnh cú 17-47 là nói về đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả.

(25) Có 2 nghĩa, nghĩa chính là quân đội của ma vương thật; nghĩa nữa là dục vọng, cũng gọi là quân đội của ma vương. Chưa kể có nơi từ ngữ này còn nói đến cơ thể (ngũ âm) sự chết và phiền não.

(26) Phẩm này đáng lẽ chấm hết ở đây mới phải.

(27) Đúng chính văn là Vô cấu Phổ Hiền đại sĩ.

(28) Đoạn này là lời kết cả bộ kinh Hoa Nghiêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com